Bài viết chọn lọc về chiến dịch Điện Biên Phủ - Mẫu 1
Hơn 60 năm đã trôi qua, nhưng Chiến dịch Điện Biên Phủ (1953-1954) vẫn là một chiến công vang dội trong lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc Việt Nam. Chiến dịch này đã đánh bại quân đội viễn chinh Pháp, với sức mạnh quân sự vượt trội và trang bị hiện đại, thể hiện lòng kiên cường và tinh thần bất khuất của người Việt.
Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là một chiến thắng vĩ đại trong lịch sử Việt Nam mà còn là sự kiện có ý nghĩa lịch sử to lớn, vượt thời gian. Những bài học từ chiến thắng này vẫn còn giá trị lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chiến thắng Điện Biên Phủ, được coi là đỉnh cao của sự lãnh đạo chiến lược của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện sự kiên cường và đoàn kết của toàn dân tộc Việt Nam. Đây là biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần cách mạng, và sức mạnh của quân đội nhân dân, phản ánh trí tuệ và bản lĩnh Việt Nam trong quyết tâm đạt được chiến thắng.
Chiến thắng Điện Biên Phủ không chỉ là thành công của Việt Nam mà còn là minh chứng cho tình đoàn kết bền vững giữa quân đội và nhân dân ba nước Đông Dương, cùng sự hỗ trợ từ các quốc gia anh em và bạn bè quốc tế. Sự kiện này đã thay đổi cục diện toàn cầu, khẳng định sức mạnh chính nghĩa của Việt Nam và các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới.
Với tầm quan trọng và ý nghĩa sâu sắc, chiến thắng Điện Biên Phủ mãi là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, là động lực lớn lao cho các thế hệ tiếp theo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Chiến dịch này chứng minh rằng với sự đoàn kết, quyết tâm và trí tuệ, dân tộc Việt Nam có thể vượt qua mọi thử thách để đạt được vinh quang.
Kể lại sự kiện chiến dịch Điện Biên Phủ chọn lọc hay nhất - Mẫu số 2
Trong quá trình chuẩn bị cho chiến dịch Điện Biên Phủ, mật danh 'Trận Đình,' quân và dân ta đã đồng lòng mở đường và tạo điều kiện thuận lợi cho thành công của chiến dịch. Công binh, bộ binh và thanh niên xung phong đã phối hợp vượt qua mọi khó khăn để mở ra những tuyến đường chiến lược quan trọng. Dưới kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954, công việc sửa chữa và mở đường diễn ra không ngừng bất chấp bom đạn từ đối phương.
Tại các bến đò và những đèo cao, nơi địch ra sức ném bom và bắn phá, công tác mở đường và đảm bảo thông tuyến vận chuyển vẫn được duy trì đều đặn. Trên các con đường thủy, nhiều thanh niên và bộ đội đã chịu đựng sự lạnh giá của nước, phá thác, phá ghềnh để thông suối, giúp các đoàn thuyền và bè vận chuyển gạo thóc về chiến dịch. Đặc biệt trên đường bộ, hàng ngàn thanh niên nam nữ đã đục núi, mở đèo để đưa pháo vào trận địa. Hình ảnh những người kéo pháo lên núi giữa mưa bom bão đạn thật sự là sự kết hợp của sự gian khổ và dũng cảm. Cùng với đó, đông đảo dân công hỏa tuyến đã dùng quang gánh và xe đạp thồ để vận chuyển lương thực và đạn dược ra tuyến đầu dù đối mặt với mọi hiểm nguy.
Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu lúc 17 giờ ngày 13/03/1954, khi pháo từ trên núi bắn dữ dội vào đồi Him Lam, phân khu Trung tâm và sân bay Mường Thanh. Quân địch hoảng sợ và trốn vào các hầm hào. Dù chúng đã phản công, nhưng bị quân ta đánh trả quyết liệt.
Vào ngày 30/3, chúng ta bước vào giai đoạn hai với các cuộc tấn công vào các đồi phía đông như F và D, đặc biệt là đồi A1. Cuộc chiến tại đây diễn ra vô cùng ác liệt trên từng tấc đất. Địch cố thủ trong các hầm ngầm và địa đạo kiên cố, còn quân ta không ngừng đào các giao thông hào, đặc biệt là đào hầm vào tận căn cứ của địch.
