Giới thiệu về tác giả:
Alessandro Baricco (1958) sinh ra tại Turin, Italy. Ông là nhà văn, đạo diễn, nhà nghiên cứu âm nhạc nổi tiếng. Ít thông tin được ông công bố về đời tư, nhưng các tác phẩm và nghiên cứu của ông thường được độc giả biết đến với sự đam mê sâu sắc trong văn chương và nghệ thuật sân khấu.
Tác phẩm Lụa, hay còn gọi là Seta, được xuất bản năm 1996 và đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ. Bộ phim chuyển thể do Francois Girard đạo diễn đã ra mắt vào năm 2017, cũng là một tác phẩm điện ảnh nổi bật.
Tóm tắt nội dung tác phẩm:
“Đây không phải là một tiểu thuyết. Cũng không phải một bài tường thuật. Đây là một câu chuyện. Bắt đầu từ một người đàn ông đi khắp thế giới rồi kết thúc bên hồ, một cái hồ tồn tại sẵn đó, vào một ngày nhiều gió. Người đàn ông có tên Herve Joncour. Tên của cái hồ thì không ai biết.
Có thể nói đây là một câu chuyện tình cảm, nhưng nếu chỉ có vậy thì cũng chẳng đáng để kể. Trong câu chuyện này còn có những khát khao và nỗi đau, những điều mà bạn hiểu rõ nhưng không thể đặt tên. Dù sao đi nữa, đây không phải là tình yêu thương. (Cách thức xưa nay đã vậy. Khi không tìm ra tên gọi cho những điều này, ta dùng câu chuyện. Và vẫn thế từ hàng thế kỷ.)
Kì lạ thay, cảm xúc mãnh liệt nhất lại được diễn ra và thể hiện trong im lặng, đó là cốt truyện của câu chuyện này. Một sự kì diệu xảy ra trong cuộc đời của một người đàn ông, nhưng lại buộc ông phải giữ im lặng mãi mãi trước người vợ yêu dấu của mình.
Câu chuyện kể về một người đàn ông làm thương nhân, đi khắp nơi để tìm kiếm những món hàng quý giá có thể mang về giá trị cho ngôi làng của mình. Sau mỗi chuyến đi như vậy, ông lại có nhiều câu chuyện để kể cho vợ con và những người trong làng. Và lần đầu tiên, có một thứ mà mọi người đều khao khát, một thứ có thể thay đổi số phận, thay đổi cuộc sống, thay đổi cảm nhận. Joncour từ thị trấn Lavilledieu ở miền Nam nước Pháp bắt đầu hành trình của mình.
Mặc dù cha anh ấy mong rằng anh sẽ có một tương lai rực rỡ trong quân đội, Herve Joncour cuối cùng lại kiếm sống bằng một nghề khác, và như một sự trớ trêu lạ thường, nghề đó không xa lạ gì với nét ngoại hình của một tướng mạo dễ thương, có chút dấu hiệu của giọng điệu nữ mơ hồ.
Để tồn tại, Herve Joncour mua và bán tằm.
Đó là năm 1861, Flaubert đang sáng tác tiểu thuyết Salammbô, đèn điện vẫn chỉ là một giả thuyết và Abraham Lincoln, bên bờ Đại Tây Dương, đang tiến hành một cuộc chiến tranh mà ông sẽ không bao giờ chứng kiến hồi kết thúc.
Herve Joncour đã bước sang tuổi ba mươi hai.
Anh ta mua và bán.
Những con tằm đó.
Herve Joncour, nói chính xác, mua và bán tằm khi tằm còn là những quả trứng nhỏ xíu, màu xám hoặc vàng, không di động và hình như đã chết. Chỉ cần một lần sờ đủ lớn để nắm hàng ngàn trứng như thế.
“Đó là cách gọi là nắm giữ một tài sản trong lòng bàn tay.”
Lavilledieu là tên của một thị trấn nhỏ nơi Herve Joncour sinh sống.
