1. Bài tham khảo mẫu số 4
Nguyễn Du, đại thi hào của dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới. Khi nhắc đến ông, không thể không kể đến “Truyện Kiều” - tác phẩm đã nâng tầm Tiếng Việt thành ngôn ngữ của dân tộc. Đọc truyện, ta cảm nhận được trái tim nhân hậu, đa cảm của nhà thơ dành cho con người. Như Mông Liên Tưởng chủ nhân đã viết trong lời tựa Truyện Kiều: “Lời văn tả như có máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy, khiến ai đọc cũng phải thấm thìa, ngậm ngùi, day dứt đến đứt ruột”. Qua tám câu thơ cuối của đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, ta mới cảm nhận được sự tinh tế, cái hay, cái đẹp của bút pháp tài hoa Nguyễn Du, đặc biệt là bút pháp tả cảnh ngụ tình.
Có thể nói, tám câu thơ cuối là mẫu mực của lối thơ tả cảnh ngụ tình trong văn chương cổ điển, nơi mà cảnh sắc thiên nhiên gửi gắm tâm trạng, cảm xúc của con người. Để diễn tả nỗi cô đơn, buồn tủi, tuyệt vọng của Kiều, Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc sắc: “Tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” - thực cảnh và tâm cảnh hòa quyện. Mỗi cảnh gợi lên một nỗi buồn khác nhau, khiến cho nỗi buồn của Kiều càng thêm sâu sắc, ghê gớm. Đúng như Nguyễn Du từng viết:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Những dòng thơ sinh động, dưới ngòi bút tài hoa của tác giả, vẽ nên một bức tranh vừa gợi tả cảnh thiên nhiên, vừa khơi gợi nỗi lòng của Kiều. Một mình giữa không gian mênh mông, nỗi nhớ quê hương trỗi dậy trong lòng nàng.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng, cánh buồm xa xa
“Cửa bể” là không gian biển khơi mênh mang, rợn ngợp trong chiều tà, gợi nỗi buồn vắng da diết. Câu thơ của Nguyễn Du khiến ta liên tưởng đến hình ảnh người con gái lấy chồng xa quê, mỗi chiều tà lại hướng về quê mẹ:
Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.
Trong thơ, cảnh chiều hôm giữa không gian bao la có một cánh buồm lẻ loi, lạc lõng thấp thoáng lúc ẩn lúc hiện, gợi lên sự lưu lạc, tha hương cùng nỗi buồn da diết của Kiều về cha mẹ nơi đất khách quê người. Câu thơ vang lên như niềm khao khát, hoài bão nhưng hiện tại, Kiều vẫn lẻ loi đối đầu với sóng gió cuộc đời, số phận nàng sẽ lênh đênh về đâu?
Tâm trạng sợ hãi, lo lắng của Kiều giữa biển trời vô định khiến người đọc xót xa, khi nàng nhìn thấy cánh hoa trôi mà nghĩ đến thân phận mình:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
“Ngọn nước mới sa” mang sức mạnh của thiên nhiên, có thể cuốn trôi, hủy diệt những gì nhỏ bé. Không gian lúc này không chỉ mênh mông mà còn dữ dội, hình ảnh hoa trôi bị dập vùi trên sóng nước chính là cuộc đời Kiều, nổi trôi giữa dòng đời, bất lực để số phận xô đẩy. Thật đau đớn khi Kiều giờ đây như con chim lạc bầy giữa giông tố.
Hai câu thơ tiếp theo, tâm trạng sợ hãi, lo lắng của Kiều đã chuyển thành tuyệt vọng, bế tắc khi nàng nhìn thấy ngọn cỏ rầu rầu:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Cảnh không còn là “cỏ non xanh tận chân trời” của ngày xuân mà là “nội cỏ rầu rầu” héo úa, tàn lụi, khiến Thúy Kiều càng thêm chán nản, vô vọng. Màu “xanh xanh” của cỏ cây giờ đây không còn tươi tắn, cảnh vật thêm ảm đạm, giống như màu cỏ trên mộ Đạm Tiên:
Sè sè nấm đất bên đường
Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh
Hai câu thơ cuối là đỉnh cao của bút pháp tả cảnh ngụ tình. Sóng gió dữ dội gắn liền với sự bủa vây của sức mạnh phong kiến đe dọa cuộc đời Thúy Kiều:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Chiều đã muộn, cảnh không còn hiện rõ nữa, âm thanh mạnh hơn. Kiều nhìn thấy “gió cuốn” từng đợt sóng trào dâng, nghe “sóng kêu” vang dội và cảm thấy lo sợ, bất lực như rơi vào vực thẳm. Chính lúc này, Kiều trở nên tuyệt vọng nhất, yếu đuối nhất, và vì thế nàng đã mắc lừa Sở Khanh, rồi dấn thân vào cuộc đời đầy sóng gió.
Không chỉ vậy, bốn câu lục bát được liên kết bằng điệp ngữ “buồn trông” gợi nỗi buồn điệp trùng, triền miên, như một bản nhạc buồn. “Buồn trông” là buồn mà ngóng trông một cái gì đó mơ hồ sẽ thay đổi hiện tại nhưng càng trông càng vô vọng. Điệp ngữ “buồn trông” kết hợp với các từ láy như “thấp thoáng”, “xa xa”, “man mác”, “rầu rầu”, “xanh xanh”, “ầm ầm” đã diễn tả sâu sắc tâm trạng đau thương của Kiều, đồng thời với những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, và tâm trạng từ tuyệt vọng đến lo lắng, hoang mang.
Tóm lại, “Kiều ở Lầu Ngưng Bích” không chỉ là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng. Đoạn trích thể hiện tài năng bậc thầy của Nguyễn Du trong tả cảnh ngụ tình, trong đó, tám câu thơ cuối đã gieo vào lòng người nỗi buồn thương cùng Kiều và tình yêu thương, thấu hiểu với thân phận người phụ nữ của Nguyễn Du.