Đợt cuối cùng của chiến dịch diễn ra vào ngày 3/5 khi quân ta tiến sâu vào trung tâm, chỉ cách sở chỉ huy địch khoảng 300 mét. Địch đã thả tiểu đoàn dù cuối cùng với hy vọng phá vây chạy qua Lào, nhưng toàn bộ pháo binh và đặc biệt là đại đội hỏa tiễn 6 nòng của ta đã bắn dồn dập, làm thất bại âm mưu này. Lúc 21 giờ ngày 6/5, khối bột phá gần 1 tấn đặt giữa đồi bằng đường ngầm đã nổ tung, mở đường cho lệnh tổng tiến công. Đến 17 giờ 30 ngày 7/5, tướng Đờ Cát-tơ-ri cùng toàn bộ tham mưu đã phải đầu hàng. Ngọn cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của Hồ Chủ tịch phất cao trên nóc hầm của tên tướng này.
Khi xem lại những trận đánh ác liệt qua bộ phim, em không khỏi cảm phục tinh thần dũng cảm của bộ đội ta, những người đã tạo nên một chiến thắng chấn động toàn cầu như nhà thơ Tố Hữu đã viết.
'Chín năm hy sinh vì Điện Biên'
Để thành lập vành hoa đỏ, ghi dấu thiên sử vàng.'
Tinh thần kiên cường và bất khuất của quân và dân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ sẽ luôn là nguồn động viên, là biểu tượng cho sức mạnh và lòng yêu nước của dân tộc Việt Nam.
Kể lại sự kiện chiến dịch Điện Biên Phủ chọn lọc hay nhất - Mẫu số 3
Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là một dấu mốc vĩ đại trong lịch sử bảo vệ và xây dựng đất nước của dân tộc Việt Nam, để lại nhiều bài học quý báu về cả lịch sử và hiện tại. Một trong những bài học quan trọng nhất là ý chí kiên cường và quyết tâm giành độc lập của Đảng và nhân dân ta, một bài học vẫn còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.
Sau gần tám năm trở lại xâm lược Việt Nam (1945 - 1953), thực dân Pháp không những không đạt được mục tiêu mà còn bị sa lầy trước sức mạnh kháng chiến của quân và dân ta. Trong tình hình ngày càng khó khăn, chính phủ Pháp buộc phải cử tướng Henri Navarre, người được xem là tài ba nhất lúc bấy giờ, đến Đông Dương với hy vọng thay đổi tình hình. Navarre đã triển khai kế hoạch chiến lược mang tên 'Kế hoạch Navarre,' tập trung lực lượng cơ động chiến lược ở Đồng bằng Bắc Bộ để lấy lại thế chủ động. Nhờ sự hỗ trợ của đế quốc Mỹ, thực dân Pháp đã biến Điện Biên Phủ thành một cứ điểm phòng thủ kiên cố, được xem là 'pháo đài không thể bị phá vỡ.'
Trước tình hình đó, Đảng ta đã lãnh đạo và tuyên truyền, giáo dục quân và dân nhận thức rõ âm mưu của thực dân Pháp. Đảng đã huy động toàn bộ lực lượng để phá vỡ Kế hoạch Navarre và chuẩn bị cho một chiến dịch lớn. Sau nhiều tháng chuẩn bị và trải qua 55 ngày đêm chiến đấu kiên cường, dũng cảm, vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ “Quyết chiến, Quyết thắng” của quân ta tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Cát (De Castries). Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, được coi là bất khả chiến bại, đã bị quân và dân ta đánh bại. Thắng lợi này là kết quả của nhiều yếu tố, trong đó ý chí và quyết tâm giành độc lập đã tạo nên sức mạnh quyết định.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là minh chứng rõ nét cho sự lãnh đạo kháng chiến đúng đắn, bản lĩnh và trí tuệ sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Chiến dịch. Ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định đường lối kháng chiến, quân sự độc lập, tự chủ, chính xác và sáng tạo.
Trong trận quyết chiến chiến lược này, lòng yêu nước và khát vọng độc lập, tự do của nhân dân ta đã tạo nên tinh thần quyết chiến, quyết thắng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Chiến dịch này là một chiến dịch lịch sử của quân đội ta, chiến thắng nó có ý nghĩa quân sự và chính trị to lớn.”
