Một năm có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông, mùa nào cũng là một hành trình đắm chìm trong kí ức về bà nội yêu thương. Mùa xuân nở hoa, tạo nên bức tranh tươi sáng của tuổi thơ.
Bông hoa đào nở rộ, bà trổ tài trang điểm vườn nhà thành một khung cảnh thơ mộng, hồn nhiên. Ngày thơ ấu, tôi chẳng để ý mấy đến các mùa, nhưng mùa xuân thì khác. Bởi bà trồng cây đào, tạo nên một khoảnh khắc tràn đầy ấn tượng.
Mùa hạ nóng bức, chúng tôi thoải mái đùa giỡn dưới bóng cây dừa, điều này trở thành ký ức hạnh phúc. Những ngày mưa rả rích, bọn trẻ làng tôi rủ nhau săn ếch, một cuộc phiêu lưu thú vị, hồn nhiên giữa bản làng yên bình.
Nhưng mùa tôi yêu nhất vẫn là thu. Không gian rực rỡ, bình dị của làng quê, làn sương mỏng như tình cảm bà dành cho tôi. Có những buổi sáng, bà đã sớm thức dậy, đưa tôi theo để cùng nhau tận hưởng hương vị của mùa thu.
Bà chăm sóc từng góc vườn, làm cho mỗi bữa ăn trở nên thêm phần đặc biệt. Bà dạy tôi những bài học quý giá về cuộc sống, tình thương và lòng hiếu thảo.
Những ngày mùa thu yên bình, tôi thường nhớ về bà, nhớ về những giây phút trải qua cùng bà trong bản làng hồn nhiên, giản dị. Bà ơi, tình thương của bà luôn ấm áp trong trái tim tôi.
Đào Ngọc Hà


2. Bước Theo Bà Đi Chợ
Ngày bé, niềm hạnh phúc lớn nhất của tôi là được đi chợ cùng bà!
Vì cha mẹ đi làm xa, bà trở thành người chăm sóc tôi và anh trai. Trẻ con quê tôi thường không biết ngủ nướng. Sáng sớm, khi tiếng chú trống gà vang lên, bà đã đến gọi tôi dậy đi chợ cùng. Bà kêu anh trai tôi nâng cả đống hàng. Ba, bốn rổ quả chín thơm phức, xếp chồng lên nhau, nặng hơn hai chục cân, đeo thêm cái bị to tướng. Mắt tôi nhắm mi nhẹ, chạy xuống đất, sẵn sàng theo bà. Khi ra khỏi ngõ, tôi tự tin ngước nhìn xung quanh, kiểm tra xem có lũ bạn hàng xóm thèm nhìn không. Tôi tỏ ra “Tớ được đi chợ với bà đấy”…
Quê tôi là làng vườn ven sông, hoa trái trĩu trịt quanh năm. Dân làng thường đưa trái cây lên chợ bán. Buổi chiều hôm trước, bà dùng mỏ nèo móc quả từ cây ổi, rồi khéo léo hạ xuống đất, tôi nhanh nhẹn đỡ và đặt vào rổ. Vườn quả nhà tôi thơm phức, tiếng chim hót vang, chúng đánh nhau chí choé… Nhiều lúc, tôi quên mất việc nhặt quả, hứng trọn bãi phân chim trắng trên đầu. Con Mực thấy bà chuẩn bị ra vườn là nhảy cẫng lên ngoáy đuôi, rối rít chạy theo. Mực thích chạy trong vườn, sủa ầm ĩ, làm nổi loạn đàn chào mào đang đanh đá ở trên cây. Nhưng mỗi khi nghe tiếng bõm từ ao, Mực lao xuống nước bơi tùm tùm, tránh những quả roi bà khéo léo đánh xuống. Tôi chỉ cần mang rổ tre tới, nhặt những quả roi Mực chơi trội, đưa về rồi cười lớn, phớt lờ Mực đang ngước nhìn. Mực luôn vui vẻ, đùa nghịch, kể chuyện với tôi và chia sẻ những câu chuyện về bạn bè ở lớp, về chị Hồng, thằng Bo hàng xóm. Bà mồ hôi nhễ nhại, nhưng vẫn cười tươi khi thấy tôi nhìn lên lo lắng.
Chúc một ngày tốt lành bạn!
Theo bà đi chợ, tôi nhận thấy nhiều điều thú vị trong cuộc sống, cảm nhận sự ấm áp của lòng người và niềm vui từ ánh mắt, nụ cười của những người dân chân quê mộc mạc. Tôi có dịp hít thở không khí trong lành của làng vườn yêu dấu, nơi tôi được lớn lên trong tình yêu thương của bà. Tôi nhảy múa trên đường làng, hòa mình vào không gian tươi mới của buổi sáng. Hoa và quả đang khoe sắc, đàn bướm bay lượn quanh vườn, và tiếng hót của các loài chim tạo nên bức tranh tươi sáng, tràn ngập âm nhạc và hương thơm tự nhiên.
Theo bà đi chợ là những kí ức đẹp, là những bài học nhân văn sâu sắc về tình thương, sự hiểu biết và lòng biết ơn. Tôi mong ước giữ mãi những khoảnh khắc ấm áp này và hy vọng sẽ sớm trở thành người có thể chia sẻ gánh nặng với bà. Tình yêu thương không lời của bà đã đi sâu vào tâm hồn tôi, tạo nên những giá trị vô song.
