1. Bài văn phân tích tác phẩm 'Sau phút chia ly' số 1
'Sau phút chia ly' trích Chinh phụ ngâm khúc của Đặng Trần Côn là khúc ngâm cắt sâu vào lòng độc giả nhiều nỗi niềm xót xa. Có người cho rằng đoạn trích này là của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm, nhưng có người lại cho rằng là của Phan Huy Ích. Tuy nhiên, cho dù thuộc về nhà thơ nào đi chăng nữa, đây vẫn là những bài thơ sâu sắc nhất, phản ánh chân thực nhất tình cảnh cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ khi chồng ra trận. Đoạn trích này đã thực sự lột tả được tâm trạng bi ai của những cặp vợ chồng trẻ trong thời kỳ chiến tranh dữ dội.
Thời kỳ phong kiến, nhiều cuộc chiến tranh phi nghĩa đã xảy ra, kéo theo nhiều người vào vòng xoáy đau khổ này. Cuộc sống khốn cùng, nỗi chia ly và đau khổ cứ lặp đi lặp lại không có lối thoát. Khúc ngâm này thực sự là tiếng khóc than của người chinh phụ khi chồng ra trận mà không biết khi nào mới được gặp lại. Với những đặc trưng của thể loại ngâm và thơ Nôm, tác giả đã lộ rõ diễn biến tâm lý một cách sâu sắc nhất.
Ngay từ những câu thơ đầu đã phác họa nét bi ai và xót xa của người vợ trẻ sau khi tiễn chồng ra trận. Tác giả đã mô tả một cách chân thực và sâu sắc tâm trạng u sầu này:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc trải ngàn núi xanh
Chỉ với 4 câu thơ nhưng đã khắc họa rõ nét tâm trạng của người vợ trẻ sau khi tiễn chân chồng ra trận. Một tình cảnh đối lập, khắc nghiệt đến tái tê được gợi lên trong không gian dài và rộng, sâu và xa. Chàng và thiếp, mỗi người một ngả, mỗi người một nơi. Biện pháp tương phản được tác giả sử dụng một cách khéo léo. Là vợ chồng trẻ, gắn bó mặn nồng với nhau nhưng lại chia ly đau lòng nhưng chỉ biết câm nín.
Cụm từ 'cõi xa mưa gió' giàu sức gợi tả, không chỉ là mưa gió của thiên nhiên khắc nghiệt mà có lẽ còn để diễn tả sự khốc liệt của chiến trang ngoài kia. Đối lập với 'cõi xa mưa gió' là 'buồng cũ chiếu chăn' người vợ trở về. Một bên khốc liệt, một bên cô đơn, lẻ bóng đến tái tê lòng. Tình cảnh đối lập, không gian đối lập đó cắt sâu vào lòng người nỗi thương xót thấm thía.
Người vợ trẻ còn 'đoái trông theo' nhưng không gian mênh mông, chỉ thấy cách biệt, không thấy tương phùng. Chữ 'đoái' như nặng nề và da diết khi phải chứng kiến cảnh biệt li như vậy.
Ở câu thơ cuối, tác giả dùng từ 'tuôn' như tạo điểm nhấn cho đoạn trích. Nó vừa diễn tả chiều dài, vừa diễn tả chiều rộng. Màu xanh của đất trời bao phủ lấy không gian chia ly tan tác này. Màu xanh khiến cho lòng người thêm nặng nề và u sâu hơn. Nỗi nhớ thương đau đáu được diễn tả ở cấp bậc cao hơn ở những câu thơ tiếp theo:
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Dương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Nghệ thuật đối lập tiếp tục được tác giả sử dụng triệt để: Chốn Hàm Dương>< Chốn Hàm Dương, Chàng còn ngoảnh lai><thiếp hãy trông sang. Cùng với biện pháp đảo trật tự cú pháp thì biện pháp tương phản càng gợi lên sự chia li, cách trở đến não nề. Hơn nữa, việc mượn các địa danh phần nào nói lên cuộc chiến tranh phi nghĩa đã gây bao li tán, loạn lạc. Sự xa xôi, cách trở về mặt địa lý đã khiến cho nỗi nhớ càng chồng chất, ... hạnh phúc trở nên mong manh và xa xôi quá. Ở khổ thơ này, tác giả đã gián tiếp lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa đã gây ra bao ai oán, bao tiếng khóc, bao đau xót đáng nhẽ không xảy ra.
2. Bài văn phân tích tác phẩm 'Sau phút chia ly' số 3
Trong cuộc sống của con người, khi phải chia tay và tiễn biệt nhau - người thân hay bạn bè - ai cũng cảm thấy buồn bã. Trong những lần chia tay, việc tiễn đưa người thân đi ra trận thường để lại trong lòng nhiều nỗi lo âu và buồn bã nhất. Tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc đã ghi lại cảnh chồng ra đi không vì nước mà vì lợi ích của tầng lớp thống trị, để đàn áp cuộc khởi nghĩa của nông dân Việt Nam trong nửa đầu thế kỉ XVIII, trong xã hội phong kiến. Do đó, khi tiễn chồng ra đi, người vợ đã vô cùng buồn bã và lo lắng.
Đoạn trích từ Chinh phụ ngâm khúc trong sách Ngữ văn 7, tập một, thể hiện một cuộc chia li đầy nỗi buồn của người vợ:
Chàng thì đi xa với mưa gió
Còn thiếp về buồng cũ, che chăn ấm
...
Ngàn dâu xanh thắm một màu
Lòng chàng hay lòng thiếp đau hơn?
Điều quan trọng cần lưu ý là: Tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc do ông Đặng Trần Côn sáng tác (khoảng năm 1741-1742) bằng chữ Hán, được dịch sang tiếng Việt bởi bà Đoàn Thị Điểm bằng chữ Nôm, theo thể thơ song thất lục bát. So với các thể thơ khác như thất ngôn tứ tuyệt hay lục bát, thơ song thất lục bát có âm điệu phong phú hơn. GS. Phan Ngọc đã nhận xét: 'Để biểu lộ cảm xúc, cần phải có thể hình thức như thế, để cảm xúc có thể lên đỉnh với hai câu thất, dừng lại ở câu lục ngắn gọn trước khi vươn lên với một khổ mới, lặp đi lặp lại, những cảm xúc lên xuống đều phù hợp với ngôn ngữ'.
Tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc dài 408 câu đã phản ánh rõ nét những cung bậc tình cảm của người chinh phụ - người vợ chờ chồng ra trận. Đoạn thơ trên tập trung miêu tả tình yêu thương hai vợ chồng trong những ngày đầu chia li. Đoạn thơ gồm ba khổ song thất lục bát, mỗi khổ miêu tả một cung bậc tình cảm khác nhau. Khổ thơ thứ nhất:
Chàng thì đi cõi xa với mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ, che chăn ấm
...
Đoái nhìn nhau qua sự chia cách
Mây biếc mưa xám, núi non xanh ngát.
Chỉ rõ sự chia cách, tác giả dùng nghệ thuật so sánh: Chàng thì đi... thiếp thì về, miêu tả chân thực cảnh hai vợ chồng, hai phương trời đối lập mỗi khi chúng cách xa nhau. Chồng đi vào cõi xa với mưa gió gặp nhiều gian khổ. Còn vợ thì về buồng cũ, che chăn với cảnh đơn độc, vật chất cũ kĩ, tàn tạ. Sự chia cắt thực tế đã trở thành sự thực khắc nghiệt. Nỗi buồn chia li nặng nề như phủ lên màu biếc của mây trời, màu xanh của núi rừng. Những động từ 'tuôn', 'trải' kết hợp với hình ảnh mây biếc, núi xanh gợi lên một không gian mênh mang, âm u, quằn quại của thiên nhiên vũ trụ khiến nỗi buồn chia li trở nên sâu sắc, lớn lên không ngừng. Nỗi buồn chia li tăng lên, trở thành nỗi sầu thương đầy rộn ràng trong lòng người ở và người đi.
Ở chốn Hàm Dương, chàng còn nhớ nhung
Bến Tiêu Tương, thiếp hãy còn đợi
Bến Tiêu Tương, cách xa Hàm Dương
Cây Hàm Dương, cách Tiêu Tương mấy dặm.
Các địa danh Hàm Dương, Tiêu Tương không chỉ dùng để mô tả mà còn mang tính tượng trưng cho hai vị trí xa cách của hai vợ chồng. Ở khổ thơ thứ hai, vẫn bằng cách nói tương phản 'Chàng còn nhớ... Thiếp hãy chờ' kết hợp với các từ ngữ và thay đổi vị trí của hai địa danh 'Chốn Hàm Dương - Bến Tiêu Tương, Bến Tiêu Tương - Cây Hàm Dương', tác giả muốn chia sẻ cảm xúc của cả hai, nhấn mạnh nỗi sầu xa cách. Tình cảm buồn thương, nhớ nhung không ngừng tăng lên.
Điều này cho thấy sự chia li ở đây không chỉ về mặt vật chất và cuộc sống, mà trong tình cảm và tâm hồn của hai vợ chồng vẫn còn rất gắn bó. Họ vẫn hướng về phía nhau, tìm kiếm lẫn nhau, nhìn thấy nhau mãi mãi. Nhưng càng tìm kiếm, không gian và thời gian lại càng làm họ cách xa nhau hơn. Từ 'cách xa' đã trở thành 'cách nhau nhiều dặm'. Do đó, lời thơ không chỉ biểu hiện nỗi buồn chia li mà còn nhấn mạnh sự bất hạnh, sự oán trách: gắn bó nhưng lại phải chia xa, càng đón nhìn nhau, càng không thấy nhau... Đến khi đến khổ thơ thứ ba, nỗi buồn chia li và sự bất hạnh càng trở nên rõ ràng hơn:
Mỗi lần nhìn lại mà không thấy
Thấy xanh xanh những hàng ngàn cây dâu
Cây dâu xanh mượt một màu
Lòng chàng hay lòng thiếp ai đau hơn ai?
Ở đoạn này, nghệ thuật so sánh được thêm vào với các từ ngữ, câu ngữ rất ấn tượng: cùng, thấy, xanh xanh, xanh mượt, dâu,... Ở trên, ít ra còn có tên hai địa danh Hàm Dương và Tiêu Tương tạo ra một khái niệm về địa điểm cụ thể, về vị trí hai người để có thể tiếp cận với nhau. Đến khi đến đây, tất cả các địa điểm và vị trí đều bị mờ đi, hình dáng của chàng và thiếp cũng bị mờ đi. Chỉ còn lại là hàng ngàn cây dâu, rất nhiều hàng ngàn cây dâu liền kề 'xanh xanh' sau đó 'xanh mượt' mênh mang khắp trời. Phát hiện tất cả vũ trụ là màu xanh, xanh sâu, xanh đậm, xanh mục, đau nhức tận cùng của trái tim. Các từ ghép 'xanh mượt' với tiếng 'xanh ngắt' như một chiếc kim châm vào da thịt.
Tất cả, mười một câu thơ ở trên được sắp xếp mô tả cảnh vật, tả biểu hiện của cặp vợ chồng, từ đó biểu lộ tình tâm, tình cảm. Đây là một dạng viết chữ biểu cảm, sử dụng cảnh vật để biểu lộ cảm xúc rối bời. Qua cảnh vật và các sự kiện, người đọc có thể cảm nhận được cảm xúc của nhân vật và tác giả. Nhân vật trong đoạn thơ này là cặp vợ chồng lính đánh thuê, chủ yếu là nhân vật chinh phụ, người chồng ra trận. Họ chia cắt về thân thể, cuộc sống, nhưng tình yêu thương và nỗi nhớ, sự gắn bó không thể chia cắt, không thể xa rời. Họ cố gắng để tìm nhau, nhìn nhau mãi mãi. Vì vậy, cuối cùng, tiếng than khóc đã vang lên:
Lòng chàng hay lòng thiếp ai đau hơn ai? Không còn sử dụng các phương thức mô tả cảnh vật, nhà thơ trực tiếp nói lên trái tim của nhân vật và cảm xúc của chính mình. Từ 'đau' trong câu thơ cuối cùng như là một kết luận cho tất cả những cung bậc cảm xúc trong mười một câu thơ trên. Nỗi buồn chia cắt đã được pha trộn, trào dâng, trở thành một khối đau buồn, nặng nề trong tâm hồn người chinh phụ.
Đoạn ngâm về cuộc chia tay của cặp vợ chồng trong tác phẩm Chinh phụ ngâm khúc cho thấy: nỗi buồn chia cắt của người chinh phụ khi tiễn chồng đi ra trận đã như màu sắc của mây, trời, núi non, cảnh vật, cây cối. Nỗi buồn này vừa có ý nghĩa phê phán chiến tranh vô ích, vừa thể hiện khát khao hạnh phúc đôi mươi của phụ nữ. Đoạn thơ có giá trị nhân văn, về nghệ thuật, đoạn thơ cho chúng ta biết về một thể loại thơ dân tộc với nhiều từ ngữ thân thuộc, nhiều biện pháp tu từ (so sánh, dùng từ,...) kết hợp hài hòa với âm điệu của những câu thơ song thất lục bát rất tự nhiên, vừa biểu đạt vừa chuyển tải cảm xúc.