Vào thời điểm đó, ngành buôn tằm và dệt vải mang lại nhiều lợi ích và đã trở thành ngành công nghiệp sản xuất có giá trị lớn. Những nhà máy dệt vải mọc lên khắp nơi, khiến nhu cầu tìm kiếm của những thương gia ngày càng cao. Dần dần, tại bờ Địa Trung Hải, tình trạng khan hiếm tằm bắt đầu nổi lên, do đó Herve Joncour đã phải tìm một nơi khác để tiếp tục công việc của mình. Lúc đó, mọi người nói rằng ở xứ sở Nhật Bản, nơi xa xôi đầu chân trời, có nguồn tằm tốt, có thể giúp Herve Joncour tìm thấy những gì anh cần. Tuy nhiên, có một vấn đề là khoảng cách quá xa, và dù có tìm được tằm thì anh vẫn cần phải nhanh chóng trở về, nếu không những quả trứng tằm trên đường đi sẽ nở hết và không thể về kịp.
“Baldabiou biết rất nhiều chuyện này. Đặc biệt, ông ấy biết một câu chuyện luôn truyền tai nhau từ những người đã từng đến đó. Họ kể rằng hòn đảo đó sản xuất ra những sợi lụa đẹp nhất thế giới. Lụa được làm từ hơn ngàn năm nay, với những nghi lễ và bí mật đến mức rất chi tiết. Baldabiou, chính ông ấy, tin rằng đó không phải là một câu chuyện huyền thoại mà là một sự thật rõ ràng và đơn giản. Một ngày nọ, ông ấy nắm trong tay một chiếc khăn phủ dệt từ sợi lụa Nhật. Nó nhẹ như không có gì nằm giữa các ngón tay. Như thế, khi mọi thứ dường như đang theo dòng chảy của thời gian vì dịch bệnh tằm gai và nhiễm trứng, ông ấy nảy ra ý tưởng này:
Hòn đảo này phủ đầy tằm. Và đây là một hòn đảo mà suốt hai trăm năm không có lái buôn Trung Quốc hoặc nhân viên bảo hiểm Anh nào đã từng bước vào, và chưa bao giờ có bất kỳ dịch bệnh nào xảy ra.
Ông không hài lòng chỉ nghĩ một mình: ông đã đưa ra ý tưởng này cho tất cả những nhà sản xuất lụa ở thị trấn Lavilledieu sau khi họ tụ họp tại quán cà phê Verdun. Cho đến nay, chẳng ai trong số họ đã từng nghe về đất nước Nhật.
Khi đến Nhật Bản, Herve Joncour đã rất ngạc nhiên, bởi đây là một vùng đất vừa mới mở cửa thương mại, vẫn còn khá cẩn trọng và cao ngạo đối với các con tàu nước ngoài. Đây là nơi rất gần Trung Quốc, chỉ cách đó 200 hải lý, nhưng lại chưa từng mở cửa cho người Trung Quốc bước vào. Có lẽ vùng đất này ẩn chứa nhiều bí ẩn hấp dẫn và cơ duyên đã đưa anh đến đây vượt qua những khó khăn về địa lý. Cuối cùng, anh cũng đến được Nhật Bản.
“Herve Joncour không biết tiếng Nhật và không hiểu những gì ông ta nói. Nhưng anh đã đoán được rằng Nguyên Mộc muốn gặp anh.”
Một màn tường bằng giấy trượt qua, Herve Joncour bước vào. Nguyên Mộc ngồi xếp lẻo đều trên sàn nhà, ở góc xa nhất của căn phòng. Ông mặc một chiếc áo rộng màu sẫm và không đeo bất kỳ món trang sức nào. Dấu hiệu uy quyền duy nhất có thể thấy là một người phụ nữ nằm dài bên cạnh, đầu gối chạm đùi ông, mắt nhắm, hai tay che giấu dưới chiếc áo rộng màu đỏ, một hình ảnh như lửa trên nền màu tro. Nguyên Mộc chậm rãi lấy một tay vuốt ve tóc nàng: như thể ông đang vuốt ve bộ lông của một con thú quý hiếm, ngủ say giấc.