Chúc bà một ngày tốt lành, tràn đầy niềm vui và hạnh phúc!
Viên Nguyệt


3. Bài Hát Của Bà
Dưới ánh nắng len lỏi qua làn lúa, bà theo bước chân mình trên con đường quê xưa. Hương cỏ trời thoang thoảng, làm cho bà thêm yêu dấu trong khung cảnh bình yên.
Bước đi mỗi ngày, giữa không gian bát ngát của đồng quê, những ký ức về bà như là những bức tranh sống động, tô điểm thêm sắc màu cho cuộc sống của tôi.
Nắng hè trưa, bà là nguồn cảm hứng lớn nhất. Áo dài bà thoải mái bay trong gió, nụ cười nhẹ nhàng làm tươi vui cả không gian xung quanh. Làm sao có thể quên được bức tranh bình dị ấy, nơi mà bà là người hòa mình vào thiên nhiên, làm cho mỗi khoảnh khắc trở nên đặc biệt.
Ngày nào, bà cũng ngồi nghỉ tạm dưới rặng tre, bóng dừa là nơi chào đón bà với làn gió nhẹ nhàng. Đôi khi, tôi nghĩ bà có lẽ đang nhớ về những kỷ niệm xưa, những buổi chiều hạ với tiếng ru của cánh đồng, tiếng cây cỏ nhẹ nhàng reo mừng.
Mùi bùn đất, mùi trầu của bà, đều là những hình ảnh quen thuộc với tôi. Những chiều hè ấm áp, bà dắt tôi dọc theo bờ sông Luộc, giúp tôi hiểu rõ hơn về giá trị của cuộc sống và tình yêu thương gia đình.
Chắc chắn, bà đã cõng mùa hạ của tôi đi xa, để lại những dấu tích vĩnh cửu trong trái tim. Bà ơi, hình ảnh của bà sẽ mãi mãi sống đọng trong tâm trí tôi!


4. Tiếng Ru Bà Ơi
Tuổi thơ của tôi không có nhiều may mắn và hạnh phúc được ở bên bà nội, bà ngoại. Tôi mất bà nội khi mới hai tuổi, mất bà ngoại khi bốn tuổi. Ký ức về những người bà thân yêu của tôi mỏng và xa mờ.
Ông trời như thấu hiểu những thiệt thòi ấy nên đã bù đắp cho tôi có thêm "bà nội", "bà ngoại" khác để mỗi lần bất chợt nghĩ đến các bà, lòng tôi vẫn nghẹn ngào, vẫn thảng thốt muốn gọi: Bà ơi!
"Bà nội" mà tôi muốn kể là bà kế của ông nội tôi. Sau khi bà nội tôi mất được vài năm, ông nội tôi tục huyền với bà khi hai người đã ở tuổi xế chiều. Ông nội tôi khi ấy đã là một lương y có tiếng, bà là người cùng chăm sóc vườn thuốc nam với ông. Bà hiền hậu, chịu thương, chịu khó, nhanh nhẹn, hiểu việc, lại cũng góa bụa từ sớm nên ông và bà gắn bó rất tự nhiên. Các bác, các chú và cô của tôi cùng người con gái riêng của của bà đều ủng hộ. Mọi người đều bảo với nhau rằng: người thiếu bố thì tìm bố, người thiếu mẹ thì tìm mẹ cho ấm áp sum vầy. Lũ trẻ chúng tôi từ lâu lắm đã không được cất tiếng gọi bà, giờ có "bà nội" nên vui hơn bao giờ hết. Chúng tôi đòi bố mẹ cho được về chơi với ông bà nhiều hơn.
Mỗi lần về, bà chăm chiều, chu đáo với từng đứa. Quà của bà chỉ giản dị là những tấm bánh đa, bánh sắn, là những cái kẹo bột nho nhỏ, khô giòn nhưng đứa nào cũng thích. Trước lúc chúng tôi đi bà chuẩn bị sẵn những túi quà nhỏ là những món ăn để chúng tôi mang theo. Khi bố mẹ tôi công tác ở trại dâu tằm Vũ Đoài, gần nơi ông bà đang ở, hằng ngày bà dậy sớm cơm nước, sao thuốc, phơi thuốc cho ông, rồi lặn lội đi tắt lối cánh đồng ra cơ quan, giúp bố mẹ tôi cơm nước, chăm sóc bốn chị em tôi, đến tối bà lại hối hả về nhà cơm nước cho ông. Bà cứ lặng lẽ, cần mẫn, chu đáo với người xa, người gần như thế. Cả quãng tuổi thơ của chúng tôi được bà chăm sóc, yêu thương. Trong số những người con của ông tôi, bà gắn bó với gia đình tôi hơn cả. Bố mẹ tôi cũng luôn yêu quý, kính trọng bà. Bà còn bảo: Sau này nếu chẳng may ông bỏ bà đi trước, bà sẽ ở với bố mẹ tôi. Chính bố mẹ tôi cũng muốn như vậy.
