Hai tuần trước khi ra đi vào tháng Tám năm 2015, Tiến sĩ Oliver Sacks đã tạo ra nội dung cho Dòng cuộc sống ý thức, cuốn sách cuối cùng từ những bài luận khoa học nổi tiếng của ông. Sacks giám sát, và ủy thác cho Kate Edgar, Daniel Frank, Bill Hayes sắp xếp và biên tập để xuất bản.
Tiến sĩ Sacks muốn dành tặng cuốn sách này cho biên tập viên kiêm cố vấn của mình, cùng tình bạn hơn 30 năm với Robert Silvers, người đầu tiên đăng tải một số nội dung trong cuốn sách này lên tạp chí The New York Review of Books.
Cuốn sách này gồm có 10 bài trình bày xuất sắc nhất của Tiến sĩ Oliver Sacks về các chủ đề như khoa học thần kinh, y học, hóa học, nghệ thuật, sự tiến hóa, thực vật học với sự tôn trọng chính thức của những nhà khoa học và nhà sáng tạo vĩ đại nhất như Darwin, Freud, William James…
Mỗi chủ đề, tác giả luôn có những ví dụ minh họa, giải thích, những mô tả chi tiết, dễ hiểu, người đọc dễ tiếp cận nhất là khi viết về các lĩnh vực khoa học chuyên ngành với nhiều từ ngữ chuyên môn.
Khả năng mắc lỗi của bộ não
Tiến sĩ Sacks chỉ ra những khả năng phạm phải của trí não dựa trên những trải nghiệm cá nhân, đồng thời cung cấp lý giải và phân tích chi tiết để người đọc dễ dàng hiểu nhất.
Đối với bản thân, Tiến sĩ nhận thức rằng mình có thể đã quên hoặc mất một số điều, nhưng vẫn tin rằng những kí ức đặc biệt, cụ thể và chi tiết vẫn có giá trị và đáng tin cậy. Tuy nhiên, ông sốc khi phát hiện ra rằng một số kí ức trong thực tế đã bị biến đổi. Ví dụ, trong cuốn Uncle Tungsten (Chú Tungsten), ông mô tả về hai vụ đánh bom gần nhà, nhưng anh trai của ông - Michael - phủ nhận rằng ông không có mặt ở vụ đánh bom thứ hai, chỉ nghe kể qua một bức thư của anh trai khác, David. Điều này không chỉ làm ông bị mê hoặc mà còn tạo ra một kí ức giả mạo trong tâm trí ông.
Dù ông biết rằng kí ức là giả mạo, nó vẫn hiện lên một cách thực tế và mãnh liệt trong tâm trí. Ông tự hỏi liệu nó có thể trở thành một kí ức chính thống hay không, và liệu phân tâm học hoặc kỹ thuật chụp hình não có giúp phân biệt được không?
Mọi người chúng ta đều chia sẻ những trải nghiệm một cách nào đó, và đôi khi không biết chắc liệu một trải nghiệm là thật sự hay chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Điều này đặc biệt đúng với những ký ức sớm nhất của con người.
Các trường hợp quên có thể dẫn đến việc tái sử dụng văn bản một cách không ý thức, khi tác giả sao chép từ nguồn khác mà không nhận ra. Điều này có thể kèm theo các triệu chứng đãng trí. Sự trùng lặp này có thể tương đương với hội chứng mất trí Cryptomnesia - sự mất trí không có ý thức. Dù gọi là “đạo văn vô thức” thì việc này vẫn là không đạo đức, gợi lên tội lỗi và gian dối.
Khả năng biến đổi của kí ức, hay cố ý ám chỉ, có thể gây ra những hậu quả đáng sợ.