3. Bài văn phân tích tác phẩm 'Sau phút chia tay' số 2
Đoạn trích Sau phút chia tay của Đặng Trần Côn mang giá trị nhân văn sâu sắc. Dù ngắn gọn nhưng đủ để thể hiện tâm trạng, nỗi đau xót của người vợ sau khi phải chia tay chồng ra chiến trận. Tác phẩm cũng thể hiện cái nhìn nhân văn, sự cảm thông sâu sắc của tác giả.
Khi đất nước rơi vào cuộc chiến tranh, người dân phải sống trong cảnh cơ cực, gia đình tan vỡ. Khúc ngâm này là nỗi lòng của người phụ nữ khi chồng ra chiến trận. Do đó, mỗi câu thơ đều như những lời than thở, than van và nỗi bất lực khi phải tiễn chồng đi. Ngay từ những câu thơ đầu tiên, tác giả đã vẽ nên bức tranh đầy đau đớn của đôi vợ chồng trẻ:
Chồng đi xa trong cơn mưa gió
Vợ về buồng cũ, gói chăn chiếu
Thầm nhìn theo đã cách xa
Mây biếc trải dài, che phủ núi non xanh thẳm
Sử dụng nghệ thuật đối lập: chồng đi – vợ về, hai con người chia xa nhau, câu thơ vang lên đầy đau đớn, chua xót. “Xa cách trong cơn mưa gió” chính là hiện thực khốc liệt của cuộc chiến tranh, với bao nguy hiểm không lường trước, không biết khi nào mới trở về; “Buồng cũ gói chăn chiếu” lại gợi lên không gian cô đơn, lẻ loi đến tận cùng. Tình cảnh đối lập như đau đớn, như xát vào lòng người chinh phụ. Chỉ trong một phút chia tay mà ngoảnh lại đã cách xa vạn dặm, câu thơ “mây biếc trải dài, che phủ núi non xanh thẳm” cho thấy sự xa cách không chỉ còn hiện lên trong suy nghĩ, tâm tư mà là sự cách trở thực tế, khoảng cách về không gian, địa lý. Bốn câu thơ tiếp theo miêu tả nỗi nhớ thương, khắc khoải:
Ở Hàm Dương, chồng còn quay đầu lại
Ở Bến Tiêu Tương, vợ hãy chăm chú nhìn
Bến Tiêu Tương cách xa Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương bao xa.
Nghệ thuật đối lập, tương phản tiếp tục được tác giả sử dụng một cách tài tình: chồng quay đầu lại – vợ nhìn chăm chú, cùng với đó là việc lặp lại địa danh: Tiêu Tương, Hàm Dương đã khắc sâu, tô vẽ nỗi đau, cô đơn đầy ám ảnh của người chinh phụ. Sử dụng hai địa danh mang tính ước lệ Hàm Dương và Tiêu Tương cách xa nhau vạn dặm cũng là hình ảnh, tô vẽ sự xa cách của đôi vợ chồng. Đến những câu thơ cuối cùng, sự xa cách ấy dường như không thể đong đếm được nữa bằng khoảng cách địa lý: “Ngàn dâu xanh thẫm một màu” nỗi buồn chia tay đã đẩy lên đến cực độ, gợi lên cảnh trời cao, đất rộng, thăm thẳm mênh mông không giới hạn.
Giữa không gian rộng lớn ấy, dù chồng hay vợ ngoảnh lại cũng không còn thấy được nhau nữa. Tình cảnh thật bi thương, đầy nuối tiếc. Kết thúc bài thơ là câu hỏi đầy chua xót: “Lòng chồng hay lòng vợ ai buồn hơn ai?”. Câu hỏi này thực chất là tự vấn chính bản thân. Câu hỏi được đặt ra không phải để so sánh xem chồng buồn hơn hay vợ buồn hơn mà nó chỉ để khắc họa thêm nỗi buồn, nỗi đau đớn khi phải chia tay.
Ngôn từ tinh tế, hàm súc, mang tính ước lệ, lời dí dỏm. Sử dụng linh hoạt nghệ thuật đối lập tương phản cho thấy tâm trạng đau đớn của người chinh phụ khi phải tiễn chồng ra trận. Nghệ thuật đối chiếu: không thấy, Tiêu Tương, Hàm Dương,... nhấn mạnh vào nỗi đau, cô đơn buồn rầu của người chinh phụ.
Đoạn trích Sau phút chia tay đã thể hiện nỗi buồn chia tay, nỗi đau đớn, xót xa lúc tiễn chồng ra trận. Qua những dòng tâm sự thấm đẫm nước mắt của người chinh phụ, tác phẩm cũng gián tiếp lên án cuộc chiến tranh vô nghĩa khiến đôi lứa phải chia lìa, đồng thời thể hiện khát khao hạnh phúc của đôi vợ chồng. Tác phẩm mang lại giá trị nhân văn và thực tế sâu sắc.
4. Bài văn phân tích tác phẩm 'Sau phút chia tay' số 5
Trong văn chương Việt Nam cổ điển, Chinh phụ ngâm khúc nổi bật như một viên ngọc quý sáng bóng với những màu sắc đặc trưng. Cả bản chữ Hán của Đặng Trần Côn và bản diễn nôm của Đoàn Thị Điểm đều là những kiệt tác nghệ thuật bất hủ.
Chinh phụ ngâm khúc ra đời vào đầu thế kỉ XVIII, thời điểm chiến tranh kéo dài dẫn đến nhiều cảnh chia li bi thương sâu sắc:
Chàng thì đi cõi xa trong cơn mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ, với chiếc chăn ấm áp
Nhìn nhau xa cách, chỉ thấy mây biếc, núi xanh rất xa
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.
Ở Hàm Dương, chàng còn quay đầu nhìn lại
Bên bờ Tiêu Tương, thiếp hãy nhìn sang đó
Khói Tiên Tương xa Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng nhìn nhau mà sao lại không thấy nhau
Những ngàn dâu xanh xanh bao la
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng hay lòng thiếp, ai buồn hơn ai?