2. Mẫu bài tham khảo số 5
Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh từng nói: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”, trong khi nhà thơ Chế Lan Viên tinh tế cảm nhận: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Trải qua bao thế kỷ, Truyện Kiều đã trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu với người Việt. Những trang thơ ấy như có một sức hấp dẫn kỳ diệu, mãi đọng lại trong tâm hồn ta, khơi dậy niềm cảm thông sâu sắc với số phận bi thương của Thúy Kiều, đồng thời mang đến cho ta những cảm xúc thẩm mỹ đặc biệt trước những vần thơ đẹp như hoa như gấm:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Đây là tám câu thơ trong đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Những vần thơ này được coi là ám ảnh nhất trong đoạn trích, thể hiện thành công nỗi niềm đau đớn của Kiều trong những ngày đầu của cuộc đời đầy đau khổ. Hai từ 'buồn trông' lặp lại bốn lần trong đoạn trích, không chỉ gói gọn tâm trạng của Kiều 'trước lầu Ngưng Bích', mà còn tạo nên nhịp điệu đều đều, buồn thương cho bài thơ. Ở nơi 'khóa xuân', Kiều chỉ biết tìm đến thiên nhiên như một điểm tựa, và từ đó, nàng nhận thức về số phận của mình. Tầm mắt của nàng trước tiên hướng ra xa, vì nơi đó là nhà của nàng, là nơi có những người thân yêu nhất:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Không gian xa xăm, quạnh hiu nơi cửa bể càng làm nổi bật thân phận nhỏ bé, cô đơn của Kiều. Không gian ấy cùng thời khắc 'chiều hôm' - thời gian gợi nhớ, gợi buồn - càng làm nỗi niềm xót xa thấm sâu hơn vào tâm hồn nàng nơi đất khách quê người. Giữa khung cảnh ấy, trái tim cô đơn, tâm hồn trống vắng cần lắm một sự ấm áp, một sự hiện diện của sự sống:
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
'Thuyền' là hình ảnh biểu tượng cho sự sống của con người. Nhưng sự hiện diện ấy mờ mờ, như có như không, được diễn tả qua hai từ 'thấp thoáng', 'xa xa'. Hình ảnh cánh buồm xuất hiện mờ ảo không làm khung cảnh thêm ấm áp, thân mật, mà càng gợi lên nỗi buồn, cảm giác cô liêu cho con người. Không tìm thấy sự chia sẻ nơi cửa bể xa xăm, Kiều quay tầm mắt về 'ngọn nước' gần hơn:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Giữa dòng nước, cánh hoa trôi lững lờ như gợi nhớ thân phận trôi dạt của nàng trong hoàn cảnh này. Câu hỏi tu từ như xoáy sâu vào tâm hồn người đọc. Thân phận cánh hoa hay chính là những trăn trở, xót xa cho số kiếp mỏng manh, phiêu bạt của Kiều? Hai tiếng 'về đâu' cuối câu thơ với thanh không càng tạo cảm giác xa vắng, vô định, tương hợp với tâm trạng hiện tại của Kiều. Mong muốn tìm đến thiên nhiên để vơi bớt nỗi sầu, nhưng càng nhìn cảnh, tâm trạng lại càng rối bời. Nước lạnh lẽo, bất định, trôi mãi khiến Kiều tìm đến bờ cỏ xanh và mặt đất:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Nhưng cỏ cũng mang tâm trạng buồn thương của nàng: 'rầu rầu'. Đâu còn là 'cỏ non' xanh tận chân trời trong tiết thanh minh khi Kiều còn sống những ngày tháng 'Êm đềm trướng rủ màn che'. Cảnh nơi đất khách như thấu hiểu nỗi niềm của Kiều nên nhuốm màu tâm tư của người phiêu bạt. Nỗi 'rầu rầu' ấy tràn ngập, lan tỏa khắp không gian:
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Cái nhìn từ xa xăm của 'chân mây' đến 'mặt đất' gần gũi, tất cả đều 'một màu xanh xanh'. Nó khác lắm cái sắc xanh tràn đầy nhựa sống của tiết trời mùa xuân: Cỏ non xanh tận chân trời và cũng không giống màu áo xanh tinh khôi của chàng Kim trong ngày đầu gặp gỡ:
Tuyết in sắc ngựa câu giòn.
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời.
Màu xanh của không gian nơi lầu Ngưng Bích là màu xanh gợi buồn. Nỗi buồn của người pha vào cảnh vật, mang theo bao tái tê. Không gian trở nên cô quạnh, vắng lặng, càng làm nổi bật tiếng lòng thổn thức của người trong cảnh. Kiều cảm thấy cần một tiếng vọng của sự sống con người nhưng đáp lại nàng chỉ có tiếng vọng của thiên nhiên:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Gió thổi, nước chảy... tất cả gợi lên sự chảy trôi, như thân phận 'Bên trời góc bể bơ vơ' của nàng Kiều. Tiếng sóng ầm ầm như tiếng gào thét của lòng người trong cảnh ngộ bẽ bàng, đau đớn. Tầm mắt của Kiều hướng từ xa về gần, từ cao đến thấp, mong mỏi tìm kiếm một sự đáp trả. Tiếng sóng 'ầm ầm' kêu quanh ghế ngồi' không làm không gian thêm vang động mà càng khắc sâu thêm nỗi đau đớn và dự cảm lo âu về tương lai của nàng. Xót xa biết bao, đau đớn biết bao! Chỉ có thiên nhiên bên nàng, chia sẻ 'tấm lòng'' với nàng. Đó chính là thời khắc Kiều thấm thía nhất nỗi niềm tự thương thân.
Thơ ca chỉ chạm đến lòng người khi nó là tiếng lòng chân thành, được tạo ra bởi nghệ thuật đích thực. Đoạn thơ này của Nguyễn Du đã làm được điều đó. Nó không chỉ khắc họa thành công nỗi lòng đau xót của Kiều mà còn cho thấy nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tuyệt vời của đại thi hào dân tộc. Âm hưởng của những câu thơ này sẽ mãi vang vọng trong tâm trí người đọc.