Mà rồi, ông nội tôi đi trước bà thật. Ông đi đột ngột sau một tai biến khi đang ngồi cắt thuốc cho khách. Sau đám tang ông đã xảy ra chuyện ngoài ý muốn của bà. Người con gái riêng của bà chỉ vì lóa mắt với những lợi ích trước mắt, đã thu vén hết tài sản của ông bà mang đi, rồi tuyệt giao, tuyệt tình với phía ông nội tôi. Bà không còn cách nào khác phải đi theo người con gái của bà. Chúng tôi, ai cũng buồn, cũng nhớ bà và tiếc cho cách hành xử thực dụng của người đàn bà mà một thời chúng tôi coi như bác ruột.
Sau này, bố mẹ tôi chuyển công tác về trại dâu tằm Vũ Phúc, gần với nơi bà đang sinh sống, gia đình tôi đã tìm lại được bà, đã vài lần đón bà đến nhà chơi, bà chỉ ở lại ăn bữa cơm rồi về. Trong niềm vui được gặp lại nhau bà vẫn ngần ngại chuyện cũ nên giữ mấy bà cũng không ở. Bà mất, vài tháng sau chúng tôi mới biết nên cũng không kịp đến thắp cho bà nén nhang !
"Bà ngoại" đến với chúng tôi, cũng chỉ biết nói là duyên trời định, trời cho. Bố tôi, trước khi cưới mẹ tôi, đã đính ước với một cô giáo. Khi bố tôi đi làm chuyên gia bên Lào, có lẽ cô giáo nghĩ chiến tranh không biết thế nào, con gái có thì nên đã trả lễ ông bà nội tôi, cưới một Hoa kiều. Khi bố tôi ở chiến trường về, nghe tin thế cũng thông cảm cho cô giáo , quên chuyện cũ và tìm hiểu rồi nên duyên với mẹ tôi. Ai cũng yên bề, cũng hạnh phúc nên không trách cứ gì và coi nhau như anh em. Bà mẹ của cô giáo ,phần vì còn quý bố tôi, phần như muốn bù đắp những gì chưa phải trước đây nên đã quyết nhận mẹ tôi là con gái bà, bố tôi vẫn là con rể. Cô giáo và em trai, em gái của cô được bà dạy chúng tôi gọi là dì, là cậu. Và bà coi mẹ tôi như con gái cả của bà vậy. Tôi nhớ, mỗi lần mẹ tôi sinh em, bà và các dì mang gà, mang trứng, mang cơm nếp nghệ thăm mẹ. Quê bà là đất chè Mét nổi tiếng, mùa nào thức ấy bà đạp xe mang chè, mang quả mít to nhất nhì vườn, mang nải chuối tiêu chín trứng cuốc cho chúng tôi. Chúng tôi nghỉ hè, bà bảo các cậu đến đón về chơi, bao giờ chúng tôi chán đòi về với bố mẹ thì bà mới cho về. Khi tôi biết tự đi xe, tôi đạp xe về chơi với bà nhiều hơn. Khi ấy tôi là một con nhóc còi cọc, đen nhẻm, tóc rễ tre, đi dép cụt mõm và rộng hơn chân, đang học chuyên văn trường huyện. Áp lực bị điểm kém dễ bị loại khỏi đội tuyển đi thi học sinh giỏi tỉnh, học sinh giỏi toàn quốc làm tôi buồn chán, đạp xe về với bà. Thấy tôi không vui, bà hỏi chuyện, tôi vừa kể vừa khóc, bà đã chải tóc, rửa mặt cho tôi, động viên tôi ăn cơm. Buổi chiều, bà bỏ mọi công việc lại, đạp xe cùng tôi trở nhà tôi, dặn dò bố mẹ tôi rồi mới yên tâm ra về. Các dì mỗi lần ôn thi đại học đều lên nhà tôi ở. Mỗi khi có cậu, có dì đi lấy vợ, lấy chồng, bố mẹ tôi trách nhiệm là anh chị cả. Chúng tôi đã gắn với nhau suốt những năm dài như thế trong yêu thương, trong ấm áp tình thân.
Rồi bà yếu dần, những năm cuối đời của bà phải nằm liệt một chỗ. Chúng tôi lớn lên, lấy vợ lấy chồng, về thăm bà cũng ít dần. Bố mẹ tôi muốn về thăm bà lại phụ thuộc vào chúng tôi đưa đi. Những xao nhãng vô tình cũng đã khiến chúng tôi chậm chân, không kịp về với bà lúc bà nhắm mắt.
Nhiều lúc, tôi tự hỏi: Cuộc đời đã cho tôi những người bà nhân hậu như thế, đã cùng nhau đi suốt cả quãng đường dài, sao không đi hết được đoạn đường cuối, lúc nghĩa tử là nghĩa tận thì lại thiếu vắng nhau???.
Nhìn các con tôi ngày ngày kề bên ông bà ngoại, các con của các em trai tôi quấn quýt bên ông bà nội, tôi thấy chúng nó thật hạnh phúc và thầm mong chúng đừng vô tình, vô tâm với những người đã rất mực yêu thương chúng.
Ký ức đẹp đẽ về những người bà vẫn đau đáu trong tôi. Trong những đêm khó ngủ của một người đã vào tuổi trung niên, tôi vẫn nghẹn ngào thầm gọi: Bà ơi!