(Sau phút chia tay - Trích Chinh phụ ngâm khúc)
Mười hai câu thơ với thể thất lục bát, mang đậm sắc thơ lâm li, vừa lắng đọng xót xa về chính mình, vừa thể hiện lòng nhớ thương sâu đậm, đọc xong rồi vẫn còn in sâu trong lòng người. Người chinh phu và người chinh phụ còn trẻ, đang trong tình yêu thương bền chặt, đột nhiên bị chia cắt:
Chàng thì đi xa trong cơn mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Chàng đi - Thiếp về, hai hình ảnh tương phản nhau như sự ngăn cách tàn nhẫn. Dường như người vợ cũng cảm nhận được điều đó. Và nỗi sầu đã tràn ngập cả không gian: Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh. Ngàn núi xanh đã chia cắt họ nhưng tình yêu vẫn còn mãnh liệt nhưng xót xa dõi theo nhau:
Ở Hàm Dương, chàng còn ngoảnh lại
Bên bờ Tiêu Tương, thiếp hãy nhìn sang đó
Từ Hàm Dương đến Tiêu Tương, từ khói Tiêu Tương đến Cây Hàm Dương, sự cách biệt đã vượt xa, cũng như nỗi sầu đã lên tới cực điểm, lớp lớp trong lòng người chinh phụ:
Khói Tiêu Tương xa Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng
Càng nhìn theo, ước mong gặp lại càng trở nên vô vọng. Còn đâu hình bóng người chồng yêu dấu? Chỉ còn những ngàn dâu xanh xanh trải dài tít tắp đến tận bầu trời như nỗi buồn không biết đến khi nào mới tan đi:
Cùng nhìn nhau mà lại cùng không thấy nhau
Nhìn thấy xanh xanh mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng hay lòng thiếp, ai buồn hơn ai?
Lòng chàng hay lòng thiếp, ai buồn hơn ai? Câu hỏi như một nốt nhạc nổi bật làm sâu sắc nỗi buồn chứa đựng trong lòng người chinh phụ, một khối nỗi buồn nặng nề và đè nặng lên tâm can người đọc. Trong câu thơ dường như có cả tiếng rưng rức uất ức của người vợ. Vì sao lại dẫn đến nỗi buồn nghịch chướng, oán trách này? Vì sao người chinh phụ phải đi vào cõi xa mưa gió, còn người chinh phụ trở về buồng cũ, chiếu chăn một mình? Chiến tranh thực sự là tàn bạo.
Nhà thơ không chỉ thấy được mà còn nghe thấy cả tiếng lòng sâu thẳm của người vợ trẻ và thể hiện nó một cách chân thực qua những sáng tạo nghệ thuật tài hoa và tinh tế. Chưa từng có trong văn học Việt Nam, nỗi buồn chia tay và tiếng lòng của người phụ nữ lại được thể hiện một cách sâu sắc như thế.
Mười hai câu thơ thất lục bát đã trở thành tiếng nói chung cho cảnh chia xa của tất cả các cặp vợ chồng (Hoàng Xuân Hãn) và in sâu vào tiềm thức của những ai yêu thích văn chương cổ điển Việt Nam.
5. Bài văn phân tích tác phẩm 'Sau phút chia tay' số 4
Trong văn học Việt Nam, nỗi đau chia ly đã được nhiều nhà văn quan tâm và phản ánh. Nguyễn Dữ đã viết về nỗi trông chờ của người vợ khi chồng đi chiến trận: Ngày qua tháng lại, thoát đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm bay ngoài sân, mây che kín núi, nỗi buồn góc bể chân trời không sao ngăn cản được. (Người con gái Nam Xương). Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã mô tả cảm xúc sâu lắng về sự chia tay cay đắng của đôi vợ chồng trẻ:
Người lên ngựa, kẻ chia bào
Dừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường.
(Truyện Kiều)
Tuy nhiên, có vẻ như chưa có nỗi đau nào thâm thúy hơn nỗi chia ly của người chinh phụ được thể hiện trong Chinh phụ ngâm khúc. Chinh phụ ngâm khúc là một kiệt tác văn chương xuất hiện vào đầu thế kỉ XVIII. Toàn bộ bài thơ là biểu tượng của nỗi nhớ thương chất chồng của người vợ khi chồng ra trận. Nỗi đau ấy hiện hữu từ lúc chia ly:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái nhìn theo đã cách ngăn
Tuôn mây biếc, trải núi xanh.
Chỗ Hàm Dương chàng còn quay lại
Bên Tiêu Tương thiếp hãy nhìn sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Cùng nhìn lại mà cùng không thấy
Nhìn xanh xanh những dãy núi dâu
Núi dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ước ai sầu hơn ai?
Người chồng chia tay vợ lên đường chiến trận (một cuộc chiến vô nghĩa với họ), người vợ trở về một mình trong cô đơn, buồn bã:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn.
Ôi, liệu có đau thương hơn nỗi chia ly đó, có sự cách biệt nào thêm khắc nghiệt hơn? Cả một nỗi đau chia ly nặng nề phủ lên bầu trời, sắc núi:
Đoái nhìn theo đã cách ngăn
Tuôn mây biếc, trải núi xanh.
Nỗi đau của người vợ trẻ thực sự đáng thương. Nàng muốn giữ lại hình bóng người chồng nhưng lại thấy nó càng xa dần, chỉ còn lại là khoảng trống sâu thẳm. Giữa khung cảnh tuôn mây biếc, trải núi xanh, người vợ trở nên lạc lõng, cô đơn hơn. Sự chia ly từ cách ngăn đã nhanh chóng leo thang về không gian và tâm trạng:
Chỗ Hàm Dương chàng còn quay lại
Bên Tiêu Tương thiếp hãy nhìn sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Từ câu Chàng thì đi cõi xa - Thiếp thì về buồng cũ đến chỗ Hàm Dương - Bến Tiêu Tương rồi lại Khói Tiêu Tương - Cây Hàm Dương, sự cách biệt đã leo lên mức mấy trùng, như mấy trùng nỗi nhớ buồn trong lòng người chinh phụ.
Đối với bất cứ ai, khi người thân của mình phải vào chốn cõi xa mưa gió (chốn binh đao khói lửa, nơi chiến trận thảm khốc), đều có cảm xúc buồn đau nhớ.
Ở người chinh phụ, nỗi đau buồn sâu sắc ấy còn lớn thêm vì tình yêu thương chồng vợ đang đầy đặn gắn bó (vẫn quay lại - nhìn sang). Gắn bó nhưng không được gắn bó, gắn bó nhưng phải chia ly. Điều đó thực sự là bi kịch và đau đớn vì cảnh người thì tận chốn Hàm Dương, kẻ thì mãi Bến Tiêu Tương.