Từ phiên tòa dị giáo và phiên xét xử phù thủy ở Salem đến các phiên tòa của Liên Xô trong thập kỷ 1930 và nhà tù nổi tiếng Abu Ghraib, nhiều hình thức tra tấn thể xác và tinh thần đã được sử dụng để ép buộc thú tội về tôn giáo hoặc chính trị, nhưng còn thậm chí là để thực sự tẩy não, thay đổi suy nghĩ, lấp đầy tâm trí với những câu chuyện được cấy ghép…
Theo tác giả, trong những trường hợp như đã nói - bất kể là ký ức thực sự hay đã được tạo ra, việc tẩy não, việc đạo văn - rõ ràng là nếu không có xác nhận từ bên ngoài, không có cách nào phân biệt được giữa một ký ức hoặc nguồn cảm hứng thực sự và một ký ức vay mượn hoặc được gợi ý, cái mà Donald Spence gọi là “sự thật lịch sử” và “sự thật tường thuật”.
2.Cười về những lần hiểu lầm
Tác giả ghi lại những lần hiểu lầm của mình, đánh dấu trong sổ tay với nhãn “rối loạn thính giác” về những gì mình nghe (màu đỏ), những gì thực sự được nói (màu xanh lá), cũng như phản ứng của người khác trước những hiểu lầm (màu tím), và những giả thuyết thường không có ý nghĩa khi cố gắng hiểu những điều mà về cơ bản không liên quan.
Phát âm không rõ ràng, trọng âm bất thường hoặc truyền tải không rõ ràng đều có thể dẫn đến sự hiểu lầm của người nghe. Hầu hết các trường hợp hiểu lầm thường thay thế từ ngữ thực tế bằng từ ngữ khác, bất kể có hợp lý hay không, và đôi khi bộ não còn tạo ra một từ mới.
Khi nghe nhầm, não bộ sử dụng con đường nhận thức thông thường và cho rằng những trải nghiệm đó là thực tế, do đó thường không được đặt câu hỏi. Tuy nhiên, vì tất cả các thông tin mà chúng ta nhận được đều mơ hồ và hạn chế từ các giác quan, nên khả năng sai sót và bị đánh lừa luôn tồn tại.
Các cơ chế thần kinh - kết hợp với tính mở và không đoán trước của ngôn ngữ - có thể dẫn đến việc phá hỏng ý nghĩa, tạo ra sự hiểu lầm không liên quan cả về bối cảnh và động cơ tiềm thức.
Theo tác giả, trong một mức độ nào đó, những lần sáng tạo tức thì này phản ánh sở thích và trải nghiệm của một người. Ví dụ, tác giả nhầm lẫn lịch sử về căn bệnh ung thư, biến nó thành tiểu sử của Cantor (một trong những nhà toán học mà tác giả hâm mộ)...
Bản thân tôi trong sáng tạo
Vấn đề về sự sáng tạo thường được đề cập trong cuộc sống hàng ngày. Bạn có bao giờ tự hỏi liệu mình đã thực sự sáng tạo chưa, và sự sáng tạo là gì, nền tảng của nó là gì. Sự khác biệt giữa sự sáng tạo đầy đồng thuận - sự kết hợp sâu sắc giữa sở hữu và trải nghiệm - và sự mô phỏng đơn thuần là gì?
Trong cuốn sách Origins of the Modern Mind (Nguồn Gốc của Tâm Trí Hiện Đại), Merlin Donald đã nhìn nhận 'văn hóa mô phỏng' như một giai đoạn quan trọng trong sự phát triển của văn hóa nhận thức. Ông phân biệt rõ giữa mô phỏng, bắt chước, tái tạo…
Tác giả nhấn mạnh rằng việc bắt chước đóng vai trò quan trọng không chỉ trong nghệ thuật biểu diễn, nơi mà nghệ sĩ phải liên tục tập luyện, lặp lại và rèn luyện, mà còn trong hội họa, soạn nhạc và viết lách. Tất cả những nghệ sĩ trẻ đều tìm kiếm hình mẫu trong những năm học của họ, những người có phong cách, kỹ thuật thành thạo có thể dạy họ.
Sự sáng tạo không chỉ bao gồm nhiều năm chuẩn bị và đào tạo có ý thức, mà còn có sự chuẩn bị vô thức. Giai đoạn ấp ủ này là cần thiết để cho phép quá trình đồng hóa, kết hợp tiềm thức các nguồn và sức ảnh hưởng của một người xảy ra, sau đó tổ chức lại và tổng hợp thành một thứ gì của riêng người đó.
