1. Bài văn phân tích tác phẩm 'Tỏ lòng' (Thuật hoài) số 1
Phạm Ngũ Lão (1255 - 1320) là một danh tướng đời Trần, chiến thắng liên miên, hùng biện văn võ. Với công lao không ngừng, ông đồng lòng cùng Hưng Đạo Đại vương bảo vệ tổ quốc, chống lại kẻ thù xâm lược. Hình như ông là bàn tay đắc lực của Hưng Đạo Đại vương. Ngoài tài năng quân sự, Phạm Ngũ Lão còn là một nhà thơ tài năng. Bài thơ Thuật hoài - một tác phẩm thể hiện lòng yêu nước anh hùng, khí thế của nhà Trần.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, chỉ bốn câu thơ nhưng Phạm Ngũ Lão đã khéo léo truyền đạt quan điểm, tình yêu quê hương và tinh thần trung quân. Các câu đầu thể hiện sự hiên ngang trong trận đánh và tinh thần đoàn kết của binh sĩ nhà Trần:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân kỳ hổ khí thôn ngưu”
(Múa giáo non sông qua mấy mùa thu
Ba quân mãnh mẽ nuốt trôi kẻ thù)
Hình ảnh những chiến sĩ nhà Trần hiên ngang với giáo trong tay, sẵn sàng đối mặt với mọi thách thức, là biểu tượng của sức mạnh và lòng dũng cảm. Múa giáo non sông như là bức tranh mô tả họ đi khắp giang sơn, làm nên những hành động cao quý vì đồng bào và đất nước. Chữ “hoành sóc” thực sự làm nổi bật vẻ mạnh mẽ, kiêu hãnh của những người lính nhà Trần. Họ không chỉ đẹp về hình thể, mà còn đẹp về tâm hồn, là niềm tự hào của dân tộc.
Cuối bài thơ, Phạm Ngũ Lão chia sẻ quan điểm về chí làm trai trong thời đại đó:
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu”
(Công danh nam nhi còn vương nợ
Nhân gian thường nói về Vũ Hầu)
Ông thừa nhận rằng công danh vẫn còn nợ nần với ông, và khi nghe nói về Vũ Hầu, ông cảm thấy hổ thẹn. Điều này không phải là sự tự ti, mà là sự nhìn nhận trung thực về bản thân. Phạm Ngũ Lão không chỉ là người lính trung thành, mà còn là nhà lãnh đạo có tầm nhìn. Sự khiêm tốn và lòng trung hiếu của ông là nguồn động viên lớn