2. Bài tham khảo số 4
Có những câu ca, bài thơ nhẹ nhàng chạm vào trái tim nhưng khiến người đọc nhớ mãi. Đọc thơ Bằng Việt, ta nhận thấy sự lan tỏa kỳ diệu của ngôn từ. Bài thơ “Bếp lửa” được sáng tác trong thời kháng chiến, chứa đựng tình cảm bà cháu ấm áp giữa những khó khăn tuổi thơ. Bằng Việt đã thổi hồn vào “bếp lửa”, vào ký ức đẹp đẽ nhất.
Bài thơ “Bếp lửa” như tiếng lòng của cháu dành cho bà qua những năm tháng tuổi thơ gian khổ. Hình ảnh “bếp lửa” giản dị mà gần gũi trong mỗi gia đình Việt Nam xưa, gợi lên nỗi nhớ và xúc động sâu sắc. Vì bếp lửa gắn liền với bà, với ký ức tuổi thơ không phai mờ.
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Điệp từ “một bếp lửa” chứa đựng cảm xúc chân thành, làm nảy sinh nỗi nhớ không nguôi. Hình ảnh bếp lửa “chờn vờn” và “ấp iu” diễn tả sự gắn bó không thể tách rời. Ký ức về bà và tuổi thơ cứ thế tràn về, hẳn là Bằng Việt đã có những năm tháng đáng nhớ bên bà. Ký ức ùa về mãnh liệt:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại bây giờ sống mũi còn cay
Tuổi thơ nhọc nhằn, gian khó bên bà. Một cậu bé bốn tuổi đã quen thuộc với mùi khói bếp. Đất nước trong ách thống trị, nạn đói là điều không tránh khỏi. Khói bếp tuổi thơ đã “hun” trong mắt, hun cả một vùng trời tuổi thơ gian khó. Từ “cay” cuối câu thơ như lắng đọng, gieo vào lòng người nỗi buồn man mác. Là sống mũi “cay” hay tuổi thơ cay cực, là thương bà, thương bố mẹ hay thương bếp lửa tảo tần.
Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế
“Tám năm ròng” là khoảng thời gian dài đằng đẵng, thời gian tuổi thơ của cháu bên bà. Bà và cháu cùng nhóm lửa, nhóm lên sự sống và tình yêu thương vô bờ. Tiếng “tu hú” lặp đi lặp lại trong thơ làm nhịp thơ thêm da diết. Tu hú gọi hè, gọi lúa chín, gọi cả những giấc mơ về tương lai hòa bình.
Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Một khổ thơ cảm động. Một khổ thơ cảm xúc bùng lên sau bao năm kìm nén. Năm tháng sống bên bà tuy khó nhọc nhưng tràn đầy tình cảm. Cậu bé thương bà bên bếp lửa, thương bà nuôi cháu một mình. Tiếng tu hú làm tâm sự của cháu thêm nặng nề.
Tình bà cháu trong đoạn thơ này khiến người đọc chùng lòng, rưng rưng nước mắt. Đất nước chìm trong bom đạn nhưng bà vẫn che chở, chăm lo cho cháu từng bữa ăn, giấc ngủ. Tình cảm nào thiêng liêng hơn thế.
Nhưng chiến tranh cướp đi bao điều, cả máu, nước mắt và tình yêu:
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh
Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên
Đức hi sinh của người mẹ cho con, của người bà cho cháu. Dù gian khổ, mất mát nhưng hậu phương luôn là chỗ dựa vững chắc cho tiền tuyến. Hình ảnh bà trong đoạn thơ này đầy đức hi sinh cho gia đình, tổ quốc. Lời dặn của bà với cháu nặng tựa nghìn non, chất chứa tình nghĩa sâu nặng. Bà yêu thương cháu, thương con, thương đất nước.
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng
Nhóm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo sẻ chung đôi
Từ “bếp lửa” tác giả đã chuyển thành “ngọn lửa” như nâng tầm cao hơn tình yêu và sự hi sinh của bà. Bà luôn nhen nhóm yêu thương, một tình yêu bao la, bất diệt.
Khổ thơ cuối là lúc tác giả trở về hiện tại, giống như chuyến đi về tuổi thơ. Giọng thơ chùng xuống, cảm xúc nghẹn ngào:
Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa
Đứa cháu nhỏ của bà giờ đã trưởng thành, đến một đất nước xa xôi nhưng ký ức tuổi thơ luôn là điều thiêng liêng mà cháu trân quý. Nhắc nhở bản thân không được quên. Nhắc nhở ký ức sống mãi.
Bài thơ “Bếp lửa” với câu từ giản dị, cách viết nhẹ nhàng nhưng khiến người đọc cảm thấy cay cay ở khóe mắt. Một bài thơ tràn đầy tình yêu, hạnh phúc giữa đắng cay cuộc đời.
Bài tham khảo thứ 5
Tuổi thơ là những kỉ niệm không thể quên, từ hình ảnh người mẹ thân yêu, người cha kính trọng, đến hình ảnh bà nội đáng quý. Với Bằng Việt, ký ức tuổi thơ đáng nhớ nhất là hình ảnh bà nội chăm sóc ngày đêm, gắn liền với bếp lửa ấm cúng. Chính hình ảnh này đã truyền cảm hứng cho tác giả viết nên bài thơ đậm chất trữ tình: Bếp lửa.
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh bếp lửa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm.
Ba từ “một bếp lửa” trở thành điệp khúc, gợi lại hình ảnh quen thuộc trong mỗi gia đình nông thôn Việt Nam. Hình ảnh bếp lửa ấm áp giữa sương sớm không chỉ là ngọn lửa mới nhóm lên mà còn là sự ấm áp trong tâm hồn người xa quê. Hình ảnh bếp lửa thể hiện tình cảm yêu thương, sự chăm sóc và bảo bọc của bà đối với đứa cháu nhỏ. Đó là lý do cháu nhớ bà với lòng yêu thương:
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.
Câu thơ chứa đựng chữ “thương” thể hiện tình cảm sâu nặng của đứa cháu đối với bà. Bà đã trải qua bao vất vả trong cảnh nắng mưa, làm sao tính hết được những khó khăn mà bà đã chịu đựng. Cháu thương bà vất vả, làm việc cực nhọc để những ký ức tuổi thơ luôn gắn bó với bà.
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy.
Nạn đói năm 1945 đã khiến nhiều người phải sống trong cảnh nghèo đói. Khi đó, Bằng Việt mới bốn tuổi, và gia đình phải chịu đựng nhiều cơ cực. Từ “mòn mỏi” cùng với từ đói gợi ra cảm giác nạn đói kéo dài và làm kiệt quệ cả con người lẫn gia súc. Ký ức đáng nhớ nhất của đứa cháu là khói bếp từ bếp lửa quen thuộc:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói...
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.
Giờ đây, khi nghĩ lại, cháu như sống lại những năm tháng khó khăn. Câu thơ tạo cảm giác cay cay nơi sống mũi, gợi nhớ về một thời kỳ đầy khó khăn của chiến tranh. Dù cuộc sống khổ cực, nhưng hai bà cháu được an ủi bởi tình cảm của bà con xóm làng. Trong hoàn cảnh đó, những người lớn tham gia kháng chiến, chỉ còn cụ già và cháu nhỏ ở nhà:
Mẹ cùng cha công tác bận không về.
Vì vậy, chỉ có hai bà cháu bên nhau. Bà kể chuyện, dạy học và chăm sóc cháu, trong khi bố mẹ bận công tác. Bà là nguồn an ủi cho cháu, và cháu là niềm vui của bà. Những ký ức tuổi thơ đều gắn liền với hình ảnh “bếp lửa”, vì “lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói”, đã sớm phải lo toan. “Cháu cùng bà nhóm lửa” trong tám năm dài, mặc dù không quá dài nhưng vẫn kéo dài trong lòng cháu. Vì vậy, nhớ về tuổi thơ, cháu chỉ nhớ khói hun nhèm mắt. Cảm giác đó chân thật và xúc động, khiến sống mũi cay cay vì nhớ bà.
