Tổng số sản phẩm trên khu vực (GRDP - Gross Regional Domestic Product) phản ánh kết quả cuối cùng từ hoạt động sản xuất của các đơn vị thường trú trong một khu vực cụ thể, như tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, thành phố, huyện, hoặc xã. GRDP là cách hiểu GDP của một khu vực cụ thể, tuy nhiên, tổng GRDP của các khu vực khác nhau trong một quốc gia có thể không đồng nhất với GDP quốc gia do sự khác biệt trong phương pháp thống kê. Tại Việt Nam, GRDP cấp tỉnh được tính dựa trên phương pháp sản xuất, bao gồm tổng giá trị gia tăng theo giá cơ bản cộng với thuế sản phẩm trừ đi trợ cấp sản phẩm.
Tại Việt Nam, GRDP được tính cho cấp tỉnh và không áp dụng cho cấp huyện hay cấp xã. Cục Thống kê tỉnh và Tổng cục Thống kê thực hiện thống kê GRDP theo giá hiện hành và giá so sánh.
Kể từ năm 2017, Tổng cục Thống kê đã tập trung vào việc tính toán và công bố số liệu GRDP cho các địa phương. Trong năm 2017, các Cục thống kê tỉnh, thành phố đã cung cấp dữ liệu trong 6 tháng và cả năm theo ngành kinh tế, giúp các Vụ Thống kê chuyên ngành và Vụ Hệ thống Tài khoản quốc gia tính toán giá trị sản xuất, giá trị gia tăng, thuế sản phẩm và GRDP, với mục tiêu giảm chênh lệch số liệu GDP giữa Trung ương và địa phương xuống dưới 10%. Trước đây, sự chênh lệch này có thể lên tới 1,7 - 1,8 lần.
Chỉ tiêu Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) ở Việt Nam đo lường giá trị gia tăng của hàng hóa và dịch vụ tạo ra tại tỉnh/thành phố trong một khoảng thời gian nhất định (6 tháng hoặc năm). Khái niệm “hàng hóa và dịch vụ cuối cùng” không bao gồm giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ sử dụng trong các giai đoạn trung gian của sản xuất. Tổng sản phẩm trên địa bàn được tính theo cả giá hiện hành và giá so sánh, và phương pháp tính toán GRDP tại Việt Nam tương đồng với một số quốc gia khác trên thế giới.
Tại Việt Nam, có sự khác biệt giữa số liệu Tổng sản phẩm nội địa (GDP) và Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) về phương pháp tính toán cũng như kết quả thu được.
Vai trò
Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP tính cho cấp tỉnh) là chỉ tiêu chính xác nhất để phản ánh kết quả sản xuất của tỉnh trong một năm. GRDP cũng được dùng để đánh giá sự phát triển kinh tế theo thời gian và so sánh giữa các quốc gia.
Chỉ tiêu GDP là một chỉ số kinh tế vĩ mô, được sử dụng để xây dựng các chỉ tiêu kinh tế - xã hội, hỗ trợ phân tích và lập chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia. Đây là chỉ tiêu phù hợp cho toàn bộ nền kinh tế nhưng không phù hợp để tính cho cấp tỉnh.
Tuy nhiên, ở Việt Nam, các tỉnh cũng có trách nhiệm quản lý và điều hành phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, việc tính toán GDP cấp tỉnh vẫn được thực hiện để đáp ứng nhu cầu thông tin phục vụ công tác lãnh đạo và chỉ đạo địa phương.
Hàng năm, các tỉnh thực hiện việc tính toán chỉ tiêu Tổng sản phẩm trên địa bàn và công bố Niên giám thống kê với các số liệu về kinh tế - xã hội. Tổng cục Thống kê (Việt Nam) cũng phát hành Niên giám thống kê, với phiên bản mới nhất là Niên giám thống kê 2018.
Tổng cục Thống kê (Việt Nam) đặt mục tiêu rà soát và đánh giá lại quy mô GDP theo quy trình nghiêm ngặt và đồng bộ giữa các ngành trong nền kinh tế, đồng thời so sánh với kết quả biên soạn GRDP của các địa phương. Quy trình đánh giá bao gồm việc xem xét từ ngành kinh tế cấp 2 lên cấp 1, và đặc biệt ngành Nông, lâm nghiệp và thủy sản từ cấp 3 lên cấp 2, cấp 1, sau đó tổng hợp theo khu vực kinh tế và toàn bộ nền kinh tế.