Phạm Hồng Oanh

Bà ơi! Người phụ nữ tuyệt vời nhất trong cuộc đời tôi. Ánh mắt bà tràn đầy tình thương, là nguồn động viên lớn nhất cho con cháu. Mỗi lời bà nói, mỗi cử chỉ của bà đều là nguồn cảm hứng cho chúng tôi. Bà là tia nắng ấm áp, là hạnh phúc bất tận trong trái tim chúng tôi.

Bà ơi! Hình ảnh của bà luôn hiện hữu trong những kí ức đẹp nhất của tôi. Bà là biểu tượng của tình yêu thương và hi sinh. Mỗi khi nhắc đến bà, chúng tôi nhớ đến hạnh phúc, nhớ đến những bài học quý báu mà bà truyền đạt. Bà là người hùng của cuộc đời chúng tôi.
Bà tôi - Người phụ nữ đẹp nhất, tốt nhất. Hồn nhiên và biết lắng nghe như gió, bà là nguồn động viên không ngừng cho chúng tôi. Những lời dặn dò của bà như những hạt ngọc quý, giữ cho trái tim chúng tôi luôn tràn đầy tình yêu thương. Bà là niềm tự hào của gia đình chúng tôi.
Trong bức tranh của mùa thu Hà Nội, những cơn mưa như những dòng lệ buồn rơi sau những ngày thu se lạnh. Một ngày giữa mùa covid, khi giãn cách xã hội đang hiện hữu, bầu trời mưa lạnh càng làm cho không khí trở nên ảm đạm hơn. Hôm nay là ngày giỗ của Bà Nội, người phụ nữ quan trọng nhất trong ký ức của tôi.
Chợt nhớ về những ngày thơ bé, những ký ức về bà Nội hiện về rõ trong tâm trí. Ký ức của một thời tuổi thơ trong sáng và đẹp đẽ, nơi tôi còn bé, xộc xệch, nhem nhuốc, và buộc tóc túm vểnh đuôi gà.
Bà Nội, với bức tranh lưng còng, luôn ở nhà chăm sóc chúng tôi, bốn chị em. Tiếng nói của bà như là cổ tích, rì rầm và xa vời. Bà tôi thích kể những câu chuyện xưa, những câu chuyện chạy loạn, chuyện đói kém, và những câu chuyện về những ngày đen tối của chiến tranh.
Bà Nội không chỉ biết kể chuyện, mà còn là người thích hát. Những bài Thánh Ca được bà hát làm tôi nhớ mãi. Bà biết kể những câu chuyện cổ tích dân gian và những câu chuyện về kinh lễ nhà thờ. Với bà, 'Lạy Chúa tôi' không chỉ là câu nói, mà là sự tin tưởng và niềm tin vững chắc.
Ngày chiến tranh cận kề, khi chúng tôi phải sơ tán vào vùng núi, bà Nội luôn bên chúng tôi, bảo vệ chúng tôi. Những ngày ấy, trong những chuyến đi sơ tán, bà luôn là người chăm sóc, giữ ấm cho chúng tôi trong những giờ đêm giá rét.
Ngày thơ bé của tôi, với bàn tay mọc những đốm nâu, là những ngày hạnh phúc và vui vẻ giữa thiên nhiên xanh mát của núi rừng Lào Cai. Những chiều rảnh rang, bà thường ngồi kể khổ lạc về thời trẻ, đếm ngày trên đốt ngón tay, và những lời ru ngủ của bà khiến tôi ngủ thiếp điệu nhất.
Bà Nội, người phụ nữ mạnh mẽ và chăm chỉ, luôn là nguồn động viên lớn nhất trong cuộc sống của tôi. Khi bà khó khăn và yếu đuối, tôi luôn ở bên cạnh, giữ cho tình thương và biết ơn luôn hiện hữu. Bà đã bay về miền mây trắng, nhưng những ký ức về bà Nội sẽ mãi mãi ở trong trái tim tôi.
Phạm Thị Phương Thảo


6. Bà tôi - Nguồn cảm hứng vô tận
“Bà tròn 100 tuổi nếu còn sống hôm nay, phải không mẹ?” - Những ký ức ấm áp về bà tôi
Hình ảnh khuôn mặt tròn, mái tóc bạch kim và đôi má hồng của bà vẫn in sâu trong tâm trí tôi.
Khi còn nhỏ, tôi thường giúp bà giã gạo, nhặt hạt thóc và luôn hứng thú với những công việc nhỏ như thế.
Bà từng làm ở cửa hàng, sau về hưu, bà trở thành người nội trợ tận tâm, chăm sóc gia đình đầy tình yêu thương.
Ngày nào cũng là ngày lễ khi bà về chợ, mang theo những món quà nhỏ cho tôi, khiến tuổi thơ tôi trở nên đầy ấm áp.
Bà là người mẹ chiều chuộng tôi nhiều nhất, với chiếc quạt nan lá cọ, bà luôn tận tâm quạt cho tôi ngủ vào những đêm hè nóng bức.
Bà đã có một cuộc sống trải qua nhiều thăng trầm, nhưng tình yêu thương và lòng nhân ái của bà vẫn mãi mãi sống trong tâm hồn chúng tôi.
Bà tôi, một người phụ nữ vĩ đại, đã ra đi nhẹ nhàng vào một ngày đông của tháng 11, để lại trong chúng tôi những ký ức đẹp và tình yêu thương bền vững.