Không gian Hàm Dương - Tiêu Tương (dù là biện pháp biểu cảm của văn chương cổ điển) vẫn là các địa danh để người vợ có khái niệm về khoảng cách, nhưng từ bốn câu thơ tiếp theo, cả ý niệm ấy cũng không còn, sự cách biệt đã đến cực độ:
Cùng nhìn lại mà cùng chẳng thấy
Nhìn xanh xanh những dãy núi dâu
Núi dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ước ai sầu hơn ai?
Trong cảnh trời cao đất rộng, thăm thẳm mênh mông đến tận cùng, nỗi đau chia ly của người vợ đã trở thành khối đau, núi đau chồng chất, đè nặng cả trái tim và tâm hồn nàng, để rồi sau đó sẽ theo nàng về chốn buồng cũ, đè nặng lên cuộc sống mệt mỏi ngóng trông đến chết của nàng.
Tình cảm vợ chồng và khát khao hạnh phúc lứa đôi của người vợ trẻ thật mãnh liệt, nó đã làm xao động tâm hồn bao thế hệ độc giả. Chỉ có tấm lòng đầy tình yêu thương của nhà thơ mới có thể chia sẻ và diễn tả một cách cảm động như vậy.
6. Bài văn phân tích tác phẩm 'Sau phút chia ly' số 7
Tác phẩm “Sau phút chia ly” được trích từ Chinh phụ ngâm khúc, hiện tại nguồn tác giả chưa rõ. Tuy nhiên, đây là đoạn thể hiện nỗi lòng của người phụ nữ trong thời phong kiến khi chồng họ đi chinh chiến xa xứ.
Thông qua đoạn này, tác giả muốn phản ánh tội ác phi nghĩa trong thời kỳ xưa, khiến nhiều người lâm vào cảnh khốn khổ. Nhiều phụ nữ phải xa chồng, nhiều chồng phải chịu cảnh bất hạnh trên chiến trường. Phút chia ly đầy đau đớn, nhiều nỗi xót xa, luyến tiếc của đôi vợ chồng trẻ. Tác giả diễn tả tinh tế tâm trạng của người ở lại.
Chàng đi xa giang hồ mưa gió
Thiếp về buồng cũ che chăn màu.
Đoái trông theo cách ngăn mấy trùng
Tuôn mây biếc, trải núi xanh.
Bốn câu thơ này khắc họa sâu sắc tâm trạng người vợ trẻ khi tiễn người chồng ra trận. Một cảnh tượng đau lòng, thê lương đến tê tái.
Người vợ trẻ nhìn theo bóng dáng người chồng thân thương trong không gian mịt mờ, bao la, chỉ thấy sự chia ly kéo dài không thấy tương phùng. Tâm trạng buồn đau đến tận cùng, sự vấn vương lưu luyến thể hiện trong từng câu, từng chữ của đoạn trích.
Tác giả rất nhân văn khi đồng cảm với những người phụ nữ có chồng đi chiến trường, sự cô đơn mòn mỏi của người chinh phụ phải vùi chôn mình mỗi đêm.
Chàng đi hẹn chỗ Hàm Dương vẫn còn
Thiếp về Bến Tiêu Tương chẳng bao giờ gặp.
Khói Tiêu Tương xa chàng Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Trong khổ thơ này, nghệ thuật đối lập được tác giả sử dụng rất tinh tế để thể hiện sự tiêu điều, ảm đạm của cảnh biệt ly, kẻ đi và người ở lại. Trong không gian bao la mênh mông, trong giây phút tiễn biệt đầy xúc động.
Hình ảnh chờ trông ngóng của người con gái hiện lên trong những câu thơ làm nhói lòng người ra đi, khiến cho người đọc cảm thấy xúc động với tâm sự của người phụ nữ chờ chồng quay về.
Chàng ở xa, tâm thiếp nơi nầy ai sầu hơn ai?
Ngàn dâu xanh ngắt một màu.
Bốn câu thơ này tác giả biến đổi phong cách thơ linh hoạt, người con gái vò võ một mình trong căn phòng hoang lạnh, thiếu bóng dáng người đàn ông. Sự cô đơn gối chiếc, người chồng nơi xa không biết khi nào trở về.
Tuổi xuân của người con gái chỉ có giới hạn nhất định, nhưng chiến tranh đã không cho họ hạnh phúc trọn vẹn. Không cho họ sống những thời khắc tuổi xuân hạnh phúc, mà bắt người con gái sống trong hiu quạnh, hoang lạnh mỗi đêm.
Lòng chàng ở đâu, thiếp tại đây ai sầu hơn ai?
Trong bốn câu thơ này, tác giả đã thể hiện một câu hỏi nhẹ nhàng làm cho người đọc cảm thấy xúc động. Người con gái đang tự hỏi bản thân, tự hỏi nỗi cô đơn trong mình. Câu thơ nhấn mạnh sự cô đơn, nỗi buồn của người con gái trong những đêm xuân chờ đợi chồng trở về.
Đoạn trích này thể hiện nỗi niềm, tâm sự của người con gái khi chia tay chồng đi đánh trận. Những giây phút chia biệt, bi thương nước mắt tràn đầy. Tác giả thể hiện sự nhân văn, nhân đạo với số phận của những người chinh phụ thời xưa.
7. Bài văn phân tích tác phẩm 'Sau phút chia li' số 6
Thơ là tiếng nói từ sâu thẳm của tâm hồn con người. Trước cảnh hiện thực khốn khổ, tăm tối, trước những số phận đau thương khiến người ta cảm thấy khó chịu, bức bối và đau xót, thơ lại khẳng định mình. Nó lên tiếng bày tỏ nỗi đau của người nông dân bị bóc lột, của những cung nữ cô đơn, chờ đợi suốt nhiều năm tháng, và cũng của những người phụ nữ chồng đi xa chiến trận. “Chinh phụ ngâm” chính là lời nói như thế.
Đoạn trích “Sau phút chia li” là minh chứng cho điều này:“Chinh phụ ngâm” ra đời vào thế kỉ XVIII, khi xã hội Việt Nam như một tổ ong với những lỗ hổng mà vua chúa như những con ong đấu đá, tranh giành quyền lực. Chúng gây ra chiến tranh, bắt những người nông dân làm lính. Những người đàn ông phải rời bỏ gia đình để đối mặt với cái chết chỉ vì mạng sống của người khác, trong khi những người phụ nữ ở nhà, nhớ thương không dứt và cầu nguyện cho chồng trở về. Những cảnh tượng này không còn xa lạ nhưng vẫn đau lòng và gây căm phẫn. Chính trong hoàn cảnh này, Đặng Trần Côn đã sáng tác bài thơ này.