3. Tài liệu tham khảo số 6
“Truyện Kiều” đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa tinh thần của dân tộc ta qua nhiều thế kỷ. Đây là viên ngọc quý trong kho tàng văn học dân tộc, thể hiện rõ nhất qua lòng nhân đạo cao cả và tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du. Một trong những yếu tố nghệ thuật nổi bật trong tác phẩm là nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, được thể hiện rõ nét trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, đặc biệt là 8 câu thơ cuối mở đầu bằng “buồn trông”.
Kiều bị giam ở lầu Ngưng Bích, bốn bề hoang vắng. Ngày ngày nàng nhớ về gia đình, người yêu trong đau khổ. Khi nhìn ra cửa bể vào chiều hôm, nàng thấy cánh buồm thấp thoáng trong khói sóng hoàng hôn, mờ ảo như chính nỗi lòng nàng. Cánh buồm ấy có thể là thực, nhưng cũng có thể chỉ là ảo ảnh trong niềm khát khao được giải thoát của Kiều. Nàng mong chờ một con thuyền đưa nàng về với gia đình, nhưng càng mong lại càng thêm tủi thân, khi con thuyền ấy chỉ là ảo vọng, hoặc nếu có thật cũng chỉ càng làm nàng thêm đau đớn.
Trên dòng nước đục ngầu, những cánh hoa mỏng manh trôi dạt, giống như số phận Kiều bị vùi dập bởi sóng gió cuộc đời. Những cánh hoa ấy sẽ trôi về đâu, giống như tương lai vô định của nàng. Tâm trạng Kiều ngày càng mông lung, mọi cảnh vật trước mắt nàng nhòe đi trong màn nước mắt, ngay cả cỏ nội cũng trở nên rầu rĩ bởi tâm trạng con người.
Khung cảnh mênh mông rợn ngợp trở nên mờ mịt hơn khi từ chân mây đến mặt đất không còn ranh giới, màu xanh đơn điệu không còn sức sống như xưa, giống như cuộc sống của Kiều lúc này. Đến cặp lục bát cuối, cảm xúc buồn lo của nàng chuyển thành sợ hãi. Âm thanh “ầm ầm” của sóng gió ngoài biển như báo trước một tương lai sóng gió, đầy đau khổ sẽ đến với Kiều. Nguyễn Du đã tài tình miêu tả rõ nét tâm trạng của Thúy Kiều trong những ngày tháng bị giam nơi lầu Ngưng Bích, những ngày tháng mở đầu cho cuộc đời lưu lạc của nàng. Nàng càng buồn càng trông, càng trông càng buồn, và Nguyễn Du đã thấu hiểu, bộc lộ sự cảm thông qua ngòi bút của mình.
Bốn cặp lục bát ngắn gọn chứa đựng tài năng và tấm lòng nhân đạo bao la của đại thi hào Nguyễn Du. Đọc những dòng thơ này, người đọc không khỏi cảm thương cho số phận Thúy Kiều và trân trọng tài năng, tấm lòng của thi sĩ Nguyễn Du.
4. Tài liệu tham khảo số 7
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ đầy cảm xúc trong Truyện Kiều - kiệt tác của Nguyễn Du. Những bi kịch nội tâm của Kiều trong những ngày đầu lưu lạc được nhà thơ diễn tả qua những câu thơ tuyệt vời:
Kiều như đời dân tộc thăng trầm,
Kiên trinh vượt sóng Tiền Đường.
Kim Trọng đến lau dòng lệ đẫm,
Đêm trầm hương ngát tỏa khắp phương...
(Đọc Kiều, Chế Lan Viên)
Những câu thơ của Chế Lan Viên khơi dậy trong lòng người đọc niềm thương tiếc về số phận đau khổ của Thúy Kiều, và lòng nhân ái vô bờ của Nguyễn Du, nhà thơ vĩ đại của dân tộc.
Đoạn thơ tám câu như thấm đầy lệ làm xao xuyến hồn ta: 'Thương Kiều như đời dân tộc - tài sắc sao lại nhiều khổ đau'.
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ xúc động nhất trong Truyện Kiều, tác phẩm để đời của Nguyễn Du. Những bi kịch nội tâm của Kiều trên con đường lưu lạc ban đầu được diễn tả qua ngôn ngữ nghệ thuật tả cảnh ngụ tình tinh tế. Những vần thơ buồn đã gieo vào lòng người đọc nỗi xót xa khôn nguôi về những kiếp người bạc mệnh xưa...
Sau khi bị lừa và bị làm nhục, Kiều tự vẫn nhưng được cứu sống. Tú Bà lập mưu mới, dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Thân gái nơi đất khách quê người, Kiều lo âu và buồn bã. Những ngày đầy bão tố vừa qua và con đường phía trước đầy rẫy cạm bẫy làm nàng cay đắng và đau khổ. Giờ đây, nàng sống cô độc trong lầu Ngưng Bích với nỗi niềm 'bẽ bàng, chán ngán'. Nỗi nhớ cha mẹ già yếu không ai chăm sóc, nhớ chàng Kim nơi trời xa dâng lên trong lòng nàng.
Nỗi nhớ kéo theo nỗi đau buồn tê tái, sự hoang mang và lo sợ. Đoạn thơ tám câu đầy cảm xúc với những hình ảnh thiên nhiên gợi lên nỗi lòng đau khổ của Kiều: 'cửa bể chiều hôm', con thuyền và 'cánh buồm xa xa', 'ngọn nước mới sa', 'hoa trôi man mác', 'nội cỏ dầu dầu', và tiếng sóng ầm ầm như nói lên sự lo âu, sợ hãi, nỗi khiếp sợ của nàng.