7. Bà ngoại ơi
Trong ký ức của tôi, bà ngoại là người phụ nữ vĩ đại nhất. Bố tôi là chiến sĩ xa nhà, mẹ bận rộn với công việc nên bà ngoại đã từ quê hương lên sống với chúng tôi để giúp đỡ. Tất cả mọi việc, từ việc nuôi tôi, đến việc chuẩn bị bữa ăn, ru ngủ đều là công việc của bà. Bà đã cõng tôi đi khám bệnh khắp các bệnh viện, thậm chí đến nhà thầy để chữa trị khi tôi ốm nặng. Bà là người mạnh mẽ và yêu thương vô điều kiện.
Mỗi kỳ nghỉ hè, tôi luôn trở về quê để ở với bà. Ba tháng hè, tôi dành cả thời gian bên bà, đi chơi, đi chợ, vào bếp, ra vườn... Mọi hoạt động đều có sự góp mặt của bà. Bà luôn dành phần quà ngon nhất cho tôi và sẵn sàng dẫn tôi đi khắp nơi. Mỗi sáng thức dậy, tôi chờ đợi để đi chợ cùng bà, nơi những phiên chợ quê nhỏ nhưng đầy ắp tình thân. Bà dắt tay tôi đi qua con đường làng quen thuộc, giới thiệu tôi cho hàng xóm, và tình cảm xã hội luôn ấm áp như là một gia đình lớn.
Nhớ những buổi trưa hè, chúng tôi nằm dài trên chiếc võng dưới rặng tre, thư thả ngủ giữa làn gió hè. Bữa cơm hằng ngày của hai chúng tôi đơn giản nhưng luôn ấm no. Tối, tôi tham gia bắt đom đóm với lũ trẻ xóm, và sau đó về nhà để nghe bà kể chuyện, được bà quạt mát bằng lá chuối rồi ngủ quên trong vòng tay yêu thương của bà... Kỷ niệm tuổi thơ của tôi gắn liền với làng quê yên bình, và bà ngoại là hình bóng đẹp nhất trong những ký ức đó.
Thời gian trôi đi không dừng lại, tuổi thơ tôi như những đám mây bay xa phía chân trời. Nay khi bước vào tuổi trung niên, tôi gọi mẹ mình là bà ngoại, với tình cảm yêu thương không ngừng, liên kết qua các thế hệ. Có lẽ, một ngày nào đó, con gái tôi cũng sẽ viết về bà ngoại như tôi, và nỗi xúc động sẽ tràn ngập trong lòng, không thể nào giấu được. Một lần nữa, tôi thầm gọi: Bà Ngoại ơi!...
Thao Phuong


8. BÁNH ĐÚC CỦA BÀ TÔI
Mỗi năm, trong những ngày Tết đặc biệt (Tết dương lịch, âm lịch, đoan ngọ, nguyên tiêu), bà tôi luôn nỗ lực để chúng tôi có một cái Tết ấm cúng dù cuộc sống khó khăn. Dù không phải là Tết hoàn hảo, nhưng vẫn đủ ý nghĩa.
Cha mẹ tôi thường xuyên vắng nhà, Tết có khi có, có khi không. Gần ngày ông Công ông Táo, bà nỗ lực đến chợ phiên. Sớm sửa, khi chúng tôi còn ngủ say, bà đã chuẩn bị những trái cau, lá trầu và quả bưởi để làm bánh. Chuối từ vườn bà được chặt về từ chiều hôm trước, sau đó bà bắt đầu hành trình của mình. Điều khó khăn, nhưng bà vẫn đi. Trở về, bà mua mỡ lợn từ cửa hàng thịt. Mỡ được bọc kĩ trong lá chuối. Ở quê, mọi thứ, dù sống hay chín, đều được bọc bằng lá chuối.
Mỡ được rửa sạch và chiên vàng để có mỡ nước. Nước mỡ đặc được để làm nước chấm bánh đúc. Mỡ được đổ vào chai, nếu là mùa hè, mỡ sẽ là lỏng, và nếu gần Tết, nó sẽ đông cứng trắng như tuyết. Khi chuẩn bị bánh, bà sử dụng từng ít mỡ, đặt vào lá chuối, hoặc trộn với bột gạo đã xay để nấu bánh đúc.
Ngày cha mẹ về là ngày bà nấu bánh đầu tiên trong năm. Gạo được bà ngâm từ tối hôm trước. Đến trưa hôm sau, cha tôi mang cối đá ra rửa sạch. Bà múc từng bát gạo vào cối, mỗi khi cha quay cối, bà lại dùng tay gạt gạo xuống. Trong lúc đó, tôi giữ nước, chị Lan bóc lạc. Các hạt lạc đồng to tròn được bà để dành từ vụ trước, và chúng trông rất mỡ màng.
Lạc được bóc xong, bà đã hoàn thành công đoạn xay bột. Chị Lan đem lạc đun chín, cha cắt cành tre để nấu bánh, mẹ mang bó củi cho chị nhặt và đem nhóm lửa. Bà thêm mỡ vào bột, thêm một ít nước vôi, sau đó trộn lạc đã đun chín với bột, đổ vào chiếc xoong gang to và đặt lên bếp. Bà nấu bánh cần nguấy đều để bột không bị vón cục. Bà nguấy bột khi nó chưa sôi, và mẹ tiếp tục khi bột đã đặc. Khi bột chuyển màu, bà bắt đầu làm nước chấm. Bà nói rằng nước chấm phải nguấy đều để bột không bị vón cục, khê, hay khét.