“Chinh phụ ngâm” là dòng thơ của người phụ nữ chồng đi chiến trận, trong cảnh cô đơn, nhớ mong, đau khổ và căm phẫn. So với các thể thơ như thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú và lục bát, thơ song thất lục bát có âm điệu phong phú, phù hợp để diễn đạt tâm trạng phức tạp của nhân vật. GS. Phan Ngọc đã từng nhận xét rằng: 'Cần có hình thức đó, tình cảm mới có thể mang hình thức của sóng nổi lên với hai câu thất, dừng lại ở câu lục ngắn gọn để lan tỏa trong câu bát dài nhất rồi lại tiếp tục vươn lên trong một khổ mới, cứ như vậy, đợt sóng tình cảm dâng lên và rút xuống phù hợp với hình thức ngôn ngữ'. 408 câu thơ như 408 cơn sóng cảm xúc dâng trào không ngừng trên trang giấy và trong lòng người đọc. Bốn câu đầu tiên là cảm xúc chia ly ban đầu:
“Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.”
Hai câu thơ đầu đã đề cập đến sự đối lập giữa người đi và người ở: “chàng thì đi… thiếp thì về…” Người chồng ra chiến trận bước vào “cõi xa mưa gió” gian nan, khó khăn, quyết định hy sinh cả mạng sống không phải vì danh vọng, lợi ích hay chức vị, mà chỉ vì một lí do không phải do mình quyết định. Người phụ nữ ở lại, liệu có hạnh phúc hơn khi phải đối mặt với cảnh mưa dầm trong cõi lòng, khi hàng ngày chỉ có mình trong “buồng cũ chiếu ngăn”. Và rồi, nỗi buồn thương đã len lỏi khắp không gian với “mây biếc, núi xanh”. Động từ “tuôn, trải” làm cho không gian ngập tràn cảm xúc của người phụ nữ chồng đi. Nỗi buồn, nỗi nhớ mong cứ âm ỉ mắc ám ảnh con người. Rồi nỗi buồn nhớ lại leo thang, cao hơn theo thời gian:
“Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.”
Sự xuất hiện của hai địa danh mang tính biểu tượng nhấn mạnh sự xa cách vời vợi. Thủ pháp đối lập, tương ứng: “chốn Hàm Dương- bến Tiêu Tương”, “Khói Tiêu Tương- cây Hàm Dương”, “chàng ngoảnh lại- thiếp trông sang”, … ban đầu có vẻ như đối lập. Nhưng dù cho khoảng cách về địa lý có cách xa đến đâu, Hàm Dương và Tiêu Tương vẫn đi cùng nhau, nơi có chàng sẽ có thiếp. “Mấy trùng” là sự cách biệt nhưng tình cảm của chàng và thiếp vẫn không thể xa rời nhau. Nhưng mà càng nhớ nhung lại càng thương đau, để rồi, nỗi buồn dâng lên cao trào:
“Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?”
Lòng có hướng về nhau, có “cùng” nhưng khoảng cách vẫn “cùng chẳng thấy”, trước mắt chỉ là ngàn dâu xanh một màu. Chữ “xanh” như phủ lấy những câu thơ, cả không gian bao phủ bởi chỉ một màu xanh. Màu xanh ấy ban đầu chỉ là “xanh xanh” rồi dần thành “xanh ngắt”, cũng như nỗi buồn thương của “thiếp” ngày càng dâng cao, đến mức cực điểm. Những câu thơ liên tục lặp lại như những con sóng, với những phép đối lập ngôn ngữ như những đợt sóng cảm xúc không nguôi, vẫn lặp đi lặp lại để lan tỏa bên ngoài, trong ngàn dâu không thấy bờ bến. Câu thơ cuối cùng lên tiếng bằng câu hỏi đầy xúc động: “Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?” Khi con người không còn đủ tỉnh táo, họ chỉ có thể đặt ra câu hỏi mà không có câu trả lời, cũng không để ai trả lời. Ai có thể hiểu được nỗi đau của “thiếp” sâu đến nhường nào, cũng như “thiếp” có thể biết được lòng chàng đến đâu, chàng sống ra sao?
Chỉ với 12 câu thơ nhưng biển cả nhung nhớ với những đợt sóng cảm xúc không ngừng, ngày càng dữ dội hơn. Nỗi cô đơn và sự chờ đợi trong cay đắng, khát vọng không bao giờ đến. Vì sao họ lại phải chịu đựng nỗi đau như thế? Câu thơ như là tiếng nói mạnh mẽ, lên án chiến tranh vô lý, đã cướp đi quyền sống và hạnh phúc của con người. Từ đó, có thể thấy từng giọt lệ của tác giả rơi trên giấy, nỗi cảm thông sâu sắc, sự chia sẻ với ước vọng hạnh phúc sau mỗi chữ viết. Đó mới là những gì tạo nên giá trị và sức sống của những câu thơ qua hàng thế kỉ.
Có những người đã ngã xuống, những trang sử đã đi vào quá khứ theo thời gian, nhưng những dòng thơ, những lời viết vẫn còn mãi. “Chinh phụ ngâm” chính là một tác phẩm như vậy.
8. Phân tích 'Sau phút chia li' của tác phẩm số 9
“Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn là một tác phẩm văn vần vô cùng có ý nghĩa, phản ánh nỗi mất mát, đau khổ của người phụ nữ có chồng đi chiến trận trong bối cảnh rối ren của thời đại, và nỗi đau thương mất mát của con người thời chiến nói chung. Đoạn trích: “Sau phút chia li” trong khúc ngâm diễn tả nỗi nhớ thương của người phụ nữ sau khi tiễn chồng đi “nơi binh đao loạn lạc”. Đọc đoạn trích này, ta không thể không cảm thấy xót xa trước những ám ảnh cảm xúc mà con người phải chịu đựng bởi chiến tranh. Hai câu đầu đoạn trích như là một lời kể của nhân vật về việc tiễn chồng đi chiến trận:
Chàng đi xa trong cơn mưa gió
Thiếp trở về buồng cũ và chiếu chăn
“Chàng” và “thiếp” rõ ràng là cặp đôi phu thê mặn nồng tình ái nhưng không thể như lẽ thường tình, không thể được bên nhau vui vầy mà lại phải mỗi người một nơi. Người chồng đi chiến trận cất bước ra đi đến nơi biên giới xa xôi, ở nơi đó không biết có bao nhiêu “mây gió mịt mùng” mà chẳng ai biết sẽ đợi chờ. Còn người phụ nữ chồng về nơi quê xưa, căn phòng của đôi trẻ đang chờ ngày tái ngộ. Hai từ đối lập “đi”- “về” trong hai câu tạo nên sự chia cách, đôi người đôi ngả cho đôi lứa yêu nhau. Chỉ với những điều đó mà ta đã thấy sự chia ly trong tình yêu. Người phụ nữ chồng giống như phần nào đã nhận ra sự chia cách giữa hai bên khi mà:
Đoái nhìn đã cách xa
Mây trôi, núi xanh một vạt
Sự chia cách giữa đôi phu thê không phải là một bức tường hay một ngôi làng, một khu phố xa tận chân trời, xa không thể đếm được, chỉ có thể đoán lường bằng sự hùng vĩ và rộng lớn của thiên nhiên. Khi nhìn theo hướng người chồng đi chiến trận, người phụ nữ chồng chỉ có thể nhìn thấy mây trôi, thấy núi xanh và hình ảnh mây, núi là những liên tưởng cho cái xa nghìn trùng, một sự chia cách khó lòng đếm xuể.