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã khẳng định sức mạnh của ý chí quyết tâm 'thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ' của quân và dân ta. Với vũ khí thô sơ và tinh thần “Cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh,” nhân dân cả nước đã đồng lòng kháng chiến, phát huy tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, góp sức, của cải, bảo đảm mọi điều kiện cần thiết cho chiến trường.
Tinh thần dũng cảm và hy sinh của quân và dân ta chính là yếu tố then chốt tạo nên chiến thắng Điện Biên Phủ. Trong chiến dịch này, chúng ta đối mặt với nhiều khó khăn từ nguồn lực quân sự, kinh tế đến địa hình hiểm trở và khoảng cách xa hậu phương. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta đã huy động tối đa sức người, sức của, bao gồm thanh niên xung phong và dân công hỏa tuyến, với số lượng lên tới hàng chục vạn người, tổ chức chặt chẽ, cùng bộ đội đào giao thông hào và làm đường dã chiến trong điều kiện rừng núi Tây Bắc đầy bom đạn. Với ý chí quyết chiến, quyết thắng, trí thông minh, lòng quả cảm và niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng, trong hơn một tháng, bộ đội và thanh niên xung phong đã hoàn thành khối lượng công việc khổng lồ: mở hàng trăm tuyến hào, sửa đường từ Tuần Giáo tới Điện Biên Phủ (dài 82 km), tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai pháo hạng nặng (105mm) vào trận địa một cách an toàn và bí mật. Điều này đã làm quân Pháp bất ngờ. Dù quân đội ta đông hơn về số lượng, nhưng kinh nghiệm chiến đấu công kiên chưa nhiều và vũ khí kém hiện đại hơn địch.
Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ không chỉ là thành quả của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam, mà còn là bài học sâu sắc về ý chí quyết tâm giành độc lập của Đảng và nhân dân ta. Mặc dù hiện nay công cuộc cách mạng vẫn đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức, nhưng với tinh thần và bài học từ Điện Biên Phủ, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước sẽ tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn trong thời kỳ mới.
Kể lại sự kiện chiến dịch Điện Biên Phủ chọn lọc hay nhất - Mẫu số 4
Chiến dịch Điện Biên Phủ là đỉnh cao của cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954 của quân và dân ta.
Toàn bộ chiến dịch Điện Biên Phủ diễn ra trong năm mươi sáu ngày đêm, chia thành ba đợt tấn công. Từ ngày 13 đến 17 tháng 3 năm 1954, chúng ta đã tiêu diệt hai cứ điểm phòng thủ kiên cố nhất là Him Lam và Độc Lập, mở rộng cánh cửa phía Bắc và Đông Bắc để quân ta tiến vào lòng chảo và khu trung tâm. Đợt 2 từ ngày 30 tháng 3 đến ngày 30 tháng 4 năm 1954, chúng ta kiểm soát các điểm cao, khu trung tâm Điện Biên Phủ nằm trong tầm bắn của các loại súng ta. Quân địch rơi vào thế bị động và tinh thần suy sụp. Đợt 3 từ ngày 1 đến 7 tháng 5 năm 1954, quân ta tiến hành tổng công kích vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Vào ngày 7 tháng 5 năm 1954, chiến dịch Điện Biên Phủ hoàn toàn thắng lợi. Quân và dân ta đã phá tan tập đoàn cứ điểm “mạnh nhất Đông Dương” - “pháo đài bất khả xâm phạm” của thực dân Pháp.
Chiến thắng Điện Biên Phủ có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với dân tộc Việt Nam. Trước tiên, thắng lợi này đã kết thúc chín năm kháng chiến gian khổ nhưng đầy anh hùng chống thực dân Pháp của quân và dân ta. Chiến thắng này không chỉ ghi dấu ấn chói lọi trong lịch sử dân tộc mà còn trở thành biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng và sức mạnh thời đại. Với thất bại này, thực dân Pháp buộc phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ (7/1954) để chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương, đồng thời kết thúc ách thống trị kéo dài hàng thế kỷ của thực dân Pháp. Đây là bước ngoặt quan trọng mở ra giai đoạn phát triển mới cho cách mạng Việt Nam, Lào, Campuchia, khẳng định đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và mở ra thời kỳ mới trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã làm dâng cao niềm tự hào dân tộc và niềm tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đồng thời, chiến thắng này cổ vũ toàn Đảng, toàn dân đoàn kết chiến đấu dưới ngọn cờ vẻ vang của Đảng vì nền độc lập và tự do của Tổ quốc.