…Một mặt, chúng ta đều mượn từ nền văn hóa xung quanh. Các ý tưởng rải rác khắp nơi và có thể được chiếm dụng, thường không nhận ra, cụm từ và ngôn ngữ của thời đại. Chúng ta tìm thấy nó, trưởng thành với nó;...Vấn đề không phải là “mượn”, “bắt chước”, “phát sinh” hay “bị ảnh hưởng” mà là người ta làm gì với những thứ đó, mức độ mà họ đồng hóa, kết hợp nó với trải nghiệm , suy nghĩ, và cảm xúc của mình, đặt nó trong mối quan hệ với chính mình, và thể hiện nó theo cách mới - cách riêng của mỗi người.
Cảm giác rối loạn tổng thể
Cảm giác rối loạn tổng thể, rối loạn cực độ trong não, lo lắng, khó chịu hoặc đau đầu… phụ thuộc vào sự ổn định của môi trường nội bên trong cơ thể.
Việc duy trì sự ổn định này được gọi là cân bằng nội môi. Những điều cơ bản của cân bằng nội môi tương đối đơn giản nhưng có hiệu quả kỳ diệu ở cấp độ tế bào, nơi các máy bơm ion trong màng tế bào cho phép các chất bên trong tế bào duy trì ở mức ổn định, bất kể những sự thay đổi của môi trường bên ngoài.
Việc duy trì cân bằng nội môi được thực hiện thông qua sự phát triển của các tế bào thần kinh đặc biệt và các mạng lưới thần kinh (hay đám rối/ hệ thống mô sợi) phân bố khắp cơ thể sinh vật, cũng như qua các phương tiện hóa học trực tiếp (ví dụ như các hormone).
Antonio Damasio trong cuốn Cảm nhận về những gì sắp xảy ra đã đề cập đến “ý thức cốt lõi” về cảm giác cơ bản về việc cảm nhận như thế nào, thứ cuối cùng trở thành một cảm giác mơ hồ tiềm ẩn về ý thức. Đặc biệt khi mọi thứ có vấn đề từ bên trong - cân bằng nội môi không được duy trì, cân bằng tự chủ nghiên về bên này hoặc bên kia - sẽ gây ra sự lo lắng, khó chịu.
Việc duy trì và cân bằng nội môi của cơ thể ở các hệ thần kinh trung ương cùng với các cơ, cơ quan quản giác, hệ thần kinh tự chủ, các bộ phận giao cảm và phó giao cảm rất quan trọng, kiểm soát cơ quan trong cơ thể, mài giũa các cơ quan và căng cơ, đồng thời thúc đẩy sự thư giãn và giấc ngủ.
Darwin và ý nghĩa của những bông hoa
Charles Darwin, một nhà quan sát tinh tế và đam mê thu thập các ví dụ, nhiều trong số đó đến từ những thư ghi chú đồ sộ với bệnh nhân và đồng nghiệp.
Darwin - chàng trai 22 tuổi bắt đầu hành trình trên con tàu thám hiểm Beagle để đi đến tận cùng Trái Đất; Darwin đến Patagonia; Darwin trên thảo nguyên Argentina; Darwin ở Nam Mỹ, thu thập xương các loài động vật khổng lồ bị tuyệt chủng; Darwin ở Úc; và không thể quên quần đảo Galapagos, nơi ông quan sát các loài chim sẻ trên đảo, bắt đầu trải nghiệm một sự thay đổi đột ngột trong hiểu biết về cách tiến hóa của các loài sinh vật sống, mà một phần quan trọng là sự ra đời của tác phẩm Nguồn gốc các loài.
Darwin là một nhà nghiên cứu xuất sắc luôn quan tâm đến “cách thức” và “nguyên nhân” trong cấu trúc và hành vi của thực vật, không chỉ là nghiên cứu “cái gì”. Việc nghiên cứu thực vật của ông luôn tràn đầy cảm hứng cho mục đích tìm ra các lý thuyết, mục đích có liên quan đến sự tiến hóa và chọn lọc tự nhiên.