Ở những câu thơ tiếp theo, những địa danh cụ thể được nhắc đến, Hàm Dương là nơi người chồng đi chiến trận và Bến Tiều Dương là quê nhà của người phụ nữ chồng đang chờ đợi. Phải chăng sự xa cách giữa khói Hàm Dương và khói Tiêu Dương, giữa cây Hàm Dương và cây Tiêu Dương là biểu thị cho sự chia cách của con người? Họ cách xa nhau nhưng vẫn hướng về nhau nên “chàng còn ngoảnh lại”, “thiếp hãy trông sang”, họ luôn tìm kiếm cơ hội để thấy hình bóng nhau trong không gian xa cách, dù biết rằng thường thì là vô vọng. Ở đáy tận cùng của con tim, ai cũng có niềm khát khao sâu thẳm để trọn vẹn trong tình yêu đôi lứa. Nhưng hiện thực thì lại phũ phàng khi cả hai:
Cùng nhìn về phía xa mà không thấy gì
Thấy màu xanh của hàng ngàn cây dâu
Vì khoảng cách địa lý quá xa để họ có thể tìm thấy nhau, cho dù họ có nhìn về phía xa, cố tìm kiếm bóng dáng người yêu thương thì cũng chỉ có thể thở dài trong sự tuyệt vọng vì không thể thấy nhau. Những gì họ có thể nhìn thấy trong tầm mắt là màu xanh xanh của hàng ngàn cây dâu, một màu sắc vô tri vô giác nhưng bao trùm cả một không gian rộng lớn, hạn chế tầm nhìn và khép kín hi vọng về khoảng cách. Và vì thế, một câu hỏi bất chợt từ đáy lòng bất chợt bùng lên:
Ngàn cây dâu xanh tươi như thế
Lòng của chàng hay của thiếp sầu hơn?
Người phụ nữ chồng đang tỏ bày nỗi sầu của mình hay đang bày tỏ nỗi lo âu về tình yêu của người chồng? Cho dù hiểu theo cách nào, câu hỏi này vẫn lôi cuốn vào tâm trí của người đọc, vạch ra nỗi sầu buồn, lo lắng của người phụ nữ chồng. Không còn niềm vui rạng rỡ, mong chờ ngày chồng có thể “mặc áo gấm trở về làng” mà giờ đây chỉ còn lại nỗi buồn sâu thẳm. Có lẽ điều chung nhất của nỗi đau trong lòng con người qua mọi thời đại khi mắc phải cảnh chia ly. Sự chia ly là nguồn gốc của bao nhiêu nỗi đau khổ trong cuộc sống của những con người, cụ thể là đối với tình yêu của đôi lứa. Đặng Trần Côn đã thấu hiểu những mất mát lớn lao này và đã lên tiếng chia sẻ cảm xúc với số phận đau đớn trong cảnh chia ly tan tác.
9. Phân tích 'Sau phút chia li' của tác phẩm số 8
Chinh phụ ngâm khúc, hay còn gọi là chinh phụ ngâm, là bài thơ ca về nỗi lòng sầu thương, nhớ nhung của người vợ trẻ khi chồng ra trận, được Đặng Trần Côn, người làng Nhân Mục thuộc Thanh Xuân, Hà Nội, sáng tác vào năm 1741-1742, thời điểm mà xã hội phong kiến đang rối ren suy thoái trong bối cảnh các cuộc khởi nghĩa của nông dân và sự đàn áp của triều đình khiến đất nước kinh thành rối loạn. Đối diện với hoàn cảnh ấy, Đặng Trần Côn đã dùng bút vàng của mình để thể hiện sự cảm thông và xót thương chân thành, lên tiếng cảm nhận nỗi đau đớn mà chiến tranh mang lại cho nhân dân. Chinh phụ ngâm khúc ban đầu được viết bằng chữ Hán và sau đó được nhiều người dịch sang chữ Nôm.
Bản dịch Nôm này là của Đoàn Thị Điểm (1705-1748), một phụ nữ có tài có sắc. Suốt bài thơ, tiếng gọi oán trách về chiến tranh của người chinh phụ vang lên, nhấn mạnh sự nhớ nhung chết đơn của họ. Tác giả thể hiện nghệ thuật độc đáo khi diễn tả tâm trạng phức tạp của nhân vật mà không lặp lại nhàm chán. Bốn câu đầu thể hiện tâm trạng của người vợ trẻ sau khi chia ly, với nỗi lòng vơi vẻ và buồn bã:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông theo đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc, trải ngàn núi xanh.
Người ở lại với sự cô đơn ngày một thêm. Cuộc chia ly diễn ra khi chàng ra đi vào cõi xa mưa gió, còn thiếp trở về với căn phòng cũ, chăn chiếu vẫn còn ấm áp bởi tình vợ chồng, nhưng tình cảnh lại làm trớ trêu khiến cho người chinh phụ và người ra đi phải chịu đựng những gian truân khó khăn, thậm chí nguy hiểm. Những miền đất xa mưa gió như đang sẵn sàng gợi lên hình ảnh vô tận, làm cho người đọc cảm thấy cái gì đó khó lường. Chàng ra đi trong hiểm nguy luôn rình rập, không biết khi nào mới trở về, và điều dễ nhận thấy là công danh hão huyền còn cái chết lại là sự thật, một thực tế nghiệt ngã, phũ phàng khó tránh khỏi. Người ra đi thì gặp khổ, người ở lại có gì sung sướng, khi thiếp trở về buồng cũ chiếu chăn vẫn còn vương vấn hơi ấm nồng nàn của tình vợ chồng, tình cảnh lại trớ trêu như làm xoáy vào nỗi đau của người chinh phụ và người ra đi. Từ đây về sau, nàng phải sống với nỗi nhớ, nỗi buồn tủi, cô đơn trong những năm tháng xa cách đầy lo lắng, đợi chờ và hy vọng.