Những hình ảnh và ngôn từ trong đoạn thơ gợi lên trong lòng người đọc một nỗi đau và số phận bạc mệnh của Thúy Kiều. 'Cánh buồm xa xa' thấp thoáng trên 'cửa bể chiều hôm' gợi lên hành trình lưu lạc, 'hoa trôi man mác' giữa 'ngọn nước mới sa' bao la gợi lên nỗi lo âu cho thân phận nhỏ bé trôi dạt, và 'nội cỏ dầu dầu' giữa màu xanh 'chân mây mặt đất' gợi lên cuộc đời tàn úa của nàng.
Biển trời dữ dội 'ầm ầm tiếng sóng' như một bức tranh biểu tượng về nỗi lo sợ của Kiều. Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh là một ẩn dụ cho tâm trạng đau khổ của nàng. Hệ thống từ láy 'thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm' tạo nên một âm điệu hiu hắt, buồn bã, ám ảnh. Điệp ngữ 'buồn trông' lặp lại bốn lần như một tiếng kêu thương, diễn tả nỗi buồn tràn đầy tâm trạng Thúy Kiều, làm người đọc xúc động không nguôi.
Tóm lại, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ đầy nỗi 'đoạn trường'. Những hình ảnh phong phú về ngoại cảnh và tâm cảnh khắc họa nỗi đau buồn của Kiều, dự báo những sóng gió nàng phải trải qua trong mười năm lưu lạc. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du vô cùng điêu luyện, cảnh vật hòa hợp với tình cảm nhân vật, tạo nên một tác phẩm giàu giá trị nhân bản, gợi lên trong lòng người đọc lòng thương xót và cảm thông sâu sắc cho số phận của Thúy Kiều.
Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều.
(Tố Hữu)
5. Tài liệu tham khảo số 8
Khắc họa thành công tâm trạng của Thúy Kiều cho thấy Nguyễn Du thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc với nỗi niềm, số phận con người. Khi nhắc đến Nguyễn Du, người ta nhớ ngay đến một nghệ sĩ với khả năng miêu tả chân dung nhân vật một cách xuất sắc, nổi bật nhất là hình tượng Thúy Kiều. Bên cạnh đó, ông còn là một nhà thơ tài hoa trong việc miêu tả thiên nhiên. Điều này được thể hiện rõ qua tâm trạng của Thúy Kiều khi nàng ở lầu Ngưng Bích.
Sau khi bị lừa và 'thất thân' với Mã Giám Sinh, rồi lại bị Tú Bà làm nhục, Kiều đã dùng dao tự vẫn nhưng được cứu sống. Tú Bà lại lập mưu, dỗ dành Kiều ra ở lầu Ngưng Bích. Thân phận lẻ loi nơi đất khách, lo âu và buồn bã. Những ngày bão tố, kinh hoàng đã qua. Chặng đường phía trước mịt mờ, đầy nguy hiểm. Nàng cay đắng và vô cùng đau khổ. Giờ đây, nàng sống một mình trong lầu Ngưng Bích với tâm trạng 'bẽ bàng, chán ngán'. Không ai để nương tựa, không ai để chia sẻ. Nỗi nhớ thương như sóng dâng trào trong lòng. Kiều nhớ cha mẹ già yếu, không ai đỡ đần 'quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ'. Nàng nhớ chàng Kim 'bên trời góc bể bơ vơ...'
Sau nỗi nhớ là nỗi đau buồn tê tái, sự hoang mang và lo sợ không ngừng... Nỗi đau xé lòng, siết chặt hồn nàng. Đoạn thơ tám câu đầy ắp tâm trạng. Nhà thơ đã lấy cảnh thiên nhiên làm nền cho sự vận động nội tâm của nhân vật. Cảnh vật thân quen ở vườn Thúy nay đâu rồi? Tất cả giờ đều xa lạ và hoang sơ: 'cửa bể chiều hôm', con thuyền 'thấp thoáng cánh buồm', 'ngọn nước mới sa', cánh 'hoa trôi man mác', 'nội cỏ dầu dầu', màu xanh mờ của đất trời, gió cuốn và tiếng sóng ầm ầm... Những cảnh vật, âm thanh ấy đã góp phần đặc tả tâm trạng Kiều; một bi kịch đang giày vò tâm hồn nàng ngày đêm.
Mỗi hình ảnh, mỗi ngôn từ đều gợi ra trong lòng người đọc một sự liên tưởng đau xót về nỗi đau và số phận 'bạc mệnh' của người con gái Vương Viên ngoại. Những hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho sự lo âu và sợ hãi của Kiều. 'Cánh buồm xa xa' thấp thoáng trên 'cửa bể chiều hôm' như gợi lên một hành trình lưu lạc mờ mịt:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Cánh 'hoa trôi man mác' giữa 'ngọn nước mới sa' bao la, cũng là tâm trạng lo âu cho thân phận nhỏ bé trôi dạt trên dòng đời vô định:
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
'Nội cỏ dầu dầu' vàng úa hiện lên giữa màu xanh 'chân mây mặt đất' mờ mịt xa xăm, cũng như cuộc đời héo úa của nàng:
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Và biển trời dữ dội 'ầm ầm tiếng sóng' đang vỗ, như nói lên sự lo âu, sợ hãi của Kiều:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh, ngôn ngữ miêu tả thiên nhiên, ngoại cảnh đều là một ẩn dụ, một tượng trưng cho tâm trạng đau khổ và số phận đen tối của Kiều. Hệ thống từ láy: thấp thoáng, xa xa, man mác, dầu dầu, xanh xanh, ầm ầm tạo nên âm điệu buồn bã, hiu hắt, ghê sợ. Điệp ngữ 'buồn trông' bốn lần cất lên như một tiếng ai oán, diễn tả nỗi buồn của Thúy Kiều khiến người đọc vô cùng xúc động:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Buồn trông ngọn nước mới sa
Buồn trông nội cỏ dầu dầu,
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh...