Vào thế kỷ 18, nhà khoa học người Thụy Điển Carl Linnaeus đã chỉ ra rằng hoa có các cơ quan sinh dục (nhụy hoa và nhị hoa). Hầu như mọi người đều tin rằng hoa tự thụ tinh. Nhưng Darwin cảm thấy buộc phải đặt câu hỏi về ý tưởng thụ tinh, ông đã viết: “Chẳng phải những loài thực vật có cơ quan sinh dục đực và cái đều cùng chịu ảnh hưởng từ các loài thực vật khác?” Ông lý luận rằng nếu thực vật phải tiến hóa, quá trình thụ tinh chéo là rất quan trọng - nếu không, không có sự thay đổi nào có thể xảy ra, và thế giới mãi bị mắc kẹt với một loài thực vật duy nhất, tự sinh sản thay vì những giống loài cực kỳ đa dạng trong thực tế. Vào đầu thập niên 1940, Darwin bắt đầu thử nghiệm lý thuyết của mình thông qua phân tích nhiều loài hoa và chứng minh rằng nhiều loài trong số này có các thuộc tính cấu trúc có khả năng ngăn chặn hoặc giảm thiểu quá trình tự thụ tinh.
Tốc độ trong thế giới tự nhiên
Tốc độ ẩn chứa trong mọi ngõ ngách của thế giới tự nhiên, như mọi người di chuyển với tốc độ khác nhau, động vật cũng vậy, sự sinh trưởng của thực vật (khá khó để quan sát chúng chuyển động). Những trải nghiệm đó đưa tác giả đến với nhiếp ảnh, một bộ môn cho phép thay đổi tốc độ chuyển động, tăng tốc, giảm tốc để có thể nhìn thấy các chi tiết chuyển động hoặc thay đổi khi mắt thường khó có thể nhìn thấy được. Ví dụ cây cối phát triển và thay đổi như những luồng hơi…những tòa nhà khổng lồ mọc lên mờ ảo và trôi qua như những giấc mơ.
Việc thay đổi chuyển động nhanh, chậm cũng không dễ dàng nếu không tìm hiểu và có những kỹ năng nhất định.
Thời gian cũng rất đặc biệt. Chắc hẳn mọi người cảm thấy giờ và phút vẫn dường như quá dài khi buồn chán và quá ngắn khi bận rộn. Ví dụ khi tác giả còn nhỏ bị buộc phải nghe giảng một cách thụ động trên trường học, lén nhìn đồng hồ đếm từng phút để được tự do thì kim phút và thậm chí kim giây di chuyển chậm chạp đến vô tận; quả thật khi buồn chán, người ta không còn ý thức về bất cứ điều gì khác ngoài thời gian.
Tác giả hứng thú khi suy nghĩ và thực hiện các thử nghiệm trong phòng thí nghiệm nhỏ tại nhà mà không nhận ra thời gian trôi qua cho đến khi trời đã tối. Làm thế nào để giải thích hiện tượng này hoặc có những khám phá thú vị khác, mời bạn khám phá trong cuốn sách Dòng chảy ý thức.
Cuộc sống tinh thần của thực vật và giun
Tác giả tập trung vào sự kết nối đặc biệt giữa thực vật và giun, đặc biệt là khả năng đặc biệt của giun trong việc xới đất và biến đổi đất, như Darwin đã mô tả trong cuốn sách The Formation of Vegetable Mould, Through the Action of Worms.
Theo Darwin, giun có những khả năng đặc biệt như cảm nhận ánh sáng và bóng tối cũng như các rung động qua đất mà không cần tai hoặc thính giác, điều này khiến chúng phản ứng nhanh chóng khi bị chiếu sáng hoặc cảm nhận tiếng động của các sinh vật đang tiến lại gần.
Darwin đề cập đến khả năng điều chỉnh của giun như một dấu hiệu cho thấy sự hiện diện của một loại ý thức nào đó. Ông cũng nghiên cứu về 'tâm trí' của giun trong việc đào hang, lưu ý rằng để kéo một vật gì đó vào hang, giun phải có một khái niệm về hình dáng của vật đó để thực hiện công việc một cách hiệu quả.