Đảm bảo tính toán toàn bộ hoạt động kinh tế theo quy định của Việt Nam trong phạm vi sản xuất.
Rà soát theo phương pháp sản xuất và giá cơ bản, phù hợp với Quyết định số 715/QĐ-TTg về phương pháp biên soạn GRDP.
Sử dụng hệ số IC quốc gia từ năm 2012 theo 8 vùng, kết hợp với cập nhật quyền số GO hàng năm của 63 tỉnh, thành phố theo ngành kinh tế cấp 2 để phục vụ cho việc biên soạn lại GDP.
Sử dụng hệ thống chỉ số giá sản xuất (PPI) toàn quốc để cập nhật quyền số GO hàng năm cho 63 tỉnh, thành phố và 8 vùng nhằm xác định chỉ số giá các ngành, phục vụ việc đánh giá lại quy mô GDP.
Theo Tổng cục Thống kê (Việt Nam), hiện nay không còn sự chênh lệch lớn giữa tổng sản phẩm nội địa của cả nước và tổng GRDP. Cụ thể, năm 2021, tổng sản phẩm nội địa Việt Nam tương đương với tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của 63 tỉnh thành. Tốc độ tăng trưởng GDP Việt Nam năm 2021 đạt 2,58%, phản ánh đúng mức tăng trưởng GRDP của các tỉnh thành. Ví dụ, tốc độ tăng trưởng GRDP năm 2021 của một số tỉnh thành như sau:
- Hải Phòng: 12,38%.
- Bắc Giang: 7,82%.
- Quảng Ninh: 10,28%.
- Bắc Ninh: 6,9%.
- Quảng Nam: 5,04%.
- Đà Nẵng: 7,86%.
- Hà Nội: 2,92%.
- Thành phố Hồ Chí Minh: -6,78%.
Cả phương pháp tính toán và nội dung tính của chỉ tiêu GDP và GRDP đều giống nhau, chỉ khác về phạm vi tính toán. GDP áp dụng cho toàn quốc, trong khi GRDP áp dụng cho một tỉnh, thành phố cụ thể. Sự khác biệt này do chênh lệch lớn giữa số liệu tổng cộng GDP địa phương và GDP quốc gia.
Nguồn thông tin đầu vào cho việc tính toán GRDP cấp tỉnh còn gặp nhiều hạn chế, dẫn đến việc tính toán bị trùng lặp, thiếu sót và chưa đồng nhất về phạm vi, nội dung và phương pháp.
Khi xây dựng các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, các địa phương thường đặt ra những con số cao hơn nhiều so với mục tiêu GDP toàn quốc. Trong quá trình thực hiện, các địa phương nỗ lực tối đa để đạt được các mục tiêu đã đề ra. Đây chính là nguyên nhân sâu xa gây ra sự chênh lệch giữa GDP địa phương và GDP quốc gia.
Việc thu thập thông tin từ các đơn vị hạch toán toàn ngành như ngân hàng, bảo hiểm, điện lực, bưu chính, viễn thông, an ninh - quốc phòng, thuế nhập khẩu... gặp nhiều khó khăn. Hệ thống chỉ số giá và hệ số chi phí trung gian còn chưa được hoàn thiện và đồng bộ.
Phương pháp tính
Theo chỉ đạo của Tổng cục Thống kê (Việt Nam), có hai phương pháp tính Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP): theo giá hiện hành và theo giá so sánh. Hiện tại ở Việt Nam, giá hiện hành được tính dựa trên tỷ giá ngoại tệ hàng năm, chủ yếu là Đô la Mỹ. Giá so sánh được so với giá năm 2010. GRDP theo giá hiện hành thường được sử dụng để nghiên cứu cơ cấu kinh tế, tỷ lệ giữa các ngành sản xuất, và mối quan hệ giữa kết quả sản xuất với ngân sách. GRDP theo giá so sánh loại bỏ biến động giá qua các năm, dùng để tính tốc độ tăng trưởng và nghiên cứu sự thay đổi khối lượng hàng hóa và dịch vụ sản xuất.