Tóm lại, “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một đoạn thơ kì lạ về nỗi 'đoạn trường'. Bức tranh phong phú về cảnh vật và tâm trạng đã khắc họa nỗi đau buồn, sợ hãi mà Kiều đang trải qua, báo trước những sóng gió bão bùng nàng sẽ đối mặt trong 15 năm lưu lạc 'thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần', có lửa nồng, có dấm thanh, cười ra tiếng khóc, khóc nên trận cười...
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” (trích “Truyện Kiều”) đã thể hiện tâm trạng cô đơn, buồn nhớ và đặc biệt là những biến động dữ dội trong lòng Thuý Kiều khi ở nơi “góc bể chân trời” buồn tủi. Đoạn trích khẳng định tài năng của Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật bằng bút pháp “tả cảnh ngụ tình” độc đáo.
6. Bài mẫu số 9
Nguyễn Du - người đưa văn học chữ Nôm Việt Nam lên đỉnh cao thế kỷ XVIII với tuyệt tác 'Truyện Kiều'. Kiệt tác này không chỉ gây ấn tượng bởi tài năng của Nguyễn Du mà còn vì tấm lòng nhân đạo sâu sắc dành cho những người phụ nữ tài sắc nhưng bạc mệnh. Tám câu cuối đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' là một bức tranh tâm trạng đầy xúc động của Thúy Kiều qua cách nhìn cảnh vật.
Đoạn trích 'Kiều ở Lầu Ngưng Bích' nằm trong phần hai 'Gia biến và lưu lạc'. Khi gia đình gặp hoạn nạn, Kiều đã quyết định bán mình để cứu cha. Cuộc đời nàng rẽ lối, những nốt nhạc đầu tiên của 'thiên bạc mệnh' đã vang lên. Kiều bị Mã Giám Sinh và Tú Bà lừa vào lầu xanh. Đau khổ và nhục nhã, Kiều đã tự tử nhưng không thành. Sau đó, Tú Bà đưa nàng ra sống ở lầu Ngưng Bích với lời hứa sẽ gả nàng vào chỗ tử tế. Bên ngoài lặng yên nhưng trong lòng Kiều trăm mối tơ vò. Nỗi buồn mênh mông chiếm lấy hồn nàng: xa người yêu, xa cha mẹ, đến đâu cũng chỉ thấy buồn. Nguyễn Du đã khéo léo biểu hiện tâm trạng Kiều qua cảnh vật: 'Tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này'. Mỗi cảnh là một bức tranh tâm trạng:
Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Ánh chiều dần tắt trên biển khơi mênh mông. Buổi chiều dễ khơi gợi nỗi buồn, nhớ nhà, đặc biệt với những người xa quê. Giữa biển bao la chỉ thấy thấp thoáng một con thuyền 'xa xa' lúc ẩn lúc hiện, như có như không. Chiếc thuyền lẻ loi phải chăng cũng chính là thân phận bơ vơ, côi cút của Kiều nơi góc bể chân trời, đơn độc một mình.
Sau cảnh biển mênh mông là cảnh hoa rơi trên sóng nước:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Thuyền trôi vô định, hoa cũng trôi vô định, chẳng biết sẽ về đâu. Nhìn hoa rơi trên sóng nước, Kiều liên tưởng đến số phận mình. Đời nàng có khác gì cánh phù dung sớm nở tối tàn. Hoa rơi xuống nước, bị gió dập sóng dồi. Kiều xa cha mẹ, đời nàng như cánh chim lạc bầy trong giông tố, không tự định đoạt được tương lai. Nàng đành buông xuôi theo dòng đời đẩy đưa.
Nhìn xuống mặt đất, Kiều chỉ thấy một màu vàng úa:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Không phải 'cỏ non xanh tận chân trời' mà là 'nội cỏ rầu rầu' vàng úa, tàn tạ, thê lương. Màu 'xanh xanh' nhàn nhạt làm cỏ cây thêm vẻ 'rầu rầu', tạo nên sắc thái buồn bã, tẻ ngắt. Tuổi thanh xuân tươi đẹp của Kiều như nội cỏ rầu rầu kia, dần phai nhạt và vô vị. Đời Kiều rồi cũng như đời Đạm Tiên, tài sắc vẹn toàn nhưng 'Sống làm vợ khắp người ta / Hại thay thác xuống làm ma không chồng'.
Kết thúc đoạn thơ là những âm thanh dữ dội:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Biển khơi đang yên ả bỗng vang lên những âm thanh ghê gớm, khủng khiếp. Tiếng sóng ầm ầm bốn phía như muốn cuốn đi thân phận nhỏ bé của Kiều, như đẩy nàng xuống vực thẳm. Sóng gió biển khơi hay sóng gió cuộc đời đang chờ đón nàng? Đó là những dấu hiệu định mệnh báo trước tai ương đầy bất trắc. Sau đó, Kiều mắc lừa Sở Khanh và rơi vào cảnh 'thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần'.
Nguyễn Du tả cảnh và ngụ tình tinh tế. Cảnh và tình song hành, mỗi cảnh là một bức tranh tâm trạng. Cảnh từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động, nỗi buồn từ man mác đến lo âu, kinh sợ. Cảnh vật thay đổi, bốn bức tranh tạo nên một bộ tranh tứ bình về tâm trạng Kiều. Cụm từ 'Buồn trông... ' mở đầu câu thơ lục tạo âm hưởng trầm buồn, trở thành điệp khúc đoạn thơ và tâm trạng Thúy Kiều. Các câu hỏi tu từ cùng một loạt từ láy gợi hình, gợi cảm đã khơi dậy những cơn sóng lòng của Kiều.
Đoạn trích 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' cho thấy rõ tâm trạng Kiều, giúp ta cảm nhận được tương lai đầy đau khổ của nàng và tài năng của Nguyễn Du. Đoạn trích được nhiều người biết đến và quý trọng, vừa vì tài bút tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du, vừa vì tấm lòng nhân đạo của ông làm lay động người đọc.