Tác giả thích cuốn sách về giun đất của Darwin và đã đề cập đến nhiều nghiên cứu khác về thực vật, động vật và mối quan hệ giữa chúng, cũng như trí thông minh của động vật.
Freud trong vai trò nhà thần kinh học
Mọi người đều biết Freud là người sáng lập ra phân tâm học, nhưng ít ai biết về khoảng thời gian từ 1876 đến 1896 khi ông chủ yếu là nhà thần kinh học và giải phẫu học.
Freud quan tâm sâu sắc đến các dạng thức và nguồn gốc của các hệ thần kinh, đặc biệt là sự tiến hóa của chúng. Ông nghiên cứu hệ thần kinh của loài cá mút đá Petromyzon và các động vật không xương sống như tôm hùm đất, từ đó đưa ra những phát hiện quan trọng về sự phát triển của các loài này.
Freud cũng nghiên cứu về hệ thần kinh của con người và đóng góp vào việc rèn giũa năng lực của nhà thần kinh học thông qua quan sát lâm sàng tại các bệnh viện.
Dòng ý thức
Hành động và suy nghĩ của chúng ta, cùng với nhận thức và nội dung của ý thức, đều phản ánh sự phát triển theo thời gian.
...Ý thức có thể biến đổi liên tục, di chuyển mượt mà từ ý nghĩa này sang ý nghĩa khác, từ nhận thức này sang nhận thức khác, mà không bị gián đoạn hay đứt đoạn. Theo William James, ý thức chảy suôn sẻ, vì vậy ông đã tạo ra thuật ngữ “dòng chảy ý thức”.
Theo James, ông mô tả các khoảnh khắc nhận thức như “sự thấm vào nhau”, “tan chảy” vào nhau, hay sự kết nối và ăn khớp, kiến thức cũng là một phần của dòng chảy, quá khứ hoặc tương lai, ký ức và kỳ vọng tạo ra sự liên tục cho ý thức mà không có nó, ý thức không thể gọi là một dòng chảy.
Trong phần này, tác giả đặt ra nhiều vấn đề về ý thức, những suy đoán hấp dẫn về ý thức của các nhà khoa học, ý thức có liên quan gì đến các hiện tượng rối loạn thần kinh, hiện tượng ngưng đọng hay ngừng nhận thức… Hiện nay, nghiên cứu khoa học về ý thức đã trở thành mối quan tâm chính, mọi cấp độ của ý thức đang được khám phá từ cơ chế nhận thức ở mức cơ bản nhất đến những cấp độ cao hơn của trí nhớ, hình ảnh, ý thức tự phản tỉnh.
Điểm mù: sự lãng quên và bỏ mặc trong nghiên cứu khoa học
Lịch sử khoa học thực tế không phải là một chuỗi liên tục, một bước tiến, có sự mở đầu giống như ở cây sự sống của Darwin. John Mayow đã phát hiện ra ôxy vào những năm 1670, một thế kỷ trước khi Schee và Priestly xác định nó. Mayow đã chỉ ra rằng ⅕ lượng không khí chúng ta hít thở bao gồm một thành phần rất cần thiết cho cả quá trình đốt cháy và hô hấp (ông gọi nó là các hạt “spiritus nitro-aereus”). Tuy nhiên, công trình của Mayow đã bị lãng quên và che khuất bởi lý thuyết đốt phlogiston đầy cạnh tranh, thứ vốn thịnh hành thêm một thế kỷ nữa cho đến khi bị Lavoisier bác bỏ vào thập niên 1780. Và còn nhiều sự lãng quên, nhầm lẫn, bỏ mặc khác trong nghiên cứu khoa học được tác giả đề cập đến.
Điểm mù, hiện tượng phổ biến một cách đáng kinh ngạc trong tất cả các lĩnh vực khoa học, liên quan đến nhiều vấn đề khác ngoài yếu tố “sinh non” (prematurity); nó liên quan đến tình trạng mất kiến thức, lãng quên kiến thức dường như đã từng được củng cố vững vàng, và đôi khi quay về với những giải thích ít sâu sắc hơn.