Bánh chín xong, bà chuẩn bị lá chuối đã rửa để đặt bánh. Cha nghiêng xoong trên nia, bà nhanh chóng phết mỡ lên bề mặt bánh, tôi giữ nước, chị Lan đổ nước chấm vào bát. Tôi là người ăn khó tính nhất, nhưng mẹ làm nước chấm thơm phức, ngon quá nên tôi không thể từ chối. Mẹ trộn lạc với mỡ bà để làm nước chấm, thêm chút hành, mắm, bột ngọt để vừa khẩu vị. Chỉ trong vài phút, tôi có một bát chấm thơm ngon, ngậy béo.
Mẹ xong việc nước chấm, bánh nguội bớt, bà cắt thành từng miếng vừa ăn. Cả gia đình quây quần bên nia, tôi nhấc miếng bánh mềm mại, ướt thêm chút nước chấm đậm đà, đưa vào miệng và thưởng thức hương vị của hạt gạo, vị ngọt tự nhiên, cùng với hạt lạc béo tròn và mùi thơm của mỡ heo. Bếp ấm nồng, âm thanh của thanh nói đang bùng cháy, tất cả tan biến đi trong không gian lạnh buốt của những ngày gần Tết.
Cuộc sống có sự thay đổi từng ngày, nhưng vẫn có những người phụ nữ với chiếc gánh trên vai của họ đi qua những con ngõ, phố xá, và làm cho tôi dừng lại, nhìn và ngửi mùi thơm quen thuộc của 'Ai bánh đúc đây, bánh đúc nóng đây...”
Tôi nhớ bà, nhớ quê hương mình đến nỗi cả gan ruột, nhớ dáng đi của bà trong mỗi chiều giáp Tết, khi tia nắng vàng còn trải dài trên tấm lưng cong. Bà vừa nhai trầu, vừa kêu cha dậy để xay bột nấu bánh. Nhớ đôi tay bà khéo léo bóc hạt lạc, bóc sao cho nhanh và đỡ đau tay... Tất cả những kỷ niệm đó được gói gọn trong miếng bánh đúc thơm ngon từ tuổi thơ, là một món quà ôm trọn tình yêu của bà, mang đầy hạnh phúc và niềm vui, nhưng cũng kèm theo nỗi buồn nhẹ nhàng.
Nhớ bà, tôi thường một mình tìm kiếm nơi phố xá để tận hưởng một chút không khí quen thuộc của ngày xưa. Có lẽ đó là gốc bàng già kê vài miếng gỗ xập xệ ở ngoại ô thành phố. Ngồi đó, nhấm nháp miếng bánh đúc từ từ, hồi tưởng về những ký ức ngọt ngào của tuổi thơ, tận hưởng cảm giác hạnh phúc và nghẹt thở.
Tác giả: Nguyễn Thị Hồng


9. HỒN QUÊ TRONG TIẾNG BÀ RU
Đang trèo xe đạp nhẹ nhàng qua những con đường làng, ánh nắng mặt trời đầu hè bắt đầu gửi lời chào biệt, tôi bắt gặp giai điệu êm dịu từ chiếc võng bên lề đường. Tiếng ru len lỏi theo nhịp lồng lộng như hòa mình vào làn gió, lan tỏa trong bình yên của chiều quê. Người phụ nữ ru con không còn trẻ, nhưng giọng hát vẫn ngọt ngào, chạm đến trái tim của du khách lang thang như tôi. Lời ru được thể hiện thông qua những câu thơ lục bát, mở đầu bằng từ ngân nga lên và tan ra như hơi thở nhẹ, như mảng sáng mờ trong không khí ấm áp của chiều quê. Tôi dừng lại để lắng nghe, nhưng thực tế chỉ là để cảm nhận, để đắm chìm trong âm nhạc của ký ức mà lâu lắm tôi mới trở lại. Những giọt nắng vẫn tiếp tục nhảy múa trên con đường quê yên tĩnh, khi gió đưa lá tre xao xác. Trái tim tôi như coi lại khi câu hát quen thuộc bắt đầu. Bóng dáng bà tôi nơi nào đó theo lời ca vẫn hiện hữu, mơ hồ nhưng đầy ấm áp. Tôi ngửa đầu nhìn bầu trời xanh bát ngát, mở toang cảm giác để những giai điệu kia tràn ngập, làm đầy nỗi nhớ về bà lúc này. Ngày xưa, bà cũng hát ru chúng tôi bằng chính những bản hát ấy.
“Ầu ... ơi...
chim quyên ăn trái đa đa
Nuốt vô sợ đắng nhả ra bạn cười...”