Herve Joncour bước vào phòng, đợi chủ nhân xuất hiện rồi ngồi xuống đối diện ông ta. Cả hai im lặng, nhìn thẳng vào nhau. Một người hầu vào, lặng lẽ như không có gì xảy ra, đặt hai tách trà trước mặt họ và rời đi. Giờ đây, Nguyên Mộc mới bắt đầu nói, bằng tiếng mẹ đẻ, giọng đều đều, pha trộn một chút giọng lạ giả tạo khó chịu. Herve Joncour lắng nghe. Anh nhìn chằm chằm vào mắt Nguyên Mộc, và trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, gần như anh không để ý, hạ ánh mắt xuống khuôn mặt người phụ nữ.
Đó là khuôn mặt của một cô gái trẻ.
Anh nhìn lên.
Nguyên Mộc ngưng nói, cầm một trong hai tách trà đưa lên miệng, chờ một lát rồi nói: 'Ông hãy kể tôi nghe ông là ai.'
Ông nói câu này bằng tiếng Pháp, nghe những nguyên âm kéo dài, với một giọng khàn của riêng ông.
Trước một người hầu như bất khả xâm phạm ở Nhật Bản, người chủ trị mọi việc xoay xở và đưa hàng lậu ra khỏi quốc đảo, Herve Joncour cố kể về bản thân mình là ai. Anh nói bằng tiếng mẹ đẻ, phát âm từ từ, không chắc Nguyên Mộc có hiểu anh không. Theo bản năng, anh bỏ qua mọi cảnh giác, kể tất cả những điều có thật, đơn giản như vậy. Anh kể về những chi tiết nhỏ và những sự kiện chủ yếu với giọng điệu đều đặn, đơn giản, chỉ có một chút lắng đọng, như là một người đang đọc một danh sách vật nuôi sót sau một vụ cháy. Nguyên Mộc lắng nghe, không biểu lộ bất kỳ phản ứng nào trên khuôn mặt. Mắt ông nhìn chăm chú vào môi của Herve Joncour như thể đó là những dòng cuối cùng của một lá thư chia tay. Trong phòng, mọi thứ đều yên lặng và tĩnh lặng đến mức nếu có điều gì xảy ra, dù không có gì, cũng trở thành một sự kiện lớn vô cùng.
Bỗng nhiên,
vẫn nằm yên lặng, không hề chuyển động,
cô gái trẻ ấy,
mở mắt.
Herve Joncour không ngừng nói, nhưng bản năng lại dành ánh mắt cho cô gái trẻ. Điều anh thấy, trong khi anh vẫn cứ nói, là đôi mắt ấy không có vẻ phương Đông, và chúng với một sức mạnh làm anh bối rối, nhìn thẳng vào anh: như thể đôi mắt ấy chẳng làm gì khác ngoài việc, từ khi mắt dưới đóng. Herve Joncour cố giữ vẻ tự nhiên, nhìn về phía khác, cố gắng để tiếp tục câu chuyện, không để lộ ra bất cứ sự nghi ngại gì trong giọng nói. Anh chỉ ngừng lại khi mắt anh bắt gặp cái ly trà đặt trước mặt, trên sàn. Anh lấy nó lên miệng, uống từ từ, rất chậm rãi. Sau đó, anh lại bắt đầu nói, sau khi đặt ly trà xuống chỗ cũ, trước mặt anh.
Và từ giây phút Herve Joncour gặp Nguyên Mộc, câu chuyện của anh tại Nhật Bản bắt đầu, giữa anh và cô gái trẻ có một sức hút đặc biệt, dường như có những khoảnh khắc rung động không thể diễn tả bằng lời. Sự dịu dàng trong ánh mắt của cô gái phương Đông đã khiến anh bị thu hút. Điều này khiến tình hình của anh ở Nhật trở nên nguy hiểm hơn. Người đàn ông khi đi xa thường không thể tránh khỏi sự cám dỗ và Herve Joncour cũng không phải ngoại lệ. Giữa hai người đã nảy sinh một mối quan hệ, một tình cảm khiến anh phải quay trở lại để tìm cô gái. Vợ của anh ở nhà cũng cảm nhận được sự thay đổi này, sau khi anh trở về từ những chuyến đi xa xôi, vợ anh nhận ra rằng cô cảm thấy một điều gì đó sắp xảy ra. Và thực sự vài tháng sau đó, cô ấy mang thai, tình cảm của hai vợ chồng cũng phát triển tốt hơn. Và vài tháng sau khi cô sinh con, anh lại phải quay trở lại với công việc, cũng như lần trước, anh lại tìm cô gái.