Cháu nghĩ đến bà và quê hương, đến loài chim tu hú. “Tu hú” được nhắc lại bốn lần, tiếng kêu của nó như sự cảm thông với cuộc sống nghèo khó của hai bà cháu. Trong lời bà, có cả “tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”. Tâm hồn trẻ thơ của cháu chợt dậy lên một mong mỏi:
Tù hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa
Ký ức tuổi thơ được đánh thức, với hình ảnh bà tần tảo và quê hương.
Từ những hồi tưởng về tuổi thơ, cháu đã suy ngẫm về cuộc đời bà. Bà đã hy sinh cả đời mình để giữ cho ngọn lửa trong gia đình luôn ấm áp:
Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm.
Bà là người phụ nữ tần tảo, giàu đức hy sinh. Bếp lửa mỗi sáng không chỉ được nhóm lên bằng rơm rạ mà còn bằng chính ngọn lửa từ trái tim bà, ngọn lửa của sự sống, tình yêu và niềm tin. Từ bếp lửa bình dị, cháu nhận ra bao điều “kì diệu” và “thiêng liêng”. Ngọn lửa từ bàn tay bà đã nuôi lớn tuổi thơ cháu: “Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi thơ”. Bà lặng lẽ chịu đựng, hy sinh để: “Bố ở chiến khu, bố còn việc bố”. Vì vậy, đứa cháu cảm nhận được sự vất vả và gian lao của bà qua bếp lửa thân thuộc.
Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi
Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui.
Bài thơ có mười lần hình ảnh bà gắn liền với bếp lửa, thể hiện vẻ đẹp tần tảo, hy sinh và yêu thương. Từ “bếp lửa”, tác giả đã đến với hình ảnh “ngọn lửa”:
Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng...
Giờ đây, đứa cháu trưởng thành, đi xa. Trước mắt là những “niềm vui trăm ngả”, “có khói trăm tàu”, “có lửa trăm nhà”, một thế giới rộng lớn với bao điều mới mẻ. Nhưng cháu vẫn hỏi: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Mỗi ngày cháu tự hỏi là mỗi ngày nhớ về bà. Hình ảnh bà luôn ấm lòng và nâng đỡ cháu trên bước đường đi tới.
Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng “bếp lửa” với ý nghĩa thực và tượng trưng. Giọng điệu tâm tình, suy tư của bài thơ làm say lòng người đọc. Bài thơ Bếp lửa của Bằng Việt như một triết lý thầm kín, trân trọng những gì đẹp đẽ của tuổi thơ, giúp con người vững bước trên hành trình cuộc đời. Bằng Việt thể hiện lòng yêu thương và biết ơn sâu sắc đối với bà, một biểu hiện cụ thể của tình yêu quê hương, đất nước khi đã đi xa.
3. Tài liệu tham khảo số 6
Bằng Việt, một trong những nhà thơ nổi bật trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả với giọng văn tự sự, trữ tình đặc trưng. Các tập thơ của ông như Hương cây – Bếp lửa, Những gương mặt những khoảng trời, Đất sau mưa… đã ghi dấu ấn mạnh mẽ. Trong đó, bài thơ “Bếp lửa” từ tập Hương cây – Bếp lửa nổi bật như một tác phẩm xuất sắc, khắc họa sâu sắc ký ức về bà trong những năm tháng tác giả xa quê.
Bếp lửa hiện lên như một ký ức khó phai về bà trong trí nhớ của nhà thơ. Mỗi lần nghĩ về bếp lửa, hình ảnh bà vất vả lại hiện về:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấm áp nồng nàn
Cháu yêu bà biết bao nắng mưa”
Hình ảnh “bếp lửa” được nhắc lại hai lần ở phần mở đầu, nhấn mạnh hình tượng trung tâm của bài thơ và gợi cảm xúc cho cháu. Từ “chờn vờn” tạo hình ảnh ngọn lửa, như ký ức ấm áp thúc đẩy tâm trạng người cháu. Nhớ về bếp lửa là nhớ bàn tay chăm sóc của bà, sự tần tảo và tình yêu thương bà dành cho cháu, tạo nên một tình cảm thiêng liêng:
“Cháu yêu bà biết bao nắng mưa”
Cụm từ “biết bao nắng mưa” gợi ý về thành ngữ “mưa nắng dãi dầu”, thể hiện sự hy sinh của bà để chăm sóc gia đình. Bài thơ gợi lại những năm tháng khó khăn của cháu bên bà, trong đó có cả nạn đói khủng khiếp năm 1945:
“Năm đó là năm đói kém
Bố đi làm, ngựa cũng gầy rạc”
Thời thơ ấu của cháu gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ. Có những lúc “giặc đốt làng cháy tàn” trong khi cha mẹ bận công tác xa, cháu chỉ biết sống nhờ sự chăm sóc của bà. “Bà kể cháu nghe” về quê hương, “bà dạy cháu làm” việc nhà, “bà giúp cháu học” trong đêm làng vắng. Mọi việc nhỏ nhặt đều do bà gánh vác, khiến bà trở nên kiên cường:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc riêng
Mày có viết thư không kể lể
Chỉ bảo nhà vẫn yên bình”
Câu nói của bà luôn theo tác giả suốt những năm tháng, thể hiện sự hy sinh to lớn của bà mẹ. Hình ảnh bà luôn ấm áp và tình cảm giữa bà và cháu là điều không thể quên:
“Sớm chiều bà lại nhóm bếp lửa
Một ngọn lửa, lòng bà luôn ấm áp
Một ngọn lửa chứa đựng niềm tin”
Nhà thơ đã sử dụng “ngọn lửa” thay vì “bếp lửa” ở phần sau, mang ý nghĩa rộng lớn hơn: ngọn lửa của niềm hy vọng và tình bà cháu bền bỉ. Bếp lửa làm ấm câu thơ, còn “ngọn lửa” sáng lên từng dòng thơ, tỏa sáng hình ảnh bà, là người giữ và truyền lửa sống cho các thế hệ sau. Tác giả thể hiện sự quý trọng và lòng biết ơn đối với bà. Bởi nói đến bà là nói đến những khó khăn và sự hy sinh:
“Lận đận đời bà biết bao nắng mưa
…
Nhóm bếp lửa ấm áp và ngọt ngào”
Cụm từ “ấm áp và ngọt ngào” được lặp lại hai lần, chuyển từ hình ảnh “bếp lửa” thành “nhóm bếp lửa”. Dưới “biết bao nắng mưa”, bà vẫn duy trì ngọn lửa không chỉ của hiện tại mà còn của tình yêu thương, sự ngọt ngào gia đình.
Nhà thơ nhắc đến hình ảnh bếp lửa và bà nhiều lần, cho thấy sự kết nối giữa chúng. Bếp lửa gắn liền với cuộc đời bà, biểu hiện của vẻ đẹp tảo tần và hy sinh. Bếp lửa thắp sáng niềm hy vọng, sức sống bền bỉ và tình cảm bà cháu, tình quê hương. Hình ảnh bếp lửa vừa thực tế vừa tượng trưng, gần gũi và tự hào:
“Ôi kỳ diệu và thiêng liêng – bếp lửa”
Nhà thơ hiện đang ở nơi “đất khách” trên con đường phát triển quê hương, không còn đối mặt với “những năm đói kém”, nhưng hình ảnh bà và bếp lửa vẫn luôn hiện hữu, là quá khứ, tuổi thơ, ký ức khó quên. Câu hỏi tu từ ở cuối bài mở ra cảm xúc về tình bà cháu, sự kết hợp giữa biểu cảm và miêu tả, tự sự và bình luận, làm nổi bật kỷ niệm và tình cảm bà cháu:
Qua từng câu chữ, hình ảnh bà hiện lên đẹp đẽ và quý trọng, gắn với bếp lửa trong đời sống thường nhật. Bếp lửa gợi những kỷ niệm ấm áp và thiêng liêng, nâng đỡ tâm hồn suốt đời.