8. Tài liệu tham khảo số 10
“Truyện Kiều” là tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Du. Đoạn trích nổi bật nhất trong tác phẩm là “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, khắc họa rõ nét nội tâm của Thúy Kiều, thể hiện nỗi cô đơn và lòng trung trinh hiếu thảo của nàng, đặc biệt là qua tám câu thơ cuối:
“Buồn nhìn cửa bể chiều tà,
Thuyền ai lẩn khuất cánh buồm xa vời?
Buồn ngắm nước mới sa,
Hoa trôi lặng lẽ, chẳng biết về đâu?
Buồn trông cỏ úa rầu rầu,
Chân mây mặt đất một sắc xanh buồn.”
Tám câu thơ được chia thành bốn cặp lục bát, mỗi cặp bắt đầu bằng cụm từ “buồn trông” để nhấn mạnh cảm xúc bao trùm của đoạn thơ, đó là nỗi đau xót và buồn tủi của Kiều trước cảnh bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích.
Trước tiên, Kiều nhìn khung cảnh thiên nhiên rộng lớn từ lầu Ngưng Bích và nhớ về quê hương. “Chiều tà” chỉ thời điểm khi mặt trời sắp lặn, là lúc kết thúc một ngày, thời điểm mà mọi người trở về nhà sau một ngày dài. Nhưng Kiều lại đơn độc giữa cảnh vật bao la, không có ai qua lại. Không gian rộng lớn và thời gian càng làm nàng cảm thấy cô đơn. Kiều nhìn xa và thấy “cánh buồm”, nhớ về gia đình, tự hỏi không biết cha mẹ và các em đang sống ra sao.
Đến cặp câu thứ hai, khi nhìn cánh hoa trôi theo dòng nước, Kiều xót xa cho số phận của mình. Cánh hoa như cuộc đời của nàng, trôi dạt giữa dòng nước, không thể tự quyết định số phận của mình. Thân phận của người phụ nữ xưa và Kiều cũng vậy. Nàng đã mất đi sự trong trắng, cuộc đời bị đẩy dạt không thương tiếc khiến Kiều tự hỏi “biết về đâu”. Hình ảnh con thuyền và cánh hoa đối lập với không gian mênh mông của trời đất càng làm nổi bật sự nhỏ bé và đơn độc của Thúy Kiều.
Cặp câu thứ ba càng làm rõ nỗi buồn của Kiều. Cảnh vật xung quanh lầu Ngưng Bích không thể chứa hết nỗi lòng của nàng. Với ánh mắt u sầu, thiên nhiên trở nên buồn bã. Màu xanh trên chân mây và mặt đất không phải là màu xanh tươi sáng mà là xanh u ám. Từ láy “rầu rầu” thể hiện rõ tâm trạng của Kiều. Đặc biệt, cặp câu cuối cùng gợi hình ảnh Kiều ngồi giữa biển cả mênh mông, xung quanh là tiếng sóng “ầm ầm” đầy đáng sợ. Những dự cảm xấu về tương lai vây quanh Kiều, không có cách nào để thoát ra. Cảm giác đó càng làm tăng nỗi đau và xót xa của nàng.
Đoạn thơ khéo léo sử dụng thủ pháp tả cảnh để thể hiện tình cảm, qua việc miêu tả thiên nhiên mà khắc họa nỗi lòng của Kiều một cách chân thực.
9. Tài liệu tham khảo số 1
“Truyện Kiều” được ca ngợi là “khúc nam âm tuyệt diệu”, là đỉnh cao sáng tạo của nhà thơ vĩ đại Nguyễn Du. Tác phẩm không chỉ thu hút bởi nội dung phong phú mà còn bởi nghệ thuật kể chuyện tinh tế và phong phú trong việc xây dựng nhân vật. Nguyễn Du đã khẳng định tài năng của mình qua nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đặc sắc, với đoạn thơ nổi bật là tám câu cuối trong phần “Kiều ở lầu Ngưng Bích”. Đoạn thơ này thể hiện:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Tả cảnh ngụ tình là một kỹ thuật quen thuộc trong văn học cổ điển, nơi nghệ sĩ dùng cảnh vật thiên nhiên để bày tỏ tâm tư, tình cảm của nhân vật hoặc chính bản thân họ. Trong “Truyện Kiều”, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp này một cách tài tình, hòa quyện cảnh và tình đến mức khó phân tách. Những tác phẩm như thơ xuân của Nguyễn Trãi, “Qua Đèo Ngang” của Bà huyện Thanh Quan, hay thơ thu của Nguyễn Khuyến cũng đã thể hiện thành công điều này.
Nguyễn Du khéo léo sử dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình trong “Truyện Kiều”, khiến thiên nhiên trở thành hình ảnh phản ánh tâm trạng nhân vật. Mỗi cảnh vật trong tác phẩm đều mang một linh hồn, cảm xúc riêng, hòa quyện với tâm trạng của Nguyễn Du, tạo nên một khối tình cảm thống nhất.
Nguyễn Du trong “Truyện Kiều” đã chỉ ra mối liên hệ chặt chẽ giữa cảnh và tình:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
Những hình ảnh trong đoạn thơ như cảnh xuân khi Thúy Kiều trở về, mùa thu khi chia tay Thúc Sinh, hay thiên nhiên trước lầu Ngưng Bích đều là “tình trong cảnh, cảnh trong tình”. Tám câu thơ trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” diễn tả khi Thúy Kiều đối diện với chính mình, từ nỗi thương người chuyển thành nỗi thương mình. Đây là những câu thơ tả cảnh ngụ tình nổi bật nhất, phản ánh cả cảnh thực lẫn tâm cảnh của Kiều. Mỗi hình ảnh khơi gợi nỗi buồn khác nhau, làm tăng thêm sự u sầu của cảnh vật và cảm xúc của Kiều, như sóng dâng cao mãi.
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Mở đầu đoạn thơ là không gian cửa bể và thời gian chiều hôm – một hình ảnh quen thuộc trong văn thơ cổ, với “chiều hôm” mang lại cảm giác buồn bã, được đặt trong không gian rộng lớn cửa bể càng làm tăng sự hiu quạnh. Trong khung cảnh ấy, hình ảnh cánh buồm thấp thoáng gợi lên hành trình mờ mịt, nỗi cô đơn, lạc lõng. Cảnh tha hương khiến Kiều nhớ quê và mong mỏi về cuộc đoàn viên.
