1. Bài văn phân tích tác phẩm 'Hai chữ nước nhà' của Trần Tuấn Khải số 1 - Đánh giá chi tiết
Bài thơ 'Hai chữ nước nhà' của Trần Tuấn Khải là một tác phẩm nổi bật trong thơ ca Việt Nam, nói về tình yêu nước, tình cảm gia đình và lòng hồn quê hương. Trong bức tranh lịch sử, tác giả đã kể lại cuộc chia ly đau lòng giữa cha con Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Trãi, đồng thời thể hiện niềm tin, quyết tâm cứu nước của nhân vật.
Thơ sử dụng thể thơ song thất lục bát với giọng điệu da diết, thống thiết, gợi cảm mạnh mẽ. Từ ngôn ngữ đậm chất nghệ sĩ, Trần Tuấn Khải đã mô tả hình ảnh biên ải uất ức, đất nước tan hoang, máu chảy ròng. Những cảm xúc uất hận, đau thương của cha Nguyễn Phi Khanh được lồng ghép tinh tế trong từng câu thơ, tạo nên một tác phẩm sâu sắc, lôi cuốn người đọc.
Melody of words, Trần Tuấn Khải đã chạm đến trái tim của độc giả, để lại dấu ấn về một thời kỳ lịch sử đau thương. Bài thơ không chỉ là tác phẩm nghệ thuật, mà còn là lời hát ca ngợi tình yêu quê hương, là đòi hỏi sự tự do và độc lập của dân tộc.
3. Phân Tích Bài thơ 'Hai chữ nước nhà' của Trần Tuấn Khải số 3
Trần Tuấn Khải (1895 - 1983), nghệ danh Á Nam, sinh và lớn lên tại làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Ông là một học giả tiên tiến, thường sáng tạo trong việc sử dụng đề tài lịch sử và biểu tượng nghệ thuật để biểu đạt sâu sắc về nỗi đau mất nước, tình cảm căm hận với kẻ xâm lược và lòng khát vọng độc lập, tự do của dân tộc.
Thơ của Trần Tuấn Khải trở nên nổi tiếng trong những năm đầu thế kỷ XX, đặc biệt là những bài hát như Gánh nước đêm, Anh đi anh nhớ, Hai chữ nước nhà, được viết dưới dạng thơ lục bát và song thất lục bát.
Bài thơ Hai chữ nước nhà là một tác phẩm xuất sắc mở đầu cho tập Bút quan hoài I, quyển thứ nhất, viết vào năm 1924. Bằng cách sử dụng đề tài lịch sử về thời kỳ xâm lược của quân Minh, tác giả Nguyễn Phi Khanh, một quan tài giỏi của triều đình phong kiến, bị giặc bắt đưa sang Trung Quốc. Trước sự chia ly, Nguyễn Trãi, con trai của Nguyễn Phi Khanh, muốn theo cha nhưng ông khuyên con quay về để bảo vệ nhà nước và trả thù cho dân tộc.
Đoạn trích này, gồm 36 câu trong bài thơ dài 101 câu, tường thuật về cảnh chia tay cảm xúc giữa cha con Nguyễn Trãi, đã trở thành một phần quan trọng trong lịch sử kháng chiến, làm tôn vinh lòng yêu nước và tinh thần kiên trì của nhân dân Việt Nam. Tác giả đã chia thành ba phần để mô tả đau đớn trong tâm hồn cha con, tình hình đất nước và lời chia tay tuyệt vọng của người cha.
Phần 1: Từ đầu... đến lời cha khuyên: Sự đau đớn trong tâm hồn cha trong hoàn cảnh khó khăn;
Phần 2: Tiếp theo... đến sau đó mà: Hiện thực đau thương của đất nước, tang tóc;
Phần còn lại: Sự bất lực của cha và những lời truyền đạt tâm huyết dành cho con.
Vì sao tác giả chọn Hai chữ nước nhà làm tựa đề? Tựa đề này liên quan đến tư tưởng chủ đạo của bài thơ và thể hiện rõ mối liên kết giữa nước và nhà. Nước mất là nhà tan. Thù nhà chỉ có thể trả khi thù nước đã được xóa. Do đó, Nguyễn Phi Khanh khuyên con trai hãy coi trọng nước như là nhà, thể hiện tình cảm hiếu hạnh với cha, đồng thời chống lại bè lũ xâm lược. Ông mô tả mạnh mẽ tình yêu nước thông qua các cảnh chia tay cảm động giữa cha và con, tạo nên một tác phẩm toát lên tinh thần yêu nước mạnh mẽ.
Bài thơ không chỉ mang tính chất lưu giữ quê hương mà còn thể hiện sự phẫn nộ, đau đớn của tác giả trước tình cảnh đất nước mất mát. Điều này làm xúc động người đọc và đã tạo nên một tác phẩm vĩ đại được truyền tụng rộng rãi, đặc biệt là trong tầng lớp trí thức và thanh niên yêu nước. Đoạn thơ đầu tiên đã khắc họa bức tranh chia ly:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu.
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình.
Cuộc chia tay giữa hai cha con diễn ra ở biên giới phía Bắc, nơi ảm đạm, heo hút, với rừng núi trập trùng, mây sâu, gió thảm, hổ thốt, chim kêu... Cuộc ra đi không trở lại của Nguyễn Phi Khanh tại đây là điểm kết thúc cuộc hành trình, khiến ông rời xa Tổ quốc, quê hương và người thân. Tình cảnh đau đớn của người lưu đày nơi đây phản ánh trên cảnh vật u ám, thê lương, giống như việc Gảy vào dây đàn yêu nước của mọi người, như Xuân Diệu đã mô tả.
Tình cảm yêu nước của tác giả được thể hiện rõ qua hình ảnh và ngôn ngữ sâu sắc. Ông hóa thân vào tâm trạng của Nguyễn Phi Khanh, tận hưởng và diễn đạt những cảm xúc, nỗi niềm của người cha lưu đày. Những lời khuyên của ông như những lời trăn trối dành cho con, với hy vọng con sẽ tiếp tục truyền thống yêu nước và chiến đấu vì tự do. Mỗi câu thơ đều là một tình khúc yêu nước, là nguồn cảm hứng cho tình yêu và lòng kiên trì của nhân dân Việt Nam.
Trong những khoảnh khắc cuối cùng bên con, Nguyễn Phi Khanh đặt ra một câu hỏi lớn cho Nguyễn Trãi, cũng như là nỗi băn khoăn không dứt của bản thân ông:
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà ?