Chúng tôi lớn lên trong tiếng ru bình yên của bà. Từ những ngày thơ ấu, tôi đã cảm nhận được âm thanh ấy. Những âm thanh nhẹ nhàng từ lời ru của bà như làn gió nhẹ, luân phiên theo nhịp của chiếc võng, không ngừng trôi theo gia tốc lúc chậm lúc nhanh. Đôi mắt của chúng tôi dần nhắm lại, hòa mình vào giấc ngủ, lúc nào không hay. “Ầu .. ơ... sáng mai ra dạo vườn cà, trái non làm mắm trái già làm dưa, làm thì ba bữa dưa chua, chị kia xách chén lại mua ba đồng...”. Câu hát ru của bà không bắt đầu bằng à…ơi… hay ru…hời… mà bà thường dẫn vào câu hát bằng ô hôi …ố hồi…hay ầu ...ơ... Những lời ca dân dã, mộc mạc với âm điệu giản đơn vậy nhưng lại có sức cuốn hút ghê gớm. Nó như có phép thuật thôi miên chúng tôi, đưa chúng tôi vào một thế giới khác, nơi những ruộng lúa, vườn cà trở thành nền nhạc của cuộc sống thôn quê. Thế giới mà trẻ con trước khi chìm vào giấc ngủ có cả những phận đời long đong, những nhọc nhằn gian khó của muôn kiếp nhân sinh và cũng có cả những châm chọc, đối đáp làm tươi vui cuộc sống vốn đầy những lo toan. Những câu bà ru cứ như kéo các cháu mình ngược dòng về quá khứ, lùi lại với thời gian để tâm hồn và thể chất của chúng tôi được nuôi dưỡng bằng những “Chiều chiều ra đứng ngõ sau...”, “Em tôi khát sữa bú tay...”, “Gió đưa bụi chuối sau hè...”
Những bài hát của bà không chỉ là nỗi niềm, mà còn là sự giải bày tâm sự về thân phận của người phụ nữ, bắt nguồn từ câu ca dao, tục ngữ của vùng đất nằm giữa đèo Hải Vân và ngoài đèo Cả. Những con người chịu thương chịu khó như thổ nhưỡng nơi đây, quanh năm hứng chịu sự trút giận, hờn của đất trời, trở thành chủ đề của những bản hát ru. Những bài hát mà bà ru cháu, mẹ ru con ngọt ngào ấy chính là những lời bộc bạch, nhắn nhủ về sự thủy chung son sắt, cam chịu của người phụ nữ một thời ở xứ miền trung này.
“Ầu ...ơ...Một mai ai chớ bỏ ai
Chỉ thêu nên gấm sắt mài nên kim
Kim đồng, kim sắt, kim thau
Ai mua chỉ tàu vá áo cho anh...”
Những nỗi lo toan mà họ không biết bộc bạch cùng ai nên chỉ biết gởi vào câu hát ru truyền từ đời này sang đời khác. Giọng bà dìu dặt trong câu hát như bảo rằng “cháu ơi hãy ngủ cho ngoan, cho mau lớn nhé để bà còn nhờ, để ba mẹ trút bớt nỗi lo”
“Một mình lo bảy lo ba
Lo cau trổ muộn lo già hết duyên
Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm về trưa một mình”
Thế giới trong lời ru của bà loang lỗ những mảng màu buồn, vui của cuộc sống ngày xưa. Chẳng có nhiều phương tiện để lưu lại những gam màu ấy, nên người ta lưu truyền qua khúc hát ru. Những câu hát mỗi khi được cất lên nghe cứ man mác, du dương ru hồn người vào một thế giới khác, thế giới của những ruộng lúa, nương dâu, vườn cà. Thế giới mà trẻ con trước khi chìm vào giấc ngủ có cả những phận đời long đong, những nhọc nhằn gian khó của muôn kiếp nhân sinh và cũng có cả những châm chọc, đối đáp làm tươi vui cuộc sống vốn đầy những lo toan. Những câu bà ru cứ như kéo các cháu mình ngược dòng về quá khứ, lùi lại với thời gian để tâm hồn và thể chất của cháu nhỏ được nuôi dưỡng bằng những “Chiều chiều ra đứng ngõ sau...”, “Em tôi khát sữa bú tay...”, “Gió đưa bụi chuối sau hè...”
Tiếc rằng sự lưu truyền đã dần mất đi. Hỡi các bà mẹ trẻ! Hãy học hát ru đi để cho con của mình được khởi nguồn cuộc sống từ chính những lời ầu ơ mộc mạc được lưu giữ qua bao thế hệ.
3-5-2022
Bùi Duy Phong


10. '...Dẫu Còn Chiếc Bình Vôi Trắng...'
Chỉ thừa chiếc bình vôi trắng
Bà giờ đây thôi ru lòng đêm sương.
Lê Đình Tiến
Bà ăn vội miếng vàng cuối cùng, rồi đặt xuống đũa bát, đứng dậy. Áo quần dặn dò, tay này cầm chiếc đèn, tay kia kề cây gậy điệu bộ bước đi đón cháu, chính là chị cả của tôi trễ học về. Chưa đến 7 giờ tối, nhưng con đường làng im lìm, bóng cây che phủ, tre pheo dày cộp, và trời tối như đen nhựa.