Trước không gian nơi lầu Ngưng Bích, Kiều cảm thấy nỗi buồn sâu sắc và nhìn ra cảnh vật. Từ hình ảnh tổng thể đến chi tiết cụ thể, nàng thấy ngọn nước và cánh hoa trôi nổi vô định:
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”
Nguyễn Du đã dùng hình ảnh ẩn dụ để thể hiện tâm trạng của Kiều. “Dòng nước mới sa” tượng trưng cho dòng đời vô định, còn “hoa trôi man mác” biểu thị thân phận Kiều đang bị vùi dập, trôi nổi không biết tương lai ra sao. Câu hỏi “biết là về đâu?” diễn tả sự lo lắng, hoang mang của Kiều về số phận của mình.
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” và màu xanh nhạt trải dài từ mặt đất đến chân mây thể hiện sự tàn phai, chán nản. Thiên nhiên héo úa gợi nỗi buồn, vô vọng, và cuộc sống tẻ nhạt của Kiều. Đó là “cỏ bên trời xanh một sắc Đạm Tiên” (Chế Lan Viên).
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Gió cuốn trên “mặt duềnh” làm tiếng sóng “ầm ầm” như bao quanh ghế Kiều ngồi, báo hiệu những sóng gió cuộc đời hay phản ánh nỗi đau của Kiều. Tiếng sóng gợi lên sự lo sợ, bất an của Kiều, như đứng trước bão táp của cuộc đời và những tai ương rình rập.
Thiên nhiên trong đoạn thơ vừa chân thực, sinh động, vừa ảo mộng, phản ánh tâm trạng của Kiều qua từng sắc thái buồn, từ man mác đến lo âu, như sóng dâng cao trong lòng nàng. Những hình ảnh về sự vô định, mong manh, chao đảo tạo nên âm hưởng trầm buồn, kết hợp với điệp ngữ “buồn trông” đã diễn tả nỗi buồn sâu sắc và đa dạng của Kiều, tạo nên điệp khúc tâm trạng đầy xúc cảm.
Tám câu thơ cuối trong đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích” tạo thành bức tranh tâm trạng cân đối, nâng tầm bút pháp tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du lên một mẫu mực cổ điển, đồng thời thể hiện trái tim nhân ái và sự tố cáo xã hội bất công đối với con người.
Tài liệu tham khảo số 2
Nguyễn Du không chỉ tinh thông trong việc miêu tả chân dung nhân vật mà còn thể hiện xuất sắc thiên nhiên và tâm tư của con người. Mỗi bức tranh do Nguyễn Du tạo ra đều đạt hai mục đích chính: phản ánh hiện thực và biểu lộ cảm xúc. Tám câu thơ cuối trong bài “Kiều ở lầu Ngưng Bích” minh chứng cho tài năng này của ông.
Sau khi bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều sống trong khổ đau và nhục nhã. Dù bản tính Kiều trọng phẩm giá, nàng đã tìm cách tự vẫn nhưng không thành. Thúy Kiều bị Tú Bà giam giữ tại lầu Ngưng Bích, chờ đợi ngày thực hiện âm mưu mới. Những ngày ở lầu Ngưng Bích, Kiều sống trong đau đớn, tủi nhục và cô đơn tột cùng.
Trong nỗi cô đơn, mỗi người đều nghĩ về gia đình. Cô gái trong ca dao dù đã có chồng, nhưng vẫn nhớ quê mẹ trong những lúc chiều tàn:
Chiều về đứng ở ngõ sau
Nhìn về quê mẹ, lòng đau xót
Huống chi nàng Kiều, người bán mình cứu gia đình, thì nỗi nhớ quê hương càng thêm da diết:
Buồn nhìn cửa bể chiều hôm
Thuyền nào thấp thoáng cánh buồm xa
Không gian rộng lớn của cửa bể kết hợp với hình ảnh thuyền xa tạo nên cảm giác trống vắng, hoang vu. Cánh buồm dường như nhỏ bé giữa không gian rộng lớn ấy. Thân phận nàng cũng như cánh buồm, lênh đênh trong cuộc đời bất định. Nguyễn Du khéo léo chọn thời điểm “chiều hôm” để tăng thêm nỗi buồn, gợi sự khao khát sum họp, trở về bên quê hương, gia đình.
Sau nỗi buồn khi xa quê, nàng càng đau lòng hơn khi nghĩ về thân phận mình: “Buồn nhìn ngọn nước mới rơi/ Hoa trôi lạc lõng, không biết về đâu?”. Hình ảnh “hoa trôi” biểu thị thân phận của Kiều, ngọn nước mới rơi là những bão tố trong cuộc đời nàng. Cánh hoa trôi lạc lõng như thân phận bé nhỏ, mong manh của nàng. Cuộc đời nàng như dòng nước, không biết sẽ đi về đâu. Câu hỏi tu từ “biết là về đâu” như một tiếng thở dài, thể hiện nỗi đau bất hạnh và thân phận chìm nổi của nàng.
Trong tác phẩm của Nguyễn Du, sắc xanh xuất hiện nhiều lần với ý nghĩa khác nhau. Nếu trong đoạn “Cảnh ngày xuân”, sắc xanh tượng trưng cho sự sống tươi mới, thì trong đoạn này, màu xanh lại thể hiện sự tàn úa: “Buồn nhìn nội cỏ rầu rĩ/ Chân mây mặt đất một màu xanh xám”. Nội cỏ mang màu tàn lụi. Sắc xanh nối chân trời với mặt đất nhưng lại nhạt nhòa, đơn sắc. Tất cả những màu sắc này làm nổi bật tâm trạng u sầu, chán nản của Kiều. Khung cảnh xung quanh chỉ làm nàng thêm đau khổ và thất vọng. Quả thực “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Dưới con mắt tuyệt vọng của nàng, mọi cảnh vật đều tràn đầy nỗi buồn, bế tắc và vô vọng, càng làm Kiều thêm sâu đậm trong sự sầu muộn.