“Herve Joncour bắt đầu hành trình đến Nhật Bản vào đầu tháng Mười. Anh đi qua biên giới Pháp gần Metz, đi qua vùng Wurttemberg và Bavaria, vào Áo, đến Vienne rồi Budapest bằng tàu hỏa rồi tiếp tục đến Kiev. Anh cưỡi ngựa qua đồng bằng Nga khoảng hai ngàn cây số, vượt qua dãy Ural, tiến đến hồ Baikal mà người dân địa phương gọi là 'người cuối cùng'. Anh đi dọc theo sông Amour, đi theo biên giới với Trung Quốc đến bờ Đại Dương, và khi đến đó, anh nằm dài mười ngày tại cảng Sabirk chờ một con tàu của những tên buôn lậu Hà Lan đưa anh đến Mũi Tự Cốc ở bờ biển phía Tây của Nhật Bản. Anh nhận thấy rằng cả nước đang trong sự chờ đợi hỗn loạn và kéo dài một cuộc chiến chưa bùng phát. Anh đi mấy ngày mà không cần phải cảnh giác như những lần trước, bản đồ các quyền lực và hệ thống kiểm soát đường xá dường như tan biến xung quanh anh, trong khi cuộc chiến sắp diễn ra hoàn toàn. Ở Bạch Xuyên, anh gặp người sẽ dẫn anh đến Nguyên Mộc. Họ cưỡi ngựa hai ngày để đến ngôi làng. Herve Joncour xuống ngựa, để cho người đó đưa anh vào làng trước.
Nhận xét về tác phẩm
Ngay từ đầu câu chuyện đã tiết lộ cho chúng ta thấy rằng đây là một tác phẩm thể hiện tâm hồn của những món hàng và ý nghĩa đằng sau những giá trị qua những chuyến đi. Mỗi hành trình ra đi để trở về, giữa những kỷ niệm sau mỗi chuyến đi là niềm vui nhặt nhạnh, là nỗi nhớ thoáng qua mùi âm thanh nhưng lại có màu sắc thực sự bình yên. Cũng chính vì câu chuyện diễn ra ở nhiều địa điểm khác nhau nên chúng ta dễ dàng cảm nhận được sự thay đổi sắc thái, những vùng sáng tối thay thế thời gian và khoảng lặng. Cảm nhận câu chuyện như một bức tranh được thêu dệt từ những con người lặng lẽ, mỉm cười tìm kiếm ý nghĩa của cuộc sống. Phảng phất đâu đó trong những ngọn gió hình ảnh làn khói bên cạnh ấm trà trước nhân vật cho ta cảm nhận thực sự sâu sắc về sự sống nguyên thủy, mà ý chí của con người thì mạnh mẽ trước phong ba bão táp, vẫn lớn dần theo thời gian và khó khăn của những thử thách gam gó. Mỗi chuyến đi là cuộc đua với số phận để được trở về bình yên bên gia đình, với người vợ tận tụy đang chờ ở nhà. Một hình ảnh không thể rõ ràng hơn về tình yêu của đôi lứa, nhưng lại ẩn chứa sau những bộn bề và những lý do nghề nghiệp. Điều được giấu kín một cách tinh tế và che đậy hết những mệt mỏi, có lẽ là hình ảnh về thiên nhiên cây cỏ luôn hiện ra bên cạnh một cái hồ vẫn im lặng, mặc dù đã có bao nhiêu người bước qua nhưng không hề biết tên.
“Hai tháng và mười một ngày sau khi Helene mất, Herve Joncour đến nghĩa trang và bất ngờ nhận ra, bên cạnh những đoá hoa hồng anh thường đặt lên mộ vợ hàng tuần, có một chiếc nhẫn được làm từ những bông hoa xanh bé xíu. Anh khom người để nhìn kỹ hơn và giữ vị trí này rất lâu, có thể ai đó từ xa nhìn thấy sẽ nghĩ anh lạ hoắc hay thậm chí là buồn cười. Về đến nhà, anh không làm gì ngoài việc ngồi lì trong phòng làm việc để suy nghĩ. Anh không làm gì khác trong suốt mấy ngày sau đó. Suy nghĩ.”