Quê tôi nơi nào cũng thấy cây tre. Tre nảy mầm ven đường hay bên bờ ao, và ao nước mặn đâu cũng có, đằng trước nhà cũng vậy, đằng sau cũng thế. Mùa hè, cây tre tạo bóng mát và là nơi trẻ con chơi nhảy múa, nhưng đêm về, khi không có đèn đường, đường làng trở nên ảm đạm, ít người ra khỏi nhà. (Đèn dầu chỉ sáng khi học bài vào buổi tối, nhưng ngày xưa không phải ai cũng học nhiều như trẻ con ngày nay, nên bài vở thường được làm vào buổi chiều để tiết kiệm dầu!) Gió thổi, những cây tre uốn eo, phát ra âm thanh ken két, kín kít..., làm tim người yếu bóng vía.
Nhưng với bà, tất cả những điều đó chỉ là chuyện nhỏ. Bà tiếp tục bước đi trên con đường tối tăm, gọi tên cháu trong bóng đêm êm đềm.
Chí tôi đi học ở một trường cấp 3 xa xôi, cách nhà hàng chục cây số, khiến việc di chuyển trở nên khó khăn, mặc dù đã được bố mẹ mua một chiếc xe đạp xanh phượng hoàng. Năm đó, nước dâng cao, làng tôi đang nằm trong con đê, sẽ không ảnh hưởng nếu không mở Cống Ba Xuân để xả lũ và tránh vỡ đê. Do đó, khi nước rút, đường trở nên lầy lội, chị tôi đi bộ đến trường và về nhà muộn, khiến bà lo lắng phải đến đón.
Hai bà cháu về nhà, bà mới kể về việc bị một con gì đó cắn vào tay, mẹ tôi kiểm tra thấy vết cắn răng của con rắn. Mẹ nhanh chóng lấy sợi dây chun cắt từ chiếc săm xe đạp hỏng, buộc chặt tay bà lại (vì cách này sẽ ngăn nọc độc của rắn không lan lên tim, mẹ tôi giữ nguyên khi buộc và nói như vậy). Chưa đầy 5 phút sau, tay bà bắt đầu tím lên, bà nói: 'Chắc bà không chết vì rắn, mà chết vì cái dây này quá chặt! Chỉ cần nghe bà nói chết là tôi gào to: Ối ông bà ơi, ông bà không được chết, bà chết thì cháu ở với ai đây!'
Tôi lúc đó mới 4 hay 5 tuổi gì đó, là em út. Trong mắt tôi, hay chính xác hơn là trong mắt chị em tôi, bà nội là một vị Thánh. Thánh thì không thể chết, vì vậy tôi khóc lớn, lăn xuống sàn nhà gào lên, nước mắt tuôn trào như bà tôi sắp chết, chị gái trên tôi cũng khóc theo. Cả nhà như chuỗi nối, các chị và anh tôi cũng khóc và ôm chặt bà. Trong trời hè tháng tám nóng bức, tay còn lại của bà vẫn quạt nan mạnh mẽ, quạt và xua đuổi chúng tôi ra xa để không bà chết ngạt! Khóc đến chán chường, chị thứ hai tôi quay sang cãi nhau với chị cả, bảo rằng mọi chuyện bây giờ là do chị, chị phải chịu trách nhiệm! Bất chấp bà đang trong tình trạng khó khăn, cãi nhau ầm ĩ không chịu thua, bà tôi nói: 'Thôi thì đằng nào bà cũng chết, cởi cho bà cái dây để bà nhẹ nhàng một chút!' Cảm thông với bà, các chị quẩy bỏ cái dây chun khó chịu kia. Ngay sau đó, mẹ tôi trở về với thuốc và bắt đầu chăm sóc bà. Loại thuốc đó không phải là loại ma thuật nào, chỉ là rễ cây đu đủ và rau muống, thứ mà vườn nhà tôi tràn ngập. Tôi nghĩ rằng làm thế nào mà mẹ tôi lại chạy khắp làng để mua thuốc, nhưng bị chị gái trên mắng một trận vì dốt, 'dốt đặc cán mai dốt dài cán thuổng'. Dù tôi không biết nghĩa của 'bã đậu' là gì, nhưng tất nhiên là không muốn tranh cãi!
Đêm đó, tôi ngủ cùng mẹ để nhường giường cho bà và các chị khác. Sáng ra, mở cửa kiểm tra xem bà còn sống không, bà tôi đã thức dậy từ khi nào và lại đang điệu bộ dạo chơi trong vườn. Bà đã khỏi bệnh, có lẽ nhờ thuốc của mẹ tôi, hoặc có thể con rắn không có nọc độc, nhưng chị em tôi mừng rỡ vì bà vẫn ở bên. Chị cả phải cam kết không để mình đi muộn nữa, phải đón chị tôi mỗi khi trễ học về, vì lần tới nếu rắn có nọc thật thì sao? Nhưng rắn có nọc thì cũng thiếu gì, chỉ là những con rắn lục trên hàng rào thôi! Tôi tuyên bố rằng tôi sẽ mặc áo xanh phượng hoàng, mặc dù chỉ nghe đàn ông nói chuyện chưa nhìn thấy rắn lục bao giờ.
Bà tôi đã theo gió về bên trời. Dù mới đây thôi, nhưng đến giờ đây lại gần đến kỷ niệm lễ giỗ thứ 24 của bà. Nỗi nhớ thương không bao giờ phai nhạt, cùng với những ký ức không bao giờ lỗi thời.
Vy Đoàn Thị