Nguyễn Phi Khanh sử dụng hình ảnh khói của núi Nùng, sóng sông Nhị (sông Hồng) để thể hiện sự giận dữ với quân xâm lược, cũng như lòng tự hào với sự thành công và bền vững của dân tộc. Việc ông đặt câu hỏi về tương lai là một cách làm tuyệt vời để kích thích lòng tự hào và trách nhiệm của thế hệ trẻ trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước.
Những dòng thơ cuối cùng của Nguyễn Phi Khanh là những lời nhắc nhở đắng ngắt về sự yếu đuối của ông cha già, ông vương thành bó tay trước thách thức và gánh nặng của lịch sử. Tuy nhiên, ông tin tưởng vào thế hệ sau, truyền đạt niềm tin và hy vọng rằng con cháu sẽ tiếp tục con đường của tổ tiên, bảo vệ độc lập và tự do của đất nước.
Bài thơ Hai chữ nước nhà của Trần Tuấn Khải không chỉ là một tác phẩm văn học xuất sắc mà còn là biểu tượng của tình yêu quê hương, tình cảm đoàn kết và lòng kiên trì của nhân dân Việt Nam. Tác phẩm này đã để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng độc giả và trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho những người yêu nước và tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống.
3. Phân Tích Tác Phẩm 'Hai Chữ Nước Nhà' của Trần Tuấn Khải - Phần 2
Tác giả: Á Nam Trần Tuấn Khải (1895 - 1983), bút danh Á Nam, quê ở làng Quang Xán, xã Mĩ Hà, huyện Mĩ Lộc, tỉnh Nam Định. Á Nam Trần Tuấn Khải thường lựa chọn những câu chuyện lịch sử để thể hiện tình yêu nước sâu sắc, nỗi đau mất nước và để kêu gọi tinh thần tự do cho đồng bào.
Bài thơ nổi bật và để lại ấn tượng mạnh mẽ nhất của tác giả chính là 'Hai chữ nước nhà'. Bởi sự sáng tác đó đã truyền đạt được tâm huyết và lòng yêu nước của người dân Việt Nam thời kỳ đó.
Hai chữ nước nhà là bài thơ mở đầu trong tập Bút quan hoài I (xuất bản năm 1924). Bài thơ lấy đề tài từ lịch sử thời kỳ quân Minh xâm lược nước ta. Tác giả mượn lời của cha mình, là Nguyễn Phi Khanh, để truyền đạt nỗi lòng của mình. Đoạn trích bao gồm 36 câu thơ theo thể thơ song thất lục bát.
Đây là đoạn trích trong tập 'Bút Quan hoài' sáng tác vào năm 1926. Để phân tích cụ thể tác phẩm, chúng ta có thể chia bài thơ thành ba phần. Phần đầu có 8 câu, mô tả cảnh chia li ở biên giới, giữa cha con Nguyễn Phi Khanh - Nguyễn Trãi, diễn ra rất u buồn, thê thảm.
Phần thứ hai gồm 20 câu tiếp theo là lời cha kể về dòng họ Lạc Hồng, về lịch sử trường tồn hàng nghìn năm của dân tộc và những tổn thất đau thương mà đất nước phải chịu đựng. Phần thứ ba gồm 8 câu, cha dặn dò con, thể hiện niềm tin chân thành đối với đất nước.
Mở đầu bài thơ, tác giả tạo nên bức tranh của nơi chia ly không thể trở lại của cha, tạo ra không khí bao trùm cả bài thơ:
Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dậm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lời cha khuyên:
Mở đầu, tác giả đã mô tả khung cảnh đất nước đau thương dưới sự thống trị của quân xâm lược. Hình ảnh nhân hóa rất tinh tế: 'mây sâu ảm đạm', 'gió thảm đìu hiu', 'hổ thét chim kêu'... Cảnh vật núi sông mang nỗi đau của con người. Cả không gian rộng lớn từ 'chôn ải Bắc' đến 'chốn ải Nam'' và 'khắp bốn bể' đều chia sẻ nỗi đau với con người nơi đây. Từng câu thơ như thấm đẫm nước mắt, giọng thơ tình cảm và sâu lắng: 'Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước/ Chút thân tàn lần bước dậm khơi / Trông con tầm tã châu rơi'.
Hình ảnh của người cha già với chút thân tàn đang bước đi trong cảnh lưu đày làm cho người con cảm thấy đau lòng. Hoàn cảnh của cha con Nguyễn Trãi rất bi thảm, con muốn theo cha để chăm sóc, nhưng cha khuyên con quay về để báo thù cho nhà, bảo vệ đất nước.
Phần thứ hai là lời dặn từ tâm can của Nguyễn Phi Khanh dành cho Nguyễn Trãi. Nhớ 'hai chữ nước nhà' là nhớ về dòng họ Lạc Hồng, là nhớ về lịch sử trường tồn 'mấy ngàn năm' của dân tộc, là nhớ giang sơn 'giờ Nam riêng một cõi này', là nhớ đến những 'anh hùng hiệp nữ' .., là để tăng cường lòng tự tôn, tự hào dân tộc. Phải thật ngưỡng mộ tác giả khi có khả năng biến lời để nói về tình cảm mạnh mẽ. Sau đó là những câu thơ miêu tả cảnh thảm của non sông đất nước, giọng thơ trở nên căm phẫn hơn hết:
Than vận nước gặp khi biến đổi
Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm hoạ xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn dân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Thảm vong quốc kể sao cho xiết
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi khóc đất giời than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khói Nùng lĩnh như xây khối uất
Sóng Long giang nhường vật cơn sầu
Con ơi! càng nói càng đau...
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Tác giả sử dụng lời kể và mô tả xen kẽ với những cảm thán để làm nổi bật nỗi đau mất nước nhà, tất cả đang chìm trong thảm họa 'xương rừng máu sông', lòng dân ghét bỏ. Những từ ngữ hình ảnh 'khói lửa bừng bừng', 'xương rừng máu sông', 'thành tung quách vỡ', 'đất khóc giời than', 'xây khối nát', 'vật cơn sầu'... tuy có tính chất ước lệ, nhưng vẫn truyền đạt được mạnh mẽ vì đã thể hiện sự nhục nhã về mất nước, lòng căm thù đối với quân xâm lược.
Thêm vào đó, tác giả sử dụng những động từ, tính từ có sức gợi cảm mạnh như: 'kể sao xiết kể', 'xé tâm can', 'thương tâm', lầm than' và những hình ảnh đầy xúc động 'Ngậm ngùi đất khóc giời than' đã phản ánh độ bi thảm của thực trạng mất nước lúc đó. Tám câu cuối cùng là lời kêu gọi, dặn dò của người cha trước lúc từ biệt:
Cha xót phận tuổi già sức yếu,
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay,
Thân lươn bao quản vũng lầy,
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con nên nhớ tổ tông khi trước,
Đã từng phải đối mặt với gian nan vì nước.