Đối với giá hiện hành, có ba phương pháp để tính tổng sản phẩm trên địa bàn, bao gồm:
Phương pháp sản xuất
- VA: Tổng giá trị gia tăng của tất cả các ngành (VA = GO - IC).
- GO là giá trị sản phẩm, IC là chi phí trung gian
- TNK: Thuế nhập khẩu vào tỉnh/thành phố.
- TC: Trợ cấp sản xuất từ các đơn vị thường trú trong tỉnh/thành phố.
Phương pháp thu nhập
- TNKT: Thu nhập từ sản xuất của lao động (bao gồm cả tiền và hiện vật quy ra tiền). Tổng thu nhập từ các hoạt động kinh tế hợp pháp (bao gồm sản xuất kinh doanh và tự sản, tự tiêu) của lao động trong tỉnh, bao gồm: Toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật mà lao động nhận được trong năm nghiên cứu, như tiền lương, tiền công, tiền thưởng, tiền ăn ca, tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp và công đoàn phí do chủ sử dụng lao động chi trả; tiền Bảo hiểm xã hội chi trả cho nghỉ ốm, thai sản,...; Thu nhập hỗn hợp từ sản xuất kinh doanh của các hộ dân cư, trang trại, doanh nghiệp tư nhân trong tỉnh sau khi trừ đi chi phí sản xuất kinh doanh (gồm chi nguyên liệu, dịch vụ thuê ngoài, thuế, phí,...).
Phương pháp sử dụng
- TDCC: Chi tiêu cuối cùng của hộ gia đình và chính quyền địa phương.
- TLTS: Tích lũy tài sản (gồm tài sản cố định, tài sản lưu động và tài sản quý).
- CLXNK: Chênh lệch xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ của các đơn vị thường trú trong tỉnh/thành phố.
Mặc dù lý thuyết có thể áp dụng ba phương pháp để tính tổng sản phẩm trên địa bàn, nhưng thực tế hiện nay cho thấy thông tin còn hạn chế và chưa đủ điều kiện để sử dụng đồng thời ba phương pháp. Vì vậy, tính tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh/thành phố chủ yếu dựa vào phương pháp sản xuất.
Theo giá so sánh, Tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) theo giá so sánh được xác định qua các bước trung gian. Do tổng sản phẩm trên địa bàn hoặc giá trị gia tăng không thể phân tích thành các yếu tố giá và lượng, nên không có chỉ số giá trực tiếp để giảm phát, do đó, được tính gián tiếp qua hiệu số giữa giá trị sản xuất và chi phí trung gian theo giá so sánh (Phương pháp tính GRDP theo giá so sánh sử dụng phương pháp sản xuất).
GRDP bình quân đầu người
GRDP bình quân đầu người là chỉ tiêu quan trọng phản ánh kết quả sản xuất bình quân mỗi người trong một năm. Đây cũng là tiêu chí dùng để đánh giá sự phát triển kinh tế theo thời gian và so sánh quốc tế.
Tổng sản phẩm trên địa bàn bình quân đầu người của một năm (theo công bố của Ngành Thống kê) được tính bằng cách chia tổng sản phẩm trên địa bàn trong năm cho dân số trung bình của năm đó. GRDP bình quân đầu người có thể tính theo giá thực tế, bằng nội tệ hoặc ngoại tệ (USD theo tỷ giá thực tế hoặc tỷ giá sức mua tương đương); cũng có thể tính theo giá so sánh để xác định tốc độ tăng trưởng.
Công thức tính là:
GRDP và GRDP bình quân đầu người của các tỉnh
- Danh sách các đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP
- Danh sách các đơn vị hành chính Việt Nam theo GRDP bình quân đầu người
Tài liệu tham khảo
- Niên giám thống kê Việt Nam năm 2020, Tổng cục Thống kê Việt Nam
- Niên giám thống kê Hà Giang năm 2018, Cục thống kê Hà Giang
- Niên giám thống kê Quảng Bình năm 2018, Cục thống kê Quảng Bình
- Tổng sản phẩm quốc nội
- Kinh tế Việt Nam