Hai câu thơ cuối cùng có thể coi là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, thể hiện sự hoang mang, rợn ngợp của Kiều trong hai câu thơ này:
Buồn nhìn gió cuốn mặt biển
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi
Cảnh thiên nhiên cuối cùng hiện ra dữ dội, không chỉ phản ánh ngoại cảnh mà còn thể hiện tâm cảnh. Kiều tưởng mình không còn ngồi ở lầu Ngưng Bích mà đang ở giữa biển khơi, xung quanh là sóng biển gào thét, như muốn nhấn chìm nàng. Đặc biệt từ láy “ầm ầm” vừa mô tả cảnh khủng khiếp vừa thể hiện tâm trạng lo lắng, hoảng loạn của Thúy Kiều. Nàng cảm nhận được những bão tố sắp tới sẽ làm cuộc đời mình bị nhấn chìm.
Đoạn thơ sử dụng tài tình nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mỗi cảnh là một tâm trạng và nỗi đau của Kiều. Nguyễn Du miêu tả theo trình tự hợp lý: từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt nhòa đến đậm nét, khắc họa nỗi buồn sâu sắc của Kiều. Sử dụng hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, từ láy tạo hình và biểu cảm. Tất cả những yếu tố này góp phần tạo nên thành công cho đoạn trích.
Tám câu thơ cuối là tuyệt phẩm của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Bằng những bức tranh đặc sắc, Nguyễn Du khắc họa trạng thái xúc cảm, nỗi cô đơn, lo âu, sợ hãi về tương lai đầy sóng gió của nàng Kiều. Đồng thời, qua bức tranh ấy, Nguyễn Du thể hiện niềm cảm thương sâu sắc cho số phận của nàng và của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.
10. Tài liệu tham khảo số 3
Nguyễn Du đã từng nói:
Trăm năm trong cõi nhân gian
Chữ tài chữ mệnh thường hay xung khắc
Quả đúng như vậy trong cuộc đời của nàng Kiều, tài năng và số phận cứ mâu thuẫn nhau, nàng vừa xinh đẹp, tài giỏi, nhưng lại gặp phải nhiều đau khổ và bất hạnh. Đau đớn nhất có lẽ là những lúc nàng phải đơn độc ở lầu Ngưng Bích, bị giam cầm và tưởng tượng về những khó khăn trong tương lai. Tám câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” chính là sự phản ánh rõ nét nhất về điều này.
Tám câu thơ cuối cùng cho thấy sự tài tình trong việc phân tích và nghệ thuật miêu tả cảnh ngụ tình của Nguyễn Du. Ông đã biến cảnh vật thiên nhiên không chỉ là phong cảnh đơn thuần mà còn là hình ảnh tâm trạng của con người. Những câu thơ này đã đạt đến đỉnh cao của bút pháp tả cảnh ngụ tình. Nguyễn Du đã diễn tả bi kịch nội tâm của Kiều qua bức tranh thiên nhiên phong phú khi nàng ở lầu Ngưng Bích.
Đoạn thơ chia thành bốn cặp lục bát, mỗi cặp mở đầu với từ “buồn trông” tạo âm hưởng u buồn, báo hiệu nhiều sóng gió, khó khăn phía trước. Đồng thời, mỗi cặp lục bát cũng tương ứng với một cung bậc tâm trạng của Thúy Kiều. Mở đầu là cảnh biển rộng lớn:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng từ láy “thấp thoáng”, “xa xa” và đại từ “ai” để thể hiện nỗi chờ đợi mòn mỏi của nàng. Thời điểm buổi chiều cũng góp phần gợi nhớ về sự ấm áp của gia đình. Cánh buồm nhỏ bé trước cảnh biển mênh mông làm nổi bật thêm nỗi cô đơn của nàng. Cánh buồm ấy cũng là ẩn dụ cho số phận đơn độc của nàng.
Giảm bớt không gian để tìm sự đồng điệu, nàng lại thấy cảnh tan tác, chia lìa:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Nàng Kiều so sánh bản thân với những cánh hoa yếu đuối, trôi dạt không biết đi đâu. Câu hỏi tu từ “biết là về đâu?” càng làm rõ thêm sự bấp bênh, vô định của nàng. Nàng trôi nổi giữa cuộc đời, không biết bến bờ nào là điểm dừng chân. Hình ảnh cỏ xanh thường thấy trong thơ Nguyễn Du giờ đây trở nên tàn tạ: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”. Cỏ trong mắt nàng giờ đây héo úa, màu xanh nhạt nhòa, hòa lẫn vào nhau, thể hiện tâm trạng u sầu của nàng.
Nàng Kiều lại lắng nghe những âm thanh cuộc sống, nhưng chỉ nghe thấy những âm thanh khủng khiếp:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Mặt biển sóng gió dữ dội vây quanh nàng Kiều, phản ánh số phận bất hạnh và những thử thách sắp tới. Nàng rơi vào trạng thái sợ hãi và âu lo tột cùng.
Khung cảnh được miêu tả qua mắt Kiều đẫm sắc thái tâm trạng. Cảnh vật được diễn tả từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt đến đậm, nỗi buồn từ man mác đến âu lo. Lúc này, Kiều cảm thấy tuyệt vọng và yếu đuối, dễ bị lừa dối trước những lời ngon ngọt của Sở Khanh, dẫn đến sự sa ngã trong cuộc đời: “Thanh y hai lượt thanh lâu hai lần”.
Nguyễn Du đã thể hiện xuất sắc tâm trạng cô đơn và đau khổ của Kiều qua ngòi bút tả cảnh ngụ tình, đồng thời cũng thể hiện lòng nhân ái và sự cảm thương sâu sắc dành cho nàng Kiều.