Bắc Nam bờ cõi phân mao,
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...
Thay vì lời cha, Á Nam Trần Tuấn Khải đã viết ra những lời can đảm, lòng dũng cảm truyền đạt cho Nguyễn Trãi. Cha muốn thắp lên trong tâm hồn con lửa của sự căm thù xâm lăng, ngọn lửa của ý chí quyết tâm để khôi phục cơ đồ quê hương. Gánh nặng của sơn hà, xã tắc đều được trao gửi cho thế hệ tương lai với niềm tin và hy vọng.
Mượn câu chuyện xưa để nói lên câu chuyện hiện tại, mượn lời cha để thể hiện tâm huyết của mình là một kỹ thuật biểu đạt đã tồn tại từ lâu trong văn học truyền thống. Á Nam Trần Tuấn Khải đã thành công khi tạo ra những cảm xúc sâu sắc trước tâm sự yêu nước mạnh mẽ của người cha, cũng như tâm sự yêu nước của nhà thơ để tác phẩm của ông ghi sâu vào lòng người đọc sau này.
4. Phân tích tác phẩm 'Hai chữ nước nhà' của Trần Tuấn Khải số 5
Trong hàng loạt tác phẩm văn chương được công bố rộng rãi trên diễn đàn văn hóa hợp pháp trong ba thập kỷ đầu thế kỷ XX, bài thơ 'Hai chữ nước nhà' đã thu hút sự chú ý nồng nhiệt từ độc giả. Đúng vì sáng tác đó đã thể hiện chân tình và trái tim yêu nước của những người dân Việt Nam trong thời kỳ đó.
Với tấm lòng yêu nước sôi nổi và chân thành, Trần Tuấn Khải cảm thấy xót xa đến tận đáy lòng trước bi kịch đau lòng của đất nước. Để bày tỏ tâm sự này, ông lựa chọn hóa thân vào các nhân vật lịch sử. Tâm trạng phẫn uất và đau thương của những nhân vật lịch sử trước tình cảnh mất nước và tan tác chính là tâm trạng của ông. Tình cảm này đã trở thành nguồn cảm hứng chân thành và xúc động, làm cho dòng thơ yêu nước của Trần Tuấn Khải tràn ngập cảm xúc trong lòng độc giả.
Bài thơ 'Hai chữ nước nhà' nằm trong tập Bút quan hoài, xuất bản lần đầu vào năm 1924. Chơi chơi xổ số tài lịch sử về thời kỳ xâm lược của quân Minh, Trần Tuấn Khải đã chọn một khoảnh khắc đặc biệt của lịch sử để làm cho câu chuyện thêm phần cảm động. Đó là khoảnh khắc chia lìa vĩnh biệt của hai nạn nhân cho đất nước: cha con ông Nguyễn Phi Khanh. Cảnh tượng đau lòng ấy khiến những lời dặn dò của người cha biến thành những câu thơ đậm chất máu và nước mắt.
Tâm trạng phẫn uất và đau thương, cùng với những lời thơ đầy trân trọng và cảm xúc của thể loại song thất lục bát, đã tạo nên một sức rung động và truyền cảm mạnh mẽ. Cuộc chia lìa của hai cha con diễn ra tại chốn ải Bắc, nơi cực cảnh của đất nước.
Người cha lìa biệt gia đình và quê hương để bước chân tàn tật đi vào chốn lưu đày xa xôi. Người con trở về quê hương mình, nhưng cũng chẳng khác gì cha: đều là những nạn nhân vong quốc! Trong tâm trạng buồn bã của hai cha con, cảnh vật trở nên u ám và đau lòng:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi trời Nam gió thổi đìu hiu,
Bốn bề hổ thét chim kêu
Và cảnh vật u ám, tang tóc càng làm tăng thêm nỗi sầu muộn, nặng nề trong lòng người: Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình. Bốn câu thơ song thất lục bát với những từ ngữ và hình ảnh quen thuộc, ước lệ nhưng lại đầy cảm xúc, tạo ra không khí đau thương của cả thời xưa và nay!
Trong không khí tang tóc đau thương của đất nước, tình cảnh của hai cha con trở nên xót xa, chua xót: người con muốn đi theo cha để thể hiện đạo hiếu, người cha phải lòng dạ mạnh mẽ khuyên con quay trở lại để bảo vệ tổ quốc. Tình cha con có phần giằng xé, nhưng lòng yêu nước lại sâu đậm hơn nhiều! Tình nhà và tình nước cùng lúc góp phần làm đau đớn cả hai cha con, đầy xót xa:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi, con nhớ lời cha khuyên
Trong bối cảnh không gian và tâm trạng như vậy, lời thơ trân trọng và tràn ngập cảm xúc của người cha là sự linh thiêng, gây ấn tượng mạnh mẽ, khiến người con phải khắc sâu vào trí nhớ. Để lời thơ của mình trở nên mạnh mẽ hơn, người cha chỉ ra tội ác tày trời của quân giặc và bi kịch đang diễn ra trên đất nước:
Than vận nước gặp khi biến đổi,
Để quân Minh thừa hội xâm lăng,
Bốn phương khối lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn,
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Lời thơ tràn đầy sự phẫn nộ và đau đớn, diễn đạt sự xúc động sâu sắc, làm rơi lệ và gặp đắm lòng người đọc. Độc giả thời kỳ những năm 20 của thế kỷ XX, cũng chính là những nạn nhân của thảm họa chiến tranh, dễ dàng cảm nhận được nỗi đau của cha con ông Nguyễn Phi Khanh như nỗi đau của chính mình. Sau khi miêu tả tình trạng đau buồn của đất nước và tội ác của quân giặc, người cha mở lời bày tỏ nỗi lòng của mình:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đồ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khóc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi nàyỊ
Khối Nùng Lĩnh như xây khối uất,
Sông Hồng Giang nhường uất cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau
Lấy ai té độ đàn sau đó mà?
Ba câu thơ song thất lục bát cũng là ba câu cảm thán với những từ ngữ và hình ảnh đầy cảm xúc: kể sao kể xiết, xé tâm can, ngậm ngùi, khóc, than, thương tâm... đã tạo ra biểu cảm sâu sắc, mạnh mẽ, làm rõ ràng nỗi đau và xót xa trong tâm hồn người cha. Dường như người cha đã lãng quên nỗi đau và số phận của chính mình, chỉ tập trung vào nỗi đau và số phận bi kịch của đất nước, dân tộc.
Một tâm hồn như thế, thật đáng kính trọng! Từ bên trong nỗi đau, nhân vật trữ tình bước lớn dần lên. Và tình yêu nước mãnh liệt của ông đã làm lay động cả ngàn thế hệ sau. Đam mê đó được chuyển giao vào những lời truyền đạt cho con, cho cả thế hệ tương lai: Con ơi! Con nhớ lời khuyên của cha.
Câu chuyện của người cha xưa hay nỗi lòng của nhà thơ luôn quay về đất nước? Sự quan tâm ấy đã tạo nên một giọng thơ tâm huyết, đầy bi phẫn, ảnh hưởng mãi mãi đến tâm trí yêu nước thương nòi của mọi người, (Xuân Diệu).
5. Phân tích tác phẩm 'Hai chữ nước nhà' của Trần Tuấn Khải số 4
Thập kỷ 20 của thế kỉ trước, những bài thơ theo dáng điệu dân ca, những bài thơ lục bát, song thất lục bát, thất ngôn... lan truyền sâu rộng trong cộng đồng. Các hình mẫu anh hùng mà Trần Tuấn Khải kể đến đều mang giá trị làm động viên tinh thần yêu nước, bày tỏ sự đau đớn về nhục nô lệ, thể hiện mong muốn độc lập tự do không ngừng.
Đoạn trích từ bài thơ 'Hai chữ nước nhà' gồm 36 câu thơ song thất lục bát, sáng tác bởi Trần Tuấn Khải vào năm 1926, xuất hiện trong tập 'Bút quan hoài'. Trong phần lời đề từ, nhà thơ chia sẻ nguồn cảm hứng của mình là 'suy nghĩ về lời dặn của ông Phi Khanh cho ông Nguyễn Trãi khi bị quân Minh bắt giải sang Tàu'. Điều này làm cho ta cảm nhận 'Hai chữ nước nhà' không chỉ là một tác phẩm mượn đề tài lịch sử, mà còn là cơn gió thổi vào tình yêu nước, khuyến khích lòng yêu nước của nhân dân khi họ đang bị làm nô lệ cho thực dân Pháp.
Lời đề từ đưa chúng ta quay về những năm tháng đau thương của dân tộc. Năm 1407, quân Minh xâm lược nước ta, đổ máu lửa, bắt giữ cha con ông Hồ Quý Li và một số đại thần, trong đó có Nguyễn Phi Khanh giải về Tàu. Bài thơ là lời dặn của cha gửi con về 'Hai chữ nước nhà', về nghĩa nước, lòng thù nhà nợ nước.
Ở phần đầu của đoạn trích, tác giả khắc họa hình ảnh đất nước đau thương dưới bàn tay ác ôn của quân Minh. Những tảng hình ảnh nhân hóa được tạo ra rất sống động: 'mây sâu ảm đạm', 'gió thảm đìu hiu', 'hổ thét chim kêu'... Cảnh vật núi sông như mang trong mình nỗi đau của con người. Cả không gian rộng lớn từ 'chôn ải Bắc' đến 'chốn ải Nam' và 'khắp bốn bể' đều chấm đỏ bằng máu và nước mắt của hàng triệu con người:
'Chốn ải Bắc, mây sầu ảm đạm,
Cõi trời Nam, gió thảm đìu hiu
Bốn bể hổ thét chim kêu...'
Trước thảm cảnh 'vong quốc', người cha già trên con đường đày càng nặng nề nỗi niềm. Những từ ngữ và hình ảnh như: 'bất bình', 'hạt máu nóng thấm quanh hồn nước', 'tầm tã châu rơi' đã tận cùng nỗi diệt vong của anh hùng thất thế, một bi kịch lịch sử của cha con Phi Khanh và Nguyễn Trãi. Câu thơ như đầy lệ, giọng thơ thiết tha xúc động:
'Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi! Con nhớ lấy lời cha khuyên'
Nguyễn Trãi có câu thơ chữ Hán 'Anh hùng di hận kỉ thiên niên', tức là anh hùng để lại mối thù kéo dài nghìn năm. Phần đầu bài 'Hai chữ nước nhà', Trần Tuấn Khải đã bày tỏ một cách cảm động nỗi đau của nước mất nhà tan, nỗi 'di hận' của anh hùng thất thế Nguyễn Phi Khanh.
Phần thứ hai là những lời thống thiết của cha dặn con. Nhớ 'Hai chữ nước nhà' là nhớ đến dòng họ Hồng Lạc, là nhớ đến lịch sử bền vững 'mấy ngàn năm' của dân tộc, là nhớ đến vùng đất sơn hải 'giời Nam riêng một cõi này', là nhớ đến bao 'anh hùng hiệp nữ' như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lí Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn... Nhớ 'Hai chữ nước nhà' là để nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc:
'Giời Nam riêng một cõi này
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!'
Giọng thơ trở nên đầy căm giận khi cha dặn con hãy nhớ mãi những tội ác tày trời của quân 'cuồng Minh':
'Bốn phương khói lửa bừng bừng .
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn
.....
Khói Hùng Lĩnh như xây khói uất
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu
Những từ ngữ hình ảnh như 'khói lửa bừng bừng', 'xương rừng máu sông', 'thành tung quách vỡ', 'đất khóc giời than', 'xây khối nát', 'vật cơn sầu'... mặc dù mang tính chất mô phỏng, nhưng vẫn có sức mạnh truyền đạt mạnh mẽ vì đã đưa ra hình ảnh về những nỗi nhục mất nước, lòng căm thù đối với quân xâm lược. Đặc biệt, đoạn thơ của Trần Tuấn Khải đã kích thích trí tưởng tượng của người đọc, liên kết với 'Bình Ngô đại cáo' nói về tội ác của quân Minh tàn bạo:
'Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời, lừa dân, đủ muôn nghìn kể,
Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời
Nặng thuế khóa sạch không đầm núi...'
Người cha bị cùm trói, bị giải sang Tàu, nhìn quê hương mình bị hủy hoại làm cho tâm hồn ông tan nát. Càng đau đớn, ông càng lo lắng cho vận mệnh của đất nước, tương lai của con cháu. Câu cảm thán và câu hỏi tu từ được đặt ra một cách thấp thỏm:
'Con ơi! Càng nói càng đau
Lấy ai tế độ đần sau đó mà?'
Vần thơ như đổ lệ, có tiếng than, có tiếng khóc. Lời dặn của cha cũng là lời của quê hương. Tám câu cuối cùng trong bài thơ không chỉ nói về bi kịch của người cha: 'tuổi già sức yếu', 'sa cơ đành chịu bó tay'... mà còn hy vọng vào con cháu để báo thù, giải phóng quê hương: 'Giang san gánh vác sau này cậy con'... Cha thúc giục con nhớ mãi: 'Vì nước' hãy 'nhớ tổ tông', hãy dùng máu xương để chiến đấu cho sự độc lập của Tổ quốc. Đó chính là 'hai chữ nước nhà', đó là lời dặn của máu và nước:
'Con nhớ tổ tông khi xưa
Từng đợt sóng vỗ vì nước đau đớn
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...'
'Hai chữ nước nhà' là một tác phẩm hay và xúc động. Nói lên một cách rất sâu sắc, rất ngắn gọn về nỗi đau, nỗi nhục mất nước của dân tộc ta trong thế kỉ XV và lòng căm thù đối với quân Minh xâm lược. Sâu sắc hơn nữa, bài thơ đã khuyến khích tình yêu nước của nhân dân, thúc đẩy khát vọng độc lập tự do khi họ đang phải làm nô lệ cho thực dân Pháp. 'Hai chữ nước nhà' không chỉ là lời cha dặn con, mà còn là lời kêu gọi của Tổ quốc.
Từ ngôn ngữ, hình ảnh cho đến giọng thơ, vần thơ, từ cặp câu thất ngôn đối đáp đến những hình ảnh nhân hóa, tượng trưng ước lệ đều thể hiện một phong cách nghệ thuật rất đặc trưng và phong cách riêng của Á Nam. Trong thời kỳ thuộc địa, bài thơ 'Hai chữ nước nhà' đã làm rung động hàng triệu tâm hồn. Ngày nay, nó vẫn làm cho chúng ta bật khóc.
6. Bài viết phân tích tác phẩm 'Hai chữ nước nhà' của Trần Tuấn Khải số 7
Bài thơ 'Hai chữ nước nhà' là biểu tượng của tình cảm chân thành, mãnh liệt, vừa thể hiện tâm trạng khắc khoải, đau thương của nhân vật lịch sử, vừa thúc đẩy lòng yêu nước, ý chí cứu nước của đồng bào. Ngay từ đầu bài thơ, tác giả khắc họa bức tranh chia lìa đau xót giữa hai cha con ở biên giới hoang vu của tổ quốc:
Chốn Ải Bắc, mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam, gió thảm đìu hiu
Bốn phương hổ thét chim kêu
Phong cảnh đau thương, khêu gợi lòng bất bình.
Bức tranh của Nguyễn Phi Khanh bị đưa sang Tàu, ông hiểu rằng đó là hành trình một chiều, có thể là lần cuối cùng ông đặt chân lên đất quê hương. Đau lòng khi:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Thân tàn bước dặm khơi đau xót
Con nhớ lời cha khuyên như tâm thư cuối cùng:
'Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay
Trời Nam riêng một cõi này
Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!'
Nguyễn Phi Khanh trải lòng với bi kịch của quê hương:
Than vận nước gặp biến đổi
Quân Minh thống trị xâm lăng
Phong cảnh khói lửa bừng bừng
Xương rừng máu sông thảm thương!
Thành phố nơi người dân bỏ vợ lìa con
Cảnh tượng tan hoang, nỗi khổ đau chôn sâu
Khói Hùng Lĩnh, sóng Long Giang chứng nhận
Con ơi! Càng nói càng đau...
Người cha già, thân tàn, nhìn con với niềm đau đớn, mong con:
Cha xót phận, tuổi già sức yếu
Sa cơ đành chịu bó tay
Giang sơn gánh vác sau này cậy con
Nguyễn Phi Khanh truyền đạt lời khuyên cuối cùng, hướng dẫn con phải nhớ đến lịch sử, giữ gìn giống nòi và có trách nhiệm với đất nước:
'Con nên nhớ tổ tông khi trước
Đã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây...
'Hai chữ nước nhà' là tình cảm sâu sắc, lời khuyên quý báu của một cha, là biểu tượng cho lòng yêu nước và tình cảm cao thượng của những con người lịch sử.7. Phân tích tác phẩm 'Hai chữ nước nhà' của Trần Tuấn Khải - Bài thứ 6
Thu hút bởi sự tận tụy của ông Nguyễn Phi Khanh, Trần Tuấn Khải đã tìm nguồn cảm inspiration cho bài thơ “Hai chữ nước nhà”. Tác phẩm không chỉ lấy đề tài lịch sử để diễn đạt cảm xúc, mà còn kêu gọi lòng yêu nước và ý chí bảo vệ đất đai.
Nơi chốn ải Bắc, mây sầu mịt mờ
Ở cõi trời Nam, gió thổi thênh thang
Loài chim hút hồn đất trời
Phong cảnh đẹp như tranh vẽ u buồn
Huyết quốc chảy, trái tim hòa mình trong dòng nước
Thân thể tàn tạ bước qua những dặm đại dương
Con nhìn xa, châu rơi giữa không gian
Con ơi, nhớ giữ lời cha truyền thụ:
“Huyết quốc chảy, trái tim hòa mình trong dòng nước” có thể hiểu là biểu tượng cho tình yêu nước, tình cha con đọng trong cảm xúc về tình yêu nước qua lời khuyên của cha:
Kế bản kiến như trời đã định
Ngàn năm thăng trầm, thay đổi
Trời Nam có một thế giới riêng
Anh hùng, hiệp nữ không kém ai!
Ông bày tỏ cảm xúc với giọng hào sảng và nỗi buồn, trong lời khuyên, sự căm phẫn với quân giặc biến đất nước thành biển lửa:
Thảm họa của quốc gia khi biến đổi
Quân Minh thừa hội xâm lăng
Khói lửa bốc lên ở mọi phương
Tận mắt chứng kiến thảm kịch máu chảy!
Thành phố biến thành đống tro tàn
Dân làng bỏ mạng và gia đình tan rã
Sự hủy hoại làm tan tác cảnh đẹp
Còn gì khác biệt? Trái tim đau xót!
Hình ảnh rõ ràng về tội ác của quân giặc, quân Minh gây ra cho nhân dân, làm cho một thành phố thành đống tro tan tác, khiến cho những tinh thần anh hùng đau lòng và thốt lên:
Thảm họa quốc gia khi đối mặt với biến cố
Mặt đất khóc lóc, lòng đau như nhẹnh
Nước mắt nhân dân đổ vì bi kịch đau thương
Thương tâm và lòng xót xa không tận!
Khói Nùng lạnh lẽo như nỗi buồn đong đầy
Sóng Long giang nặng trĩu nỗi đau khổ
Con ơi! Càng nói càng đau lòng...
Con sẽ làm thế nào để giữ gìn truyền thống?
Trong bi thương của giống nòi không đếm xuể, Nguyễn Phi Khanh để lại cho con lo lắng về tương lai: “Lấy ai tiếp tục con dòng”. Câu hỏi lặp lại đầy tình cảm trong lời khuyên của cha, nặng trĩu niềm đau từ máu xương, ông lo lắng cho thế hệ sau, còn đâu giống nòi, còn đâu sức sống? Ông truyền bá tình yêu đất nước, lòng yêu nước, sẽ làm gì:
Cha cảm thấy đau lòng với bộ não già
Do định mệnh, đành phải chấp nhận số phận
Thân xác yếu đuối, băng qua vùng đất lầy lội
Gánh vác trách nhiệm với giang sơn mong sau này con chịu trách nhiệm
Cha nhắc nhở con về tổ tiên, truyền thống dân tộc, những chiến công của anh hùng trong lịch sử để khích lệ con hiểu rõ bản thân:
Con hãy nhớ đến tổ tiên của mình
Người đã hy sinh vì đất nước
Từ Bắc vào Nam, đất nước đổi mới
Ngọn cờ tự do, máu của tổ tiên còn ấm nóng
Kìa Trưng nữ tinh nghịch lái buồm
Liễu bồ xoay trước bão tố
Giết giặc để bảo vệ tổ quốc
Nghìn tiếng khen ngợi nữ anh hùng còn tồn tại
Kìa Hưng Đạo đối mặt với biến cố quốc gia
Vì giống nòi, quyết chiến đấu nhiều lần
Sông Bạch Đằng đánh bại quân Nguyên
Gươm reo chính khí, đất nước rộn tiếng huy hoàng
Nhìn vào lịch sử, gươm kiếm vẫn giữ được giá trị
Mở ra lãnh thổ rộng lớn, không gì chịu thua
Giang sơn này vẫn còn đẹp mãi
Nhưng bây giờ đâu sẽ là hồn nhiên dân tộc?
Con bây giờ là người dân trong nước
Hãy nhớ đến lời khuyên của cha và quê hương quý báu
Làm cho mình không phải xấu hổ trước bản thân
Thời đại có anh hùng là thời đại
Chữ danh và vinh quang không có ý nghĩa gì!
Mấy vị anh hùng trong quá khứ
Đã hy sinh vì nước non
Con, hãy đứng lên và chiến đấu trong tuổi trẻ
Đừng để mình trở thành nô lệ
Không bao giờ bán tổ tiên để kiếm sống
Đừng đánh đổi tự do để đổi lấy chật vật
Con sẽ sống như thế nào, sống đúng đắn và đầy tự do
Phải kiên trì và mạnh mẽ
Con ơi, hãy nhớ đến đạo đức và tính cách
Để không phải hổ thẹn trước xã hội
Khi sống, hãy giữ lấy truyền thống và niềm tự hào
Đừng bao giờ làm nô lệ cho người khác
Đừng bán tổ tiên và danh dự của mình
Đừng chấp nhận cuộc sống chật vật
Chấp nhận cái chết để kết thúc một lần cho xong
Cái thân này không có giá trị gì khi trở thành nô lệ
Con hãy học hỏi và trở thành người có giá trị
Không nên làm những điều đồi bại và đê tiện
Làm những việc có ý nghĩa và giá trị
Đừng lạc lõng theo con đường tăm tối
Cha hy sinh và chấp nhận số phận của mình
Nhìn về hướng về quê hương, cha không thể không đau lòng
Con ơi! Hai chữ nước nhà!
“Nghĩa vụ” là điều mà mỗi người phải làm trong cuộc sống, nghĩa vụ với “hai chữ nước nhà”. Những dòng thơ cuối cùng như là lời nói cuối cùng của tấm lòng yêu nước, tấm lòng nồng đậm và mãnh liệt nằm yên trong tâm hồn. Đọc 'Hai chữ nước nhà' giống như là một hành trình để tìm kiếm tình yêu và lòng tự do đối với đất nước.
8. Phân Tích 'Hai chữ nước nhà' của Trần Tuấn Khải
Bài thơ 'Hai chữ nước nhà' là tác phẩm đầu tiên trong tập Bút quan hoài I của Trần Tuấn Khải, sáng tác vào năm 1926. Nó đề cập đến thời kỳ lịch sử nước ta bị quân Minh xâm lược trong thế kỷ XV. Cha con Nguyễn Trãi phải đối mặt với thất bại khi quân giặc xâm lược. Nguyễn Phi Khanh bị bắt giải về Trung Quốc, và trên đường về, ông khuyên con trở lại để trả thù cho cha và bảo vệ dân tộc.
Tác giả sử dụng lời của cha để diễn đạt tâm huyết yêu nước và ý chí tự do. Đoạn trích 'Hai chữ nước nhà' với 36 câu thơ, sáng tác vào năm 1926, được xuất bản trong tập Bút quan hoài I. Trần Tuấn Khải tận dụng đề tài lịch sử để thể hiện lòng yêu nước sâu sắc và mong muốn độc lập dân tộc.
Lời đề từ của bài thơ là nơi tác giả tiết lộ nguồn cảm hứng từ lời dặn của ông Phi Khanh cho ông Nguyễn Trãi khi ông bị bắt sang Tàu. Điều này làm rõ rằng 'Hai chữ nước nhà' lấy đề tài lịch sử để thể hiện tinh thần yêu nước của tác giả.
Phần đầu của bài thơ vẽ lên cảnh đau thương của đất nước trước sự xâm lược của quân Minh. Hình ảnh nhân hóa như mây sầu ảm đạm, gió thảm đìu hiu, hổ thét và chim kêu mô tả sự đau đớn dưới chế độ đô hộ của nhà Minh. Sông núi cũng như con người, đau đớn không kém:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu,…
Chút thân tàn lần bước dặm khơi,
Trông con tầm tã châu rơi
Con đứng trước cảnh mất nước, người cha đi đày vẫn giữ lấy nỗi buồn. Chữ trong đoạn thơ là biểu tượng của sự uất hận, thất thế của anh hùng và bi kịch mà cha đang gặp phải. Câu thơ đầy cảm xúc, vừa thiết tha vừa nặng trĩu: Con ơi, hãy nhớ lời cha khuyên. Trước khi ra đi, cha chỉ kịp truyền đạt những niềm uất hận, trách nhiệm nặng nề cho con:
Giống Hồng Lạc hoàng tiên đã định,
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay
Giời Nam riêng một cõi này,
Anh hùng hiệp nữ xưa nay kém gì!
Nguyên văn như muốn nhắc nhở con về lòng tự tôn dân tộc, kế thừa truyền thống của những người tiền bối, hy sinh bản thân vì độc lập của dân tộc. Những câu thơ sau thể hiện sự hận thù khi người cha nói về tội ác của quân giặc:
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Những hình ảnh như khói lửa bừng bừng, xương rừng máu sông, thành tung quách vỡ, đất khóc giời than… mang đầy tính chất kêu gọi, làm nổi lên nỗi nhục mất nước và lòng căm thù với quân giặc. Người cha, trước khi rời đi, ngắm nhìn cảnh đất nước đau đớn và lo lắng. Đất nước đang phải đối mặt với số phận khốc liệt, và nỗi đau đó càng lớn khi lo cho vận mệnh của quê hương. Câu cảm thán kết hợp với câu hỏi tương tự đặt ra một cách cảm xúc:
Con ơi! càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Lời thơ chứa đựng nhiều lệ, có sự than thở, và rơi vào lòng người. Ở đây, không chỉ là lời dặn dò của cha đối với con, mà còn là lời của cả một dân tộc. Câu cuối cùng trong bài thơ như là biểu tượng cho bi kịch của người cha: tuổi già yếu đuối, sa cơ đành chấp nhận, đặt niềm tin vào con để bảo vệ những gì còn lại và trả thù cho dân tộc:
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Con hãy nhớ lời tổ tông giao phó khi đất nước đang chịu đựng những đau đớn:
Con nhớ tổ tông nơi chốn quê xưa,
Có những lúc vì nước mà đau thương,
Bắc Nam bờ cõi phân mao
Ngọn cờ độc lập máu đào còn đây…
Bài thơ 'Hai chữ nước nhà' diễn đạt sâu sắc nỗi đau mất nước, đồng thời thách thức tinh thần yêu nước, khát khao độc lập tự do của dân tộc. Đây không chỉ là một cuộc trò chuyện giữa cha con mà còn là giọng nói của To quốc, của người Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành lại tự do từ tay thực dân Pháp.
9. Phân Tích 'Hai chữ nước nhà' của Trần Tuấn Khải
Trải qua những thế kỷ XX, với bản sắc của mình, thơ đã ghi lại lịch sử đầy tự hào, tình yêu quê hương và hướng tìm kiếm những đường đi mới cho sự phát triển của đất nước. Những nhà thơ đã dồn hết nhiệt huyết của mình vào từng tác phẩm, và 'Hai Chữ Nước Nhà' là một trong những kiệt tác. Tác giả Trần Tuấn Khải không chỉ làm sống động những nhân vật mà còn khám phá thế thơ hay, cùng những chia sẻ chân thành để diễn đạt cuộc sống của những người anh hùng yêu nước, truyền đạt tâm huyết của họ đến thế hệ trẻ của dân tộc.
Bài thơ không chỉ là đoạn trích dài 36 câu nổi tiếng trong tập Bút quan hoài I, sáng tác năm 1924, mà còn là tác phẩm chứa đựng suy nghĩ sâu sắc của tác giả. Với thể thơ song thất lục bát điêu luyện, tác giả mang đến nhiều cảm xúc cho độc giả. Nội dung của bài thơ, mặc dù quen thuộc, nhưng lại gây ấn tượng mạnh mẽ khi đề cập đến tình yêu nước thông qua những lời tâm sự chân thực của người cha - nhà chí sĩ, nhà anh hùng, đối mặt với thời kỳ đau thương khi bị giặc Minh tàn bạo xâm lược, và tình cảm của người cha hiếu thảo với con trai, truyền đạt về hoàn cảnh đất nước và quy luật thịnh suy của các triều đại.
Bài thơ có ba phần rõ ràng. Phần 1 (8 câu đầu) tập trung vào tâm trạng của người cha trước khi phải rời xa đất nước. Phần 2 (20 câu tiếp theo) miêu tả cảnh ngộ của người cha trong bối cảnh nước mất nhà tan. Phần 3 (các câu còn lại) là lời dặn dò, truyền con lời tâm nguyện cứu nước. Từ đầu bài thơ, chúng ta có thể cảm nhận sự ấn tượng thông qua tiêu đề 'Hai chữ nước nhà'.
Những từ 'nước' và 'nhà' không chỉ là khái niệm về dân tộc và gia đình, mà còn là những điều gắn kết mật thiết. Trong bối cảnh lịch sử của nhân vật, nơi mà giặc ngoại xâm làm chủ, 'nước mất nhà tan' trở nên hết sức bi thảm. Tình yêu gia đình chuyển thành tình yêu quê hương, và sự đoàn kết của dân tộc là chìa khóa giải quyết mọi mâu thuẫn.
Bài thơ không chỉ là cuộc trò chuyện chân thành giữa hai người đàn ông trưởng thành mà còn là những lời thiêng liêng, đầy ý nghĩa, khiến người con phải ghi nhớ sự chia ly cay đắng giữa người cha và con trai. Trước mong muốn được đi theo để báo hiếu, người cha mẫu mực đã đặt lợi ích của nước trên cả tình riêng, để lại lời khẩn nguyện cuối cùng cho con cái.
Máu nóng của dân tộc thấm đẫm khắp nơi
Thân lươn bóp quản vùng lầy
Giang sơn gánh vác sau này cậy con
Người cha trải lòng, gửi gắm niềm tin quý báu cho con trước những phút giây gặp gỡ cuối cùng, thể hiện trong từng vần thơ ngắn nhưng đầy hình ảnh và cảm xúc. Trước bối cảnh của cuộc chia ly không hẹn gặp giữa người cha, người con, nơi biên giới trở thành địa điểm u ám, buồn bã, nó là nơi xuất phát của hàng ngàn chiến sĩ yêu nước. Nỗi đau của nhà chí sĩ được thể hiện rõ qua từng chữ vần, là niềm oan trái, tiếng khóc bi thương khiến con phải ghi nhớ sâu sắc.
Trước tình hình khó khăn, cha mẫu mực, già yếu, lực bất tòng tâm, nhưng vẫn cố gắng bảo vệ giang sơn và truyền niềm tin cho thế hệ tương lai. Bài thơ kết thúc với lời dặn dò về trách nhiệm của con người - trở thành chính mình, một con người có học thức, sống với lòng tự hào và 'Chí làm trai'. Đặc biệt, tác giả đặt niềm tin vào thế hệ trẻ và tương lai của đất nước, khích lệ họ tiếp tục công lao và không hối tiếc khi cha ông nằm xuống.