Hiểu rõ và “nắm bắt” điều gì đó nhanh chóng không đủ. Tâm trí phải có khả năng chứa đựng nó, duy trì nó. Rào cản đầu tiên là cho phép bản thân “gặp gỡ” những ý tưởng mới, tạo ra một không gian tinh thần, một tập hợp ý tưởng kết nối - sau đó đưa những ý tưởng này vào ý thức trọn vẹn và ổn định, để trao cho chúng một khái niệm, giữ chúng trong tâm trí ngay cả khi chúng mâu thuẫn với các khái niệm, niềm tin hoặc phạm trù hiện có của một người. Quá trình này và không gian rộng mở trong tâm trí có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định liệu một ý tưởng hay một khám phá sẽ được lưu giữ và đơm hoa kết trái hay sẽ bị lãng quên, phai mờ và biến mất không dấu vết.
Tóm lại
Về hình thức, Dòng chảy ý thức là một tác phẩm trình bày rất khoa học, sâu sắc trong từng chủ đề, dễ nắm bắt bằng cách nêu vấn đề, phân tích và đưa ra những dẫn chứng thuyết phục.
Về nội dung, theo Nicole Krauss, trong Dòng chảy ý thức, Tiến sĩ Oliver Sacks dẫn dắt người đọc khám phá một vùng trời không biên giới của sự tiến hóa, thực vật học, hóa học, y học, khoa học thần kinh và nghệ thuật; đồng thời du hành ngược thời gian để trò chuyện với những nhà khoa học và sáng tạo vĩ đại nhất như Darwin, Freud, và William James.
Một số thông tin về tác giả
Oliver Sacks sinh tại London vào năm 1933. Ông theo học y khoa tại Đại học Oxford, sau đó tiếp tục làm bác sĩ tại Đại học California. Trong 50 năm tiếp theo, ông làm việc như một nhà thần kinh học tại nhiều viện nghiên cứu về bệnh mạn tính ở thành phố New York, bao gồm bệnh viện Beth Abraham ở Bronx và một số viện dưỡng lão do Hội Công giáo Little Sisters of the Poor điều hành.
Báo New York Times gọi Sacks là “thi sĩ của y học”. Ông nổi tiếng với những cuốn sách về các bệnh về thần kinh như Người đàn ông nhầm vợ là chiếc mũ, Chứng thích âm nhạc, Nhà nhân chủng học trên sao Hỏa và Ảo giác. Báo Los Angeles Times nhận xét: “Mỗi lần, Sacks đều dẫn dắt độc giả vào tâm trí một cách mới mẻ, gợi mở một cảm xúc đồng cảm tuyệt đối”.
Cuốn sách Thức tỉnh viết về một nhóm bệnh nhân sống sót sau đại dịch viêm não Lethargica vào đầu thế kỷ 20, đã truyền cảm hứng cho bộ phim được đề cử Oscar năm 1990 với sự tham gia của Robert De Niro và Robin Williams.
Tiến sĩ Sacks thường xuyên viết cho The New Yorker, The New York Review of Books và nhiều tạp chí khác. Ông là thành viên của Y sĩ đoàn Hoàng gia, Học viện Văn học và Nghệ thuật Hoa Kỳ, và Học viện Khoa học và Nghệ thuật Hoa Kỳ. Năm 2008, ông được Nữ hoàng Elizabeth II trao tước hiệu Chỉ huy Đế chế Anh.
Tiến sĩ Sacks từng là thành viên hội đồng quản trị của Vườn Bách thảo New York và được trao Huy chương Vàng vào năm 2011.
Tiểu hành tinh 84928 Oliver Sacks được đặt tên để vinh danh Oliver Sacks nhân dịp sinh nhật lần thứ bảy mươi của ông vào năm 2008.
Tiến sĩ Sacks qua đời tại New York vào năm 2015, vài tháng sau khi xuất bản cuốn hồi ký Trên đường xê dịch.
Tóm lược bởi: Quỳnh Anh - MyBook
Ảnh: Quỳnh Anh