4. Tài liệu tham khảo số 7
Trong thời kỳ chiến tranh, ngoài những tác phẩm văn thơ cổ vũ tinh thần chiến đấu, còn có những bài thơ viết về tình cảm gia đình, quê hương. Một ví dụ tiêu biểu là bài thơ 'Bếp lửa' của Bằng Việt, tác phẩm gợi nhớ những cảm xúc dạt dào về gia đình và ký ức yêu thương bên bà.
'Một bếp lửa sáng ấm sương sớm
Một bếp lửa ấm áp, tỏa nhiệt'
Cháu yêu bà biết bao, mưa nắng'
Hình ảnh bếp lửa trong sương sớm mở đầu bài thơ như vừa mới đây, vừa là ký ức xa xôi. Bếp lửa được nhóm lên từ đôi tay gầy, khói bếp còn vương vấn trong ký ức cháu. Hình ảnh này gợi nhớ về bà, những năm tháng bà vất vả và hy sinh.
'Cháu yêu bà biết bao, mưa nắng'
Ký ức tuổi thơ sống lại trong lòng cháu, đầy nỗi nhớ.
'Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói khổ mệt nhọc
Bố đi làm xa, ngựa gầy, khô rạc
Chỉ nhớ khói làm cay mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi vẫn cay'
Những khó khăn của năm tháng đói kém hiện rõ qua hình ảnh 'ngựa gầy, khô rạc'. Mùi khói trở thành dấu ấn quen thuộc. Khói làm cay mắt và mũi, gợi nhớ những vất vả, đói khổ, khiến lòng cháu cảm thấy xót xa.
'Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tiếng tu hú trên cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà có nhớ không?
Bà kể chuyện ngày xưa ở Huế
Tiếng tu hú sao tha thiết đến vậy'
Những năm tháng cháu và bà cùng nhau sống, cùng chăm sóc bếp lửa thân thuộc. 'Tám năm' là khoảng thời gian đủ để cháu ghi nhớ lời bà, những câu chuyện về Huế. Tiếng tu hú vang vọng như gọi lại ký ức, chứa đựng yêu thương và cảm xúc.
'Mẹ và cha bận công tác, không về
Cháu sống cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, chăm sóc việc học
Nhóm bếp lửa, cháu nghĩ về bà vất vả
Tu hú ơi, sao không về cùng bà
Kêu mãi trên cánh đồng xa xôi!'
Cháu sống bên bà từ nhỏ, trân trọng công dạy dỗ của bà, những ngày bà chăm sóc, dạy dỗ. Mặc dù có khó khăn, bà luôn vững lòng, không kêu ca. Tiếng tu hú vẫn kêu xa, như hình ảnh của cháu, nỗi nhớ bà không nguôi, chỉ có thể gửi gắm qua từng lời thơ.
'Năm giặc đốt làng, cháy rụi mọi thứ
Hàng xóm giúp đỡ dựng lại túp lều
Bà vẫn vững lòng, bảo cháu đừng lo
Bố ở chiến khu, còn bận việc riêng
Cháu viết thư không kể điều gì
Chỉ bảo nhà vẫn bình yên'
Chiến tranh không chỉ chia cắt gia đình mà còn tàn phá quê hương. Hai bà cháu được hàng xóm giúp dựng lại túp lều, bà vẫn vững lòng, không để cháu lo lắng.
'Sớm chiều lại bếp lửa bà nhóm lên
Ngọn lửa trong lòng bà luôn ấm áp
Ngọn lửa chứa đựng niềm tin bền bỉ...'
Bài thơ phản ánh sự kiên cường của bà, luôn tin tưởng vào ngày đoàn tụ và hòa bình của đất nước.
'Giờ cháu đã xa nơi này.
Có khói bếp trăm tàu
Có lửa trăm nhà, vui vẻ trăm ngả
Nhưng cháu vẫn không quên hỏi
Sớm mai bà đã nhóm bếp chưa?'
Những câu thơ cuối thể hiện sự xúc động khi cháu phải xa bà và quê hương. Dù ở nơi mới có tiện nghi và vui vẻ, cháu vẫn luôn nhớ về bà và quê hương, nơi đã nuôi dưỡng tâm hồn cháu.
Bằng sự tinh tế và cảm xúc, tác giả đã tạo nên một bài thơ đầy sâu lắng, giúp người đọc cảm nhận được tình yêu quê hương và gia đình.
5. Tài liệu tham khảo số 8
Mỗi người đều có một ký ức gắn bó với gia đình và người thân. Trong thời kỳ kháng chiến, nhiều người đã rời bỏ gia đình để chiến đấu vì Tổ quốc. Nhà thơ Bằng Việt cũng có một tuổi thơ khi cha mẹ ông ra trận. Sống cùng bà, ông không cảm thấy đơn độc mà luôn tự hào và hạnh phúc khi ở bên bà. Ông đã viết bài thơ 'Bếp lửa” để thể hiện tình cảm sâu sắc với bà và khẳng định rằng bếp lửa không chỉ giữ ấm tình cảm bà cháu mà còn là ánh sáng sưởi ấm cả cuộc đời.
'Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Ba câu thơ đầu sử dụng điệp ngữ 'một bếp lửa” kết hợp với các từ láy như chờn vờn, ấp iu tạo cảm giác ấm áp và đầy tình cảm. Hình ảnh người bà hiện lên trong trái tim của đứa cháu với những ký ức đáng nhớ. Các hồi ức về bà hiện lên qua những dòng thơ của tác giả:
'Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
Trong cảnh đói khổ, gia đình tác giả cũng không ngoại lệ. Bố ông chỉ còn một con ngựa để kéo xe, nhưng bối cảnh nghèo khó bao trùm xã hội. Gần hai mươi năm sau, khói vẫn làm cay mắt tác giả, không phải từ củi mà từ ký ức đói khổ mà bà cháu phải chịu đựng.
'Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà còn nhớ không bà
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế”
Hình ảnh 'cháu cùng bà nhóm lửa” thể hiện sự gắn bó và tình yêu sâu đậm. Tiếng chim tu hú kêu trở thành một phần ký ức gắn liền với bà cháu, như một đồng hồ nhắc bà kể chuyện cho cháu. Điệp từ 'tu hú” ba lần làm tăng cảm xúc và khiến người đọc cảm nhận được tiếng chim từ xa vọng về.
Tiếng 'tu hú” lúc gần, lúc xa, làm dấy lên nỗi nhớ thương trong đứa cháu. Tiếng chim tu hú gợi nhớ không gian rộng lớn của nỗi nhớ quê hương.
'Mẹ cùng cha công tác bận không về
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc
Tu hú ơi, chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa!”
Hình ảnh căn nhà đơn sơ với bà cháu sống cùng nhau, bà phải lo lắng cho cháu và chính bà cũng phải lo lắng cho cả hai. Bếp lửa không còn gợi nhớ đau khổ mà là nơi ấm áp, nơi trú ẩn cho hai bà cháu.
Trong tám năm sống cùng bà, dù có chiến tranh và bố mẹ đi công tác, cháu cảm thấy hạnh phúc khi được ở bên bà, cùng bà nhóm bếp. Bà trở thành một phần quan trọng trong tuổi thơ của cháu, vừa là cha mẹ, vừa là cánh chim, cành hoa. Bà không chỉ lo cho cháu từng bữa ăn, giấc ngủ mà còn là người thầy đầu tiên, dạy cho cháu những bài học đầu đời. Tình cảm bà dành cho cháu là nguồn động viên vững chắc cả về vật chất lẫn tinh thần. Nhà thơ cảm thấy đau lòng khi nghĩ đến bà sống một mình. Lời hỏi của cháu về việc bà nhóm bếp lửa trở thành một biểu hiện của nỗi nhớ sâu sắc.
Chiến tranh đã gây đau khổ cho nhiều người và gia đình bà cháu cũng không tránh khỏi. Họ trở thành nạn nhân của chiến tranh với gia đình bị chia cắt và nhà cửa bị đốt cháy.
Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng bà dặn cháu đinh ninh:
'Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày viết thư chớ kể này kể nọ
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Trong hoàn cảnh khó khăn, bà vẫn giữ được nghị lực và tình thương lớn lao. Bà không cho cháu biết về khó khăn của mình để cháu yên tâm học hành. Bà là hình mẫu của người phụ nữ Việt Nam hiền hậu, giàu đức hi sinh. Bằng Việt đã nâng hình ảnh bếp lửa thành ngọn lửa:
'Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn,
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng.”
Ngọn lửa tượng trưng cho tình yêu và niềm tin, chiếu sáng con đường của đứa cháu. Bà luôn nhắc cháu rằng nơi nào có ngọn lửa, nơi đó có bà. Những dòng thơ cuối là suy ngẫm về bà và bếp lửa, khẳng định tình cảm sâu sắc của hai bà cháu. Bếp lửa không chỉ giữ ấm mà còn truyền cho cháu tình yêu thương và bài học về lòng nhân ái, gắn bó với mọi người. Bà không chỉ lo cho cháu vật chất mà còn tạo ra những ký ức đẹp và giáo dục cháu thành người. Người bà như một hình mẫu kỳ diệu từ trái tim, và hình ảnh của bà vẫn sống mãi trong lòng cháu dù ở xa. Tình cảm của hai bà cháu đã sưởi ấm tâm hồn tác giả trong mùa đông lạnh giá, làm cho ký ức về bếp lửa mãi mãi không phai.
Bài thơ 'Bếp lửa” sẽ mãi sống trong lòng bạn đọc với sức truyền cảm sâu sắc, khơi dậy tình cảm cao đẹp đối với gia đình và những người đã góp phần vào tuổi thơ của chúng ta.
6. Tài liệu tham khảo số 9
Bài thơ Bếp Lửa thuộc thể loại thơ tình cảm gia đình trong văn học Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Tác giả Bằng Việt đã gửi gắm tình cảm sâu nặng và nỗi nhớ nhung đối với người bà tảo tần, vất vả, đầy tình yêu thương. Bài thơ là một ca khúc về tình bà cháu ấm áp và xúc động. Mở đầu bài thơ là hình ảnh bếp lửa với những nỗi ám ảnh tan biến:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
…
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”
Ngọn lửa thứ nhất là ngọn lửa trong bếp, còn ngọn lửa thứ hai chính là tình yêu thương bà dành cho cháu. Bếp lửa gợi nhớ bao tình yêu thương và nỗi nhớ về bà. Cuộc đời bà “biết bao nắng mưa”, đầy vất vả, không chỉ nuôi con mà còn phải nuôi cháu:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
…
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”
Đoạn thơ phản ánh thực trạng khủng khiếp của nạn đói năm 1945, khi đó người cha dù còn trẻ cũng “khô rạc ngựa gầy” vẫn không đủ ăn. Cuộc sống khó khăn khiến người cháu quen với sự khổ cực, “khói hun nhèm mắt cháu” và khi nhớ lại, người cháu cảm thấy “sống mũi còn cay”. Bếp lửa cùng âm thanh chim tu hú gắn bó với bà:
“Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
…
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa”
Những cảm nhận của em về tình cảm bà cháu trong bài thơ Bếp Lửa của Bằng Việt. Đó là kỷ niệm về người bà hiền lành, tảo tần đã nuôi dạy cháu trưởng thành. Trong tám năm bên bà, cháu được bà chăm sóc từng bữa ăn, giấc ngủ, bảo ban và dạy dỗ nên người. Tác giả ca ngợi công lao vĩ đại của bà qua những biện pháp liệt kê. Trong ký ức của cháu, bà là người giàu đức hi sinh, gánh vác mọi việc trong gia đình.
“Giặc đốt làng cháy tàn, cháy rụi
…
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên”
Dù phải một mình chống chọi với khó khăn, bà không một lời than vãn, vẫn vững lòng là chỗ dựa vững chắc cho các con yên tâm công tác chiến đấu. Câu thơ là tấm lòng yêu thương, kính trọng và biết ơn vô hạn của cháu đối với bà.
“Mấy chục năm rồi đến tận bây giờ
…
Ôi kì lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Những buổi sáng bà lại chăm sóc, truyền cho cháu tình yêu thương, san sẻ niềm vui và hạnh phúc với mọi người, bà là người vun đắp và khơi dậy những ước mơ tuổi thơ của cháu. Vì vậy dù đi xa, dù có lửa ở trăm nơi và niềm vui ở khắp mọi ngả, cháu vẫn luôn nhớ bà và bếp lửa:
“Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở
Sớm mai này bà nhóm lửa lên chưa”
Bài thơ Bếp Lửa với những hình ảnh chân thực và gần gũi, giàu giá trị biểu tượng đã thể hiện tình cảm bà cháu sâu sắc, nồng ấm, đồng thời nhắc nhở chúng ta sống bằng tình yêu thương, trân trọng các giá trị gia đình thiêng liêng, cao quý.
7. Tài liệu tham khảo số 10
Bằng Việt là một trong những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Thơ của ông nổi bật với sự trong sáng, mềm mại và đầy cảm xúc, thường khai thác những ký ức và mơ ước của thời thơ ấu. Bài thơ 'Bếp lửa' là một tác phẩm đặc trưng của phong cách thơ Bằng Việt, sử dụng hình ảnh bếp lửa để tái hiện kỷ niệm tuổi thơ và tình cảm ấm áp của bà, đồng thời thể hiện lòng yêu mến đối với bà và quê hương đất nước.
Bài thơ bắt đầu với hình ảnh bếp lửa ấm áp, gợi nhớ những kỷ niệm tuổi thơ bên bà:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa!”
Với việc khắc họa hình ảnh bếp lửa một cách sống động, đoạn thơ tạo ra một không gian hình ảnh mạnh mẽ. Bếp lửa 'chờn vờn' trong không gian buổi sớm của làng quê Bắc Bộ hiện lên như một đặc trưng không thể nhầm lẫn, vừa ấm áp vừa đậm tình người. Hình ảnh bếp lửa dù được nhìn từ xa vẫn toả sáng sự ấm áp.
Hình ảnh bàn tay dịu dàng và kiên nhẫn của người nhóm lửa được gợi lên trong câu thơ, phản ánh sự chăm sóc và vất vả của người bà. “Biết mấy” diễn tả một mức độ không thể đong đếm được, thể hiện tình yêu sâu sắc và sự trân trọng đối với bà, người đã âm thầm chăm sóc và chịu đựng gian khổ. Ba câu thơ đầu tiên mô tả cảm xúc và hồi tưởng của tác giả về bà và bếp lửa, phản ánh tình cảm chân thành của người cháu.
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi,
Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gầy,
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!”
Người cháu cùng bà đã trải qua những năm tháng khó khăn của đất nước. Năm bốn tuổi, người cháu chưa thể hiểu hết những đau khổ của cuộc đời, nhưng hình ảnh đói kém và ngựa gầy trong ký ức gợi lại nỗi ám ảnh về nạn đói năm 1945. Quá khứ hiện về với hình ảnh thảm cảnh đau thương của dân tộc.
Bằng Việt sử dụng hình ảnh tiêu biểu để gợi nhớ quá khứ đau thương của dân tộc và số phận những người dân mất nước. Những câu thơ không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn làm nổi bật cảm xúc đau thương và bất hạnh. Cảm giác trĩu nặng khiến người đọc cảm thấy xúc động và cảm thông sâu sắc.
Cái mùi khói bếp cay xè là dấu ấn đậm nét trong ký ức của người cháu, kết nối quá khứ và hiện tại. Bếp lửa của bà không chỉ là nguồn ấm áp mà còn là biểu tượng của tình cảm và sự hy sinh. Thời gian trôi đi, nhưng tình yêu và sự chăm sóc của bà vẫn vững bền, là chỗ dựa vững chắc cho người cháu.
“Tám năm ròng, cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa
Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà?
Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế.
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học,
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Trong tám năm sống cùng bà, bếp lửa luôn cháy và là nơi giữ ấm tình cảm. Tiếng tu hú kêu vào mùa hè là âm thanh quen thuộc, vừa tha thiết vừa buồn bã, nhắc nhở về niềm tin vào cuộc sống. Tiếng kêu của tu hú vang vọng trong ký ức, thể hiện sự gắn bó sâu sắc giữa người cháu và bà.
Bên cạnh bếp lửa và âm thanh của tu hú, tình cảm giữa hai bà cháu được gắn bó qua những năm tháng gian khó. Bà không chỉ dạy dỗ cháu mà còn là chỗ dựa tinh thần vững chắc. Những câu chuyện cổ tích và sự chăm sóc của bà đã mở ra một thế giới tốt đẹp hơn cho cháu.
Các từ ngữ như “bà bảo”, “bà dạy” và “bà chăm” thể hiện rõ lòng yêu thương và sự chăm sóc của bà đối với cháu. Bà hiện lên là người mẹ, người cha, và người bà, luôn là chỗ dựa vững chắc, giúp cháu phát triển và trưởng thành.
Những câu thơ như lời đối thoại, trò chuyện với bà và với tiếng tu hú trong tâm tưởng. Hình ảnh của bà, bếp lửa và tiếng tu hú tạo nên một không gian hoài niệm đẹp như cổ tích, thể hiện sự hy sinh và tình yêu vô bờ của bà. Tình cảm bà cháu hòa quyện với lòng yêu nước và sự hy sinh trong hoàn cảnh khắc nghiệt.
“Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi
Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố,
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Bà không chỉ là điểm tựa cho cháu mà còn là hậu phương vững chắc cho cả gia đình trong cuộc kháng chiến. Lời dặn của bà, ngay cả trong hoàn cảnh khó khăn, thể hiện lòng yêu nước và tinh thần trách nhiệm. Điều này tiếp thêm sức mạnh và niềm tin cho người cháu để vượt qua khó khăn.
Hình ảnh bà càng trở nên rõ nét với phẩm chất cao quý. Dù trong thời kỳ chiến tranh khắc nghiệt, bà vẫn vững lòng và là chỗ dựa tinh thần cho cháu. Lời dặn của bà về việc viết thư cho bố không chỉ giúp hình dung tình cảm của bà mà còn làm nổi bật phẩm chất của người mẹ Việt Nam.
Như vậy, mạch cảm xúc của bài thơ chuyển từ trữ tình sang tự sự, tạo nên một không gian hoài niệm sâu sắc về kỷ niệm tuổi thơ và tình bà. Bài thơ thành công trong việc kết hợp giữa biểu cảm, miêu tả và tự sự, thể hiện lòng kính trọng và biết ơn đối với bà và quê hương.
Tài liệu tham khảo số 1
Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 1960 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Thơ Bằng Việt, cảm xúc tinh tế, có giọng điệu tâm tĩnh trầm lắng, giàu suy tư, triết luận. Bài thơ “Bếp lửa” là bài thơ xuất sắc của ông, được sáng tác năm 1963, khi là sinh viên khoa pháp lí trường Đại học tổng hợp Ki-ép. Qua hồi tưởng, suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ “Bếp lửa” gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà và cũng là đối với gia đình, quê hương đất nước.
Có người nói người ta có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người. Thật vậy, dù đi đâu, ở đâu, ai cũng nhớ về quê hương, nhớ về những kỉ niệm đã từng làm ấm lòng người, là điểm tựa tinh thần để vươn lên nghịch cảnh. Hình ảnh bếp lửa đã khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng của người cháu về người bà và bếp lửa quê hương. Mạch cảm xúc của bài thơ rất tự nhiên, đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm: hình ảnh bếp lửa gợi về những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh bà với bao vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu; từ kỉ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quý của bà; cuối cùng, người cháu muốn gửi niềm nhớ mong về bà.
Khi nhớ về quê hương, người ta thường nhớ về những kỉ niệm gắn liền trong quá khứ như dòng sông, bến đò, cây đa… Đối với Bằng Việt, sự hồi tưởng được bắt đầu từ hình ảnh thân thương, ấm áp về bếp lửa:
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm”
Ba tiếng “một bếp lửa” trở thành điệp khúc mở đầu bài thơ với giọng điệu sâu lắng, hình ảnh quen thuộc trong mọi gia đình. Hình ảnh bếp lửa thật ấm áp giữa cái lạnh của “chờn vờn sương sớm”, thật thân thương với bao tình cảm “ấp iu nồng đượm”. Từ “ấp iu” vừa diễn tả công việc nhóm bếp, vừa gợi ra bàn tay kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng của người nhóm bếp. Các chữ “ấp iu”, “nồng đượm”, “chờn vờn” rất hình tượng, gợi tả; Ấp iu: là một sáng tạo từ mới mẻ. Đó là sự kết hợp và biến thế của hai từ “ấp ủ” và “nâng niu”. Bếp lửa ấm áp “nồng đượm” ấy còn mang tình thương chở che, ôm ấp, “ấp iu” của lòng bà.
Hình ảnh bếp lửa, rất tự nhiên đánh thức dòng cảm xúc hồi tưởng của cháu về bà, người nhóm lửa, người nhóm bếp mỗi sớm mai – một hình ảnh xuyên suốt bài thơ, lúc nào cũng chập chờn lay động:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
Bếp lửa của bà là bếp lửa của một cuộc đời đã trải qua “biết mấy nắng mưa”, nghèo khổ và vất vả. Nghĩ về bếp lửa, nhớ về bếp lửa mà trong lòng đứa cháu đi xa trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt. Chữ “thương” dùng thật đắt qua vần thơ cảm thán, làm cho cảm xúc lan toả, thấm sâu vào hồn người.
Kí ức đưa nhân vật trở về những năm “đói mòn đói mỏi” của nạn đói năm 1945: “cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ” (Chế Lan Viên). Thành ngữ “đói mòn đói mỏi” – cái đói kéo dài làm mỏi mệt, kiệt sức, con ngựa gầy rạc cùng với người bố đánh xe chắc cũng gầy khô… Giọng thơ trĩu xuống, nao nao lòng người đọc. Tuy nhiên cái đói chỉ là cái cớ để nhà thơ nhớ về một tuổi thơ cay cực, thiếu thốn trăm bề:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy”
Ấn tượng nhất là mùi khói bếp. Lên bốn tuổi, mùi khói trở thành mùi của cuộc sống cơ cực, mùi của quê hương đói nghèo. Mùi khói bếp làm hiện hình kí ức đau thương: “Khói hun nhèm mắt cháu. Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay”. Hai câu thơ có giá trị biểu cảm cao. Hinh ảnh tả thực: khói nhiều cay, khét vì củi ướt vì sương nhiều và lạnh và vừa là hình ảnh tượng trưng: sự xúc động- nghĩ mà thương tuổi thơ gian khó, nghĩ mà cồn cào một nỗi nhớ thương bà. Cảm xúc quá khứ hoà lẫn hiện tại và chắc hẳn cảm xúc quá khứ phải sâu sắc lắm mới có thể trỗi dậy mạnh mẽ thế. Cho dù năm tháng trôi qua nhưng kí ức ấy trở thành một vết thương lòng đâu dễ nguôi ngoai. Qua đó, nhà thơ khẳng định, tuổi thơ dẫu thiếu thốn vật chất nhưng không bao giờ thiếu thốn nghĩa tình.
Từ mùi khói bếp, nhân vật trữ tình lại nhớ về tiếng chim tu hú trong suốt tám năm ròng của tuổi thơ – những kỉ niệm đầy ắp âm thanh, ánh sáng và những tình cảm sâu sắc xung quanh cái bếp lửa quê hương được nhắc tới trong đoạn thơ thứ ba.
“Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa
Tu hú kêu trên những cánh đồng xa”
Tiếng chim tu hú là tiếng chim quen thuộc của đồng quê mỗi độ vào hè. Tiếng chim râm ran trong vườn lá, trên cánh đồng cứ khắc khoải kêu mãi, kêu hoài. Trong hiện thực đã tha thiết, tiếng chim trong nỗi nhớ như giục giã, khắc khoải một điều gì da diết lắm, khiến lòng người trỗi dậy những hoài niệm nhớ mong: “tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”. Nhà thơ đang kể chuyện về bà mà như tách hẳn ra để trò chuyện trực tiếp với bà: “bà còn nhớ không bà…?”
Âm điệu tha thiết của câu thơ còn gợi ra tình cảnh vắng vẻ, côi cút, vời vợi nhớ thương của hai bà cháu:
“Tu hú ơi chẳng đến ở cùng bà
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?”
Bà luôn bên cháu, dạy dỗ, chăm sóc cho cháu lớn lên, nuôi dưỡng cả tâm hồn lẫn thể chất cho cháu, vậy mà bây giờ cháu cũng đi xa, để bà một mình khó nhọc.Tiếng chim tu hú giờ đây trở thành một mảnh tâm hồn tuổi thơ để gợi nhớ gợi thương. Cháu thương bà vất vả, lo toan, biết ngỏ cùng ai, chỉ có thể tâm tình với chim tu hú mà thôi. Như vậy, bếp lửa đánh thức kỉ niệm tuổi thơ, ở đó lung linh hình ảnh người bà và có cả hình ảnh quê hương.
Đặc biệt, hình ảnh người bà bỗng nhiên trở nên cao lớn, vĩ đại khi Bằng Việt nhớ về những năm tháng đau thương, vất vả, giặc tàn phá xóm làng – hoàn cảnh chung của nhiều gia đình Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. “Mẹ và cha công tác bận không về”, cháu sống trong sự cưu mang, dạy dỗ của bà, sớm có ý thức tự lập, sớm phải lo toan. Bên bếp lửa: “bà hay kể chuyện những ngày ở Huế”, “bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học”, bà dặn cháu đinh ninh:
“Bố ở chiến khu bố còn việc bố
Mày có viết thư chớ kể này kể nọ,
Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”
Bà là hiện thân cụ thể nhất, sinh động nhất cho hậu phương lớn. Trong nhiều gia đình Việt Nam, do nhiều cảnh ngộ khác nhau, mà vai trò của người bà – bà nội, bà ngoại – đã thay thế vai trò của người mẹ hiền. Sống trong những năm dài chiến tranh, thế nhưng bà vẫn vững lòng trước mọi tai hoạ, thử thách. Các từ ngữ như “bà bảo”, “bà dạy”, “bà chăm” đã diễn tả một cách sâu sắc tấm lòng đôn hậu, tình thương bao la, sự chăm chút của bà đối với cháu nhỏ. Chữ”bà” và chữ “cháu” được điệp lại 4 lần gợi tả tình bà cháu quấn quýt yêu thương. Được sống trong tình thương là hạnh phúc.
Người cháu trong bài thơ “bếp lửa” tuy phải sống xa cha mẹ, tuy gặp nhiều thiếu thốn khó khăn, nhưng em thật hạnh phúc khi được sống trong vòng tay yêu thương của bà. Vì thế cháu mới cảm thấy một cách thiết tha nồng hậu: “nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”.
Tóm lại, làm nên thành công của đoạn thơ nhớ về bà, qua dòng chảy cảm xúc của nhân vật trữ tình chính là sự kết hợp, đan cài nhuần nhuyễn với nhau giữa các yếu tố biểu cảm, miêu tả và tự sự. Đây cũng là nét bút pháp quen thuộc của nhà thơ. Chính sự kết hợp nhuần nhị độc đáo đó khiến cho hình ảnh của bà thật gần gũi, những mảng kí ức tuổi thơ lại hiện về sống động và chân thành, giản dị.
Từ những kỉ niệm hồi tưởng về tuổi thơ và bà, người cháu trở về hiện tại để suy ngẫm về cuộc đời và lẽ sống của bà và cũng là để thương bà nhiều hơn, nhớ bà nhiều hơn. Hình ảnh bà luôn gắn liền với hình ảnh bếp lửa, ngọn lửa. Có thể nói bà là “người nhóm lửa”, lại cũng là người giữ cho ngọn lửa luôn ấm nóng và toả sáng trong mỗi gia đình.
Từ “bếp lửa”, đứa cháu nghĩ về “ngọn lửa”:
“Rồi sớm rồi chiều lại bếp lửa bà nhen.
Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn
Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng”
“Bếp lửa bà nhen sớm sớm chiều chiều” không phải chỉ bằng nhiên liệu bên ngoài mà đã sáng bừng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình yêu thương “luôn ủ sẵn” trong lòng bà, ngọn lửa của niềm tin vô cùng “dai dẳng”, bền bỉ và bất diệt. Ngọn lửa là những kỉ niệm lòng, niêm tìn thiêng liêng kì diệu nâng bước cháu trên suốt chặng đường dài. Ngọn lửa là sức sống, lòng yêu thương, niềm tin mà bà truyền cho cháu. Cùng với hình tượng “ngọn lửa”, các từ ngữ chỉ thời gian: “rồi sớm rồi chiều”, các động từ “nhen”, “ủ sẵn”, “chứa” đã khẳng định ý chí, bản lĩnh sống của bà, cũng là của người phụ nữ Việt Nam giữa thời chiến.
Điệp ngữ “một ngọn lửa” cùng kết cấu song hành đã làm cho giọng thơ vang lên mạnh mẽ, đầy xúc động tự hào. Tình thương, đức hi sinh, tính kiên trì nhẫn nại của bà là nguồn nhiên liệu vô tận làm bừng sáng lên ngọn lửa vĩnh cửu truyền cảm ấy. Như thế, hình ảnh bà không chỉ là người nhóm lửa, giữ lửa mà còn là người truyền lửa – ngọn lửa của sự sống, niềm tin cho các thế hệ nối tiếp.
Tám câu thơ tiếp theo là những suy nghĩ sâu sắc của nhà thơ, của đứa cháu về người bà kính yêu, về bếp lửa trong mỗi gia đình Việt Nam chúng ta. Cuộc đời của bà nhiều “lận đận”, trải qua nhiều “nắng mưa” vất vả. Bà cần mẫn lo toan, chịu thương chịu khó, thức khuya dậy sớm vì bát cơm, manh áo của con cháu trong gia đình. Cảnh nghèo nên bà suốt đời vất vả. Từ “lận đận” thể hiện tấm lòng đôn hậu và đức hi sinh của bà:
“Lận đận đời bà biết mấy nắng mưa
Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ
Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm
Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…”
Bà đã nhóm bếp lửa trong suốt cuộc đời bà, đã trải qua nắng mưa “mấy chục năm rồi”. Bà không chỉ nhóm bếp lửa bằng đôi bàn tay già nua, gầy guộc, mà là bằng tất cả tấm lòng đôn hậu “ấp iu nồng đượm” của bà đối với con cháu. Điệp từ “nhóm” được nhắc đi nhắc lại 4 lần trong 4 câu thơ đan kết với những chi tiết rất thực… có điểm chung là cùng gắn với hành động nhóm bếp, nhóm lửa của bà nhưng lại khác nhau ở những ý nghĩa cụ thể: khi thì nhóm bếp lửa ấp iu, nồng đượm để sưởi ấm cho bà cháu qua cái lạnh buốt của sương sớm; đến câu tiếp theo thì đã vừa nhóm bếp luộc khoai, luộc sắn cho cháu ăn đỡ đói lòng mà như còn đem đến cho đứa cháu nhỏ cái ngọt bùi của sắn khoai, của tình yêu thương vô hạn của bà.
Lòng bà còn mở rộng hơn cùng với nồi xôi gạo mới mùa gặt là tình cảm xóm làng đoàn kết, gắn bó, chia ngọt, sẻ bùi và đến câu thứ tư thì hoàn toàn mang nghĩa trừu tượng: nhóm dậy cả tâm tình tuổi nhỏ. Tình cảm của bà bao la giản dị như khoai sắn và cũng đậm đà như khoai sắn.Các từ ngữ “ấp iu nồng đượm”, “yêu thương”, “ngọt bùi”, “chung vui” thể hiện sự tinh luyện của một ngòi bút nghệ thuật, đã diễn tả thật hay tình thương, niềm vui, sự no ấm, hạnh phúc mà bà đã mang lại cho con cháu. Bà đã “nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ”, nuôi dưỡng và làm bừng sáng những ước mơ, những khát vọng của đàn cháu nhỏ.
Bếp lửa bà nhen đã nhóm lên ngọn lửa của tình thương ấm áp. Chính vì thế mà nhà thơ đã cảm nhận được trong hình ảnh bếp lửa bình dị mà thân thuộc sự kì diệu, thiêng liêng: “Ôi! Kì lạ và thiêng liêng – Bếp lửa”. Như vậy, từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một “niềm tin dai dẳng” về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa.
Đứa cháu năm xưa giờ đã trưởng thành. Từ phương xa vọng ngóng về quê hương trong nỗi nhớ và niềm tin mạnh mẽ:
“Giờ cháu đã đi xa. Có ngọn khói trăm tàu,
Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả,
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
– Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?…”
Điệp từ “trăm” mở ra một thế giới rộng lớn với những điều mới mẻ. Cháu đã được sống với những niềm vui rộng mở, nhưng giữa “ngọn khói trăm tàu, ngọn lửa trăm nhà, cháu vẫn không thể quên bếp lửa của bà, vẫn không nguôi nhớ thương bà…. Mỗi ngày đều tự hỏi: “sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?, mỗi ngày đều nhớ về bà và bếp lửa của bà. Hình ảnh ấy đã trở thành kỉ niệm thiêng liêng làm ấm lòng, nâng đỡ cháu trên những bước đường đời.
Bài thơ Bếp lửa chứa đựng một ý nghĩa triết lí thầm kín: những gì là thân thiết nhất của tuổi thơ mỗi người đều có sức toả sáng, nâng đỡ con người suốt hành trình dài rộng của cuộc đời. Tình yêu thương và lòng biết ơn bà chính là một biểu hiện cụ thể của tình yêu thương, sự gắn bó với gia đình, quê hương, và đó cũng là sự khởi đầu của tình yêu con người, tình yêu đất nước.
Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả, tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn ở sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi mọi kỉ niệm, cảm xúc và suy nghĩ về bà và tình bà cháu. Bằng Việt đã sáng tạo hình tượng bếp lửa vừa thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng kết hợp miêu tả, biểu cảm, tự sự và bình luận; giọng điệu và thể thơ tám chữ phù hợp với cảm xúc hồi tưởng và suy ngẫm. Bài thơ như ngọn lửa ấm áp toả sáng và cháy mãi trong tình cảm của người đọc.
9. Tài liệu tham khảo thứ hai
Ai trong chúng ta cũng đều có một quê hương và những ký ức ngọt ngào để nhớ về, để yêu thương và làm động lực sống. Nhà thơ Bằng Việt, dù đang học tập xa quê, vẫn luôn đau đáu nhớ về quê hương, về những khói bếp lửa âm ấm và người bà tần tảo, chăm sóc cháu. Những ký ức đẹp đẽ của tuổi thơ ấy được gói ghém trong từng câu chữ của bài thơ Bếp lửa. Bếp lửa được in trong tập thơ Hương cây, bếp lửa, cùng với nhà thơ Lưu Quang Vũ. Đây có thể coi là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Bằng Việt, được viết vào năm 1963, trong thời gian ông học tập tại Liên Xô.
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh ngọn lửa bập bùng, không chỉ là hình ảnh thực mà còn chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa
Khung cảnh đơn sơ, thân thuộc hiện ra trước mắt người đọc. Ngọn lửa bập bùng gợi nhắc đến sự nhớ thương và lòng biết ơn của người cháu đối với bà. Hai từ “ấp iu” gợi hình ảnh bà chăm sóc ngọn lửa, lo lắng cho từng bữa ăn, giấc ngủ của cháu. Từ đó, cảm xúc thương yêu bà được thể hiện rõ nét:
“Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”.
Ký ức về những năm tháng đói kém đã hiện về trong tâm trí nhà thơ, khi nạn đói đã cướp đi sinh mạng của nhiều người:
Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi
Bố đi đánh xe khô rạc ngựa gầy
Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu
Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay
Dù nạn đói đã khiến nhiều người thiệt mạng, bà vẫn kiên cường, chăm sóc cháu từng củ khoai, miếng sắn. Nỗi ám ảnh về đói kém còn in đậm trong tâm trí tác giả, khiến cho mỗi khi nghĩ lại sống mũi vẫn cay. Cái cay ấy không chỉ là mùi khói mà còn là sự cảm thương cho những vất vả mà bà đã trải qua và lòng tri ân đối với sự hy sinh của bà. Với bà, mọi khó khăn đều có thể vượt qua, và bà đã bảo vệ cháu qua mọi thử thách.
Sống tám năm cùng bà, Bằng Việt nhận được sự chăm sóc và giáo dục từ bà:
Mẹ cùng cha công tác bận không về,
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe,
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,
Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà,
Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?
Câu thơ thể hiện sự tận tụy của bà đối với cháu. Bà đã trở thành người cha, người mẹ, dạy dỗ cháu nên người. Tác giả thể hiện lòng kính trọng và yêu quý bà. Nếu không có bà, có lẽ cháu sẽ không thành công như hiện tại.
Trong khổ thơ tiếp theo, hình ảnh chiến tranh hiện lên tàn khốc với những ngôi làng bị thiêu rụi, nhưng bà vẫn kiên cường, cùng hàng xóm dựng lại nơi trú ẩn cho hai bà cháu. Bà còn dặn dò Bằng Việt không nên làm cha mẹ lo lắng, mặc dù họ đang công tác ngoài chiến trường. Những lời dặn dò này thể hiện sự hy sinh cao cả của bà.
Bà không chỉ chăm lo cho cháu mà còn thắp lên trong cháu những tình cảm thiêng liêng:
“Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm,
Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi,
Nhóm niềm xôi gạo mới, sẻ chung vui,
Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ…
Ôi kỳ lạ và thiêng liêng – bếp lửa!”
Điệp từ “nhóm” được lặp lại, tạo nên không khí ấm cúng và đầy yêu thương. Bếp lửa đã dạy cháu biết chia sẻ và yêu thương, giúp cháu có mơ ước và khát vọng. Bằng Việt khẳng định vai trò quan trọng của bếp lửa, của bà trong cuộc đời mình và nhấn mạnh tình cảm vẫn sống mãi dù đã xa quê:
Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở:
- Sớm mai này, bà nhóm bếp lên chưa?
Bài thơ kết thúc với câu hỏi khắc khoải, nhấn mạnh sự biết ơn sâu sắc của tác giả đối với bà và gửi gắm thông điệp về giá trị của gia đình.
10. Tài liệu tham khảo số 3
“Một bếp lửa bập bùng trong sương sớm
Một bếp lửa ấm áp giữa lòng đêm”
Hai câu thơ này luôn ám ảnh tôi trong suốt những năm tháng xa nhà. Mỗi khi nhớ về bà, về quê hương, tôi lại nghĩ đến những câu này – nghĩ đến “Bếp lửa” của Bằng Việt. Bài thơ được viết vào năm 1963 khi Bằng Việt đang du học ở nước ngoài. Mặc dù đây là một trong những tác phẩm đầu tay của ông, “Bếp lửa” từ khi ra đời đến nay vẫn giữ được một vị trí đặc biệt trong nền thơ Việt Nam. Bài thơ được in trong tập “Hương cây – Bếp lửa” vào năm 1968 và được coi là một trong những bài thơ nổi bật về tình bà cháu trong thơ ca hiện đại Việt Nam.
Bố cục bài thơ phát triển từ hồi tưởng về quá khứ đến hiện tại, từ ký ức đến những suy ngẫm sâu sắc. Bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh bếp lửa, gợi nhớ về quá khứ để từ đó người cháu trưởng thành hơn, thấu hiểu bà hơn và gửi gắm nỗi nhớ thương trong cảnh xa cách.
Phần mở đầu của bài thơ là hình ảnh bếp lửa quen thuộc ở quê, nhắc nhở người cháu về bà:
“Một bếp lửa bập bùng trong sương sớm
Một bếp lửa ấm áp giữa lòng đêm
Cháu thương bà biết bao qua nắng mưa”
Những từ “một bếp lửa” được lặp lại ngay từ đầu bài thơ vì hình ảnh này quá quen thuộc với làng quê Việt Nam và gắn liền với kỷ niệm về bà. Khi nhắc đến bếp lửa, người ta sẽ nghĩ đến bà và những ký ức về bà gắn liền với bếp lửa. Bếp lửa không chỉ là nguồn cảm xúc cho nhà thơ về bà, mà từ láy “bập bùng” kết hợp với “ấm áp” vừa gợi lên hình ảnh ngọn lửa trong sương sớm, vừa gợi cảm giác về bàn tay khéo léo và tấm lòng ấm áp của người nhóm lửa. Bếp lửa đã thắp sáng trong cháu những kỷ niệm về bà, thổi bùng tình yêu thương và nỗi nhớ bà. Khổ thơ đầu kết thúc bằng tình cảm chân thành của người cháu, làm cho tình cảm đó lan tỏa và thấm vào trái tim người đọc.
Bốn khổ thơ tiếp theo mô tả những ký ức về những năm tháng sống bên bà. Đầu tiên là ký ức của người cháu khi lên bốn tuổi:
“Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói
Năm đói khổ mòn mỏi không dứt
Bố đi làm xe, ngựa khô gầy yếu
Chỉ nhớ khói, hun nhèm đôi mắt cháu
Nhớ lại vẫn làm sống mũi cay xè!”
Đoạn thơ không chỉ là ký ức về một tuổi thơ khó khăn của cháu mà còn gợi nhớ về nạn đói khủng khiếp năm 1945. Những câu thơ khiến ta nhớ đến cảnh tượng “Người chết như ngả rạ... Không buổi sáng nào mà không gặp xác người bên đường...” trong “Vợ nhặt” của Kim Lân. Người cháu lớn lên trong cảnh đói khổ như vậy. Thành ngữ “đói khổ” và hình ảnh “ngựa khô gầy” diễn tả sự đói kém và kiệt quệ của nạn đói. Nhưng hình ảnh cháu nhớ nhất là khói – khói từ những bếp lửa bập bùng, những ký ức về đói khổ mà cháu đã trải qua cùng bà. Dẫu thời gian đã qua lâu, những ký ức đó vẫn khiến cháu cảm thấy cay xè mắt. Hình ảnh bếp lửa, dù mờ trong khói, vẫn gợi lên cảm xúc chân thật và tình cảm sâu sắc. Những câu thơ của Bằng Việt đã chạm đến trái tim người đọc.
Ký ức về bà tiếp tục theo cháu, gắn liền với sự trưởng thành của cháu:
“Tám năm dài cháu cùng bà nhóm lửa
Tiếng tu hú kêu trên cánh đồng xa
Khi tu hú kêu bà có nhớ không?
Bà hay kể chuyện về những ngày ở Huế
Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!”
Những năm tháng khó khăn chưa qua thì chiến tranh lại ập đến. Mẹ và cha đều bận công tác xa nhà, cháu sống cùng bà. Không còn bếp lửa, không còn khói cay, giờ đây ký ức của cháu là tiếng kêu của những con tu hú trên trời cao. Mười một dòng thơ với âm thanh tiếng tu hú vang lên năm lần. Có lúc âm vang mơ hồ ở “những cánh đồng xa”, có lúc gần gũi, thân thương “sao mà tha thiết thế”. Tiếng tu hú không chỉ gợi không gian rộng lớn mà còn gợi cảm giác hiu quạnh, lẻ loi của bà và cháu trong những tháng ngày chiến tranh. Dù nghèo khổ, bà vẫn chăm lo cho cháu: “Cháu ở cùng bà, bà dạy bảo”.
Những ký ức về bà mở rộng ra cả nỗi nhớ quê hương, đất nước:
“Năm giặc đốt làng cháy tàn rụi
Hàng xóm trở về lầm lũi
Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh
Bà vẫn kiên cường dặn cháu đinh ninh:
Bố ở chiến khu còn việc bận
Mày viết thư đừng kể lể này nọ
Chỉ bảo nhà vẫn bình yên!”
Chiến tranh đã gây ra nhiều mất mát, nhưng tình làng nghĩa xóm vẫn không phai nhòa. Những ký ức về bà và làng xóm trong những năm tháng chiến tranh hiện về trong tâm trí cháu. Lời dặn dò “Mày viết thư đừng kể lể” cho thấy hình ảnh người bà tần tảo, luôn là điểm tựa tinh thần vững chắc cho cháu và là hậu phương vững vàng cho cha ngoài chiến trường.
Từ hình ảnh bếp lửa cụ thể, bài thơ chuyển sang cái trừu tượng của “ngọn lửa” với những tầng nghĩa sâu sắc:
“Một ngọn lửa trong lòng bà luôn giữ
Một ngọn lửa chứa niềm tin kiên trì”
Ngọn lửa ở đây tượng trưng cho tình yêu thương, sức sống mãnh liệt, và niềm tin vào tương lai. Điệp từ “một ngọn lửa” tạo nên nhịp thơ mạnh mẽ và ấm áp. Ký ức tuổi thơ dần chuyển thành sự biết ơn đối với bà, người đã truyền lửa và tình yêu thương cho cháu. Bà là người giữ lửa, truyền lửa và dạy cháu về tình làng nghĩa xóm, khơi dậy những điều tốt đẹp trong cháu.
Khổ thơ cuối là tâm sự của người cháu trưởng thành. Dù khoảng cách có xa xôi, dù “khói trăm tàu, lửa trăm nhà”, cháu vẫn không quên nhắc nhở: “Sáng mai bà có nhóm bếp không?”. Cháu luôn nhớ về bà với tình yêu, sự biết ơn và nỗi nhớ sâu sắc.
“Bếp lửa” không chỉ có giá trị từ khi mới ra đời mà đến hôm nay vẫn giữ vị trí riêng của nó. Với những hình ảnh chân thực và tình cảm chân thành, Bằng Việt đã chạm đến trái tim người đọc qua từng câu chữ của mình.