Hai chữ nước nhà là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của tác giả, là sự kết hợp tinh tế giữa sự sâu sắc và cảm xúc đặt trong bối cảnh chia ly với Tổ Quốc. Tình yêu bất diệt dành cho đất nước, truyền đến sự sống mãi mãi, là trách nhiệm của mỗi thế hệ trẻ.
Bài thơ truyền đạt tâm huyết của nhà thơ Nguyễn Phi Khanh với sự tình cảm chân thành, là một thông điệp yêu nước mạnh mẽ, không thua kém các bài thơ cách mạng trong phong trào thơ Mới hiện nay.
10. Phân Tích 'Hai Chữ Nước Nhà' của Trần Tuấn Khải số 10
Trong diễn đàn văn học hợp pháp, Á Nam Trần Tuấn Khải là một biểu tượng lẫn một tác giả tài năng, để lại dấu ấn sâu sắc trong vòng 30 năm đầu thế kỷ XX. Thơ của ông không chỉ làm rung động trái tim dân tộc mà còn vượt qua bức tường kiểm duyệt khắc nghiệt của chính quyền thực dân bằng cách biểu hiện tình yêu quê hương một cách độc đáo và linh hoạt.
Là một người yêu nước không ngần ngại, Trần Tuấn Khải đã khéo léo thể hiện nội dung yêu nước trong thơ một cách đặc sắc, tránh được sự kiểm duyệt khắt khe của chính quyền. Việc sử dụng đề tài lịch sử để truyền đạt tâm sự yêu nước là một chiến thuật mà ông đã thành công mĩ mãn, và trong đó, 'Hai Chữ Nước Nhà' là minh chứng rõ ràng nhất.
Hai Chữ Nước Nhà mở đầu cho tập thơ Bút Quan Hoài I (xuất bản năm 1924) với đề tài lịch sử về thời kỳ xâm lược của quân Minh. Tác giả sử dụng lời dặn dò của người cha, được cho là của Nguyễn Phi Khanh gửi đến con trai Nguyễn Trãi, để truyền đạt tâm tư của mình. Bài thơ khởi đầu với hình ảnh cảnh chốn Ải Bắc u ám, ảm đạm, nơi đánh dấu cuộc chia li không trở lại của ông Nguyễn Phi Khanh với Tổ quốc, quê hương:
Chốn ải Bắc mây sầu ảm đạm,
Cõi giời Nam gió thảm đìu hiu,
Bốn bề hổ thét chim kêu,
Đoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Bức tranh tang tóc, đau lòng càng được vẽ sâu hơn khi miêu tả sự lê bước của người cha già, mảnh thân tàn trước hành trình lưu đày:
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước,
Chút thân tàn lần bước dặm khơi.
Trông con tầm tã châu rơi,
Con ơi, con nhớ lấy lời cha khuyên.
Quê hương mất, gia đình tan, cha con trở thành những kẻ mất nước. Thêm vào đó, ông Nguyễn Phi Khanh phải chịu số phận của một tù binh bị lưu đày. Hình ảnh người cha già với thân thể tàn tạ lê bước vào cuộc sống lưu đày khiến con trai không khỏi đau lòng. Nguyễn Trãi, muốn đi theo cha để phụng dưỡng cho ông già, nhưng nghĩa nặng nề, nghĩa vụ quốc gia làm sao mà có thể bỏ qua. Trước mắt người cha, niềm đau mất nước làm ông không thể tập trung vào tình riêng tư. Người cha, đau lòng chia tay, nhắc nhở con trai quay trở lại, chiến đấu để báo hiếu, để trả thù cho dân tộc. Cảnh quê hương tan nát, cha con chia lìa, tất cả tạo nên một tình cảnh đau lòng, thấm đẫm. Đằng sau nỗi đau đó là tình yêu gia đình và tình yêu nước không ngừng, là chìa khóa giải quyết mọi mâu thuẫn.
Trong bối cảnh cuộc chia lìa giữa cha và con, những lời khuyên cuối cùng của người cha trở thành những lời trăn trối thiêng liêng và xúc động. Trong những lời trăn trối đầy máu và nước mắt của người cha, tình hình đau thương của đất nước hiện lên rõ ràng:
Bốn phương khói lửa bừng bừng,
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ,
Chốn nhân gian bỏ vợ lìa con,
Làm cho xiêu tán hao mòn
Thảm cảnh đó liên quan đến tội ác của kẻ thù, những tên lang thang tình nguyện bất nhân:
Thảm vong quốc kể sao xiết kể,
Trông cơ đồ nhường xé tâm can,
Ngậm ngùi đất khốc giời than,
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khói Nùng Lĩnh như xây khôi uất,
Sông Hồng Giang nhường vật cơn sầu,
Con ơi! Càng nói càng đau,
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Vượt lên trên số phận cá nhân là số phận của cả dân tộc, của một quốc gia. Nên đau của ông Nguyễn Phi Khanh trở thành đau đớn to lớn, cao quý: nỗi đau của quê hương; nỗi đau thấu hiểu cả đất trời: Ngậm ngùi đất khóc giời than. Ghép nối bài thơ với bối cảnh lịch sử khi nó được sáng tác là đầu thế kỷ XX, những người dân Việt Nam lúc bấy giờ chỉ là những người vong quốc, chịu nỗi đau lầm than cơ cực. Nỗi đau mất nước của những người xưa cũng là nỗi đau thương của cả dân tộc Việt Nam đầu thế kỷ XX. Lời thơ của Trần Tuấn Khải đã đánh thức đức tin, lòng yêu nước của người dân Việt Nam một cách mạnh mẽ.
Quay trở lại với đoạn thơ và tâm sự của ông Nguyễn Phi Khanh, dường như trong những tiếng nấc khóc của sự đau thương cho tình cảnh đất nước, có cả sự hối hận, ngậm ngùi của một người cảm thấy tội lỗi với nước, với dân:
Cha xót phận tuổi già sức yếu
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
Thấu hiểu hơn, ông càng mong con trai có thể thay mình, mang lại sự báo thù, xóa mối hận cho cha già:
Giang sơn gánh vác sau này cậy con.
Có lẽ, đây cũng là lời tâm huyết cuối cùng của người cha!
Đọc kỹ đoạn thơ, ta không thể không cảm thấy xúc động sâu sắc trước tình yêu nước mãnh mẽ của người cha, cũng như tình yêu nước mãnh mẽ của nhà thơ. Thấu hiểu rằng, bài thơ của Trần Tuấn Khải đã nhận được sự hoan nghênh nồng nhiệt từ độc giả, đặc biệt là tầng lớp thanh niên lúc bấy giờ.