Nỗi buồn của người ở lại dường như lan rộng khắp muôn nơi, cây cỏ 'người buồn cảnh có vui đâu bao giờ' (Truyện Kiều - Nguyễn Du). Hình ảnh người ra đi đã nhạt nhòa, khuất lấp trong dòng mây biếc, núi xanh trải dài vô tận, nỗi buồn không nguôi ngoai. Bốn câu thơ tiếp theo:
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Bến Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng.
Nỗi nhớ nhung dường như không bao giờ tan đi, mà càng sâu đậm hơn, là nỗi nhớ ngây thơ, nỗi đau hai đầu vô cùng xa cách. Tác giả đã sử dụng nghệ thuật đối trong những câu thơ bảy chữ kết hợp với sự sử dụng điệp từ và đảo ngữ uyển chuyển ở cặp câu lục bát: Bến Tiêu Dương cách Hàm Dương mấy trùng, gợi lên tình cảm tha thiết, mặn nồng, không rời. Tác giả đã khéo léo mượn cảnh vật để nói về sự xa cách, thể hiện tâm trạng nhớ nhung đang chứa đầy trong lòng nhân vật.
Đồng thời, cũng gửi vào đó thái độ bất bình đối với chiến tranh phi nghĩa lúc bấy giờ, đáng lẽ ra những đôi trẻ phải được hạnh phúc sum vầy bên nhau, nhưng chỉ vì chiến tranh mà phải chia ly, kẻ ra đi, người ở lại, không biết khi nào mới có thể gặp lại, và có lẽ cả đời này chỉ là sự chia ly mãi mãi. Nỗi bất bình ấy chính là tiếng nói lên án chiến tranh phi nghĩa của riêng tác giả và của chung nhân dân lúc bấy giờ. Nếu ở hai khổ thơ trên là nỗi nhớ và sự ngăn cách, thì ở khổ thơ cuối đó là sự ngăn cách mấy trùng thâm sâu: Cùng trông lại mà cùng mà chẳng thấy Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu Ngàn dâu xanh ngắt một màu Lòng chàng ước ao thiếp sầu hơn ai?
Sự chia ly đã xảy ra, tình cảm vẫn còn đậm đà mặn nồng, đôi vợ chồng trẻ muốn được bên nhau mà không thể. Ở khổ thơ này, tác giả vẫn sử dụng nghệ thuật đối, điệp từ để diễn tả nỗi sầu thương cùng sự cô đơn của người chinh phụ khi chồng ra trận. Lối ngắt nhịp linh hoạt trong từng câu thơ: Cùng chồng lại, mà cùng chẳng thấy... lòng chàng ước ao, thiếp sầu hơn ai? Đã góp phần làm rõ hơn nỗi đau xót của người ra đi và người ở lại.
Bóng người ra đi đã tan vào trong ngàn dâu xanh ngắt. Ngàn dâu xanh ngắt khiến người đọc liên tưởng đến sự sống tràn đầy, nhưng giờ đây trong tình cảnh này chỉ gợi lên một không gian thâm sâu, thấm đượm nỗi sầu chia ly. Câu thơ cuối 'Lời chàng ước ao, thiếp sầu hơn ai' nhấn mạnh nỗi sầu thương tột độ của người chinh phụ, gửi vào gió, vào mây, nỗi nhớ, niềm thương khó tả, giãi bày tâm tư của mình.
Với một nghệ thuật ngôn từ cực kỳ tinh tế, đặc biệt là nghệ thuật sử dụng điệp từ rất tài tình, đoạn ngâm khúc cho thấy nỗi sầu chia ly của người chinh phụ khi chồng ra trận. Nỗi sầu này vừa có ý nghĩa tố cáo chiến tranh phi nghĩa, vừa thể hiện niềm khát khao hạnh phúc của đôi lứa.
10. Phân tích tác phẩm 'Sau phút chia li' số 10
“Chinh phụ ngâm khúc” là một tác phẩm thơ ca nổi tiếng về tình yêu của người phụ nữ với chồng đi chiến trường, sáng tác bởi Đặng Trần Côn và được dịch bởi Đoàn Thị Điểm. Tác phẩm tả lại một cách chân thực thân phận bi thương của phụ nữ trong thời chiến tranh.
Nguyên bản của bài thơ được viết bằng chữ Hán, sau đó được dịch sang chữ Nôm. Bản dịch của Đoàn Thị Điểm được xem là xuất sắc nhất, thành công trong việc truyền tải ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm.
Thời kỳ Cảnh Hưng, chiến tranh và nghịch cảnh đã khiến người phụ nữ phải đối mặt với cuộc sống khó khăn, cô đơn vì chồng đi xa. Bài thơ phản ánh một cách thấu đáo mâu thuẫn giữa tình yêu thương và sự chia cắt do chiến tranh mang lại.
Đoạn thơ “Sau phút chia li” từ câu 53 đến câu 64 diễn tả nỗi cô đơn và nỗi buồn của người phụ nữ sau khi chia tay chồng đi chiến trường. Đây không chỉ là lời than thở của người phụ nữ mà còn là lời tố cáo sự phi nghĩa của chiến tranh.
Ảnh hưởng của chiến tranh không chỉ thể hiện qua cuộc sống thực tế mà còn qua cảm xúc sâu sắc của con người. Bức tranh thiên nhiên mĩ miều nhưng u buồn trong bài thơ làm nổi bật cảm xúc đau khổ của người chinh phụ.
Đoạn thơ cuối cùng với câu hỏi đầy ý nghĩa “Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?” khiến người đọc cảm nhận được nỗi đau đớn không lời của người phụ nữ.
Từ ngữ và hình ảnh trong bài thơ thể hiện một cách sống động sự chia li và nhung nhớ của người phụ nữ, làm nổi bật nỗi đau khổ và sự hy sinh của họ trong cuộc sống chiến tranh.
Sau phút chia li là một đoạn thơ sâu lắng, đầy xúc động, là lời than thở và sự bi thương của người phụ nữ, đồng thời là lời kêu gọi chống lại chiến tranh phi nghĩa của tác giả Đặng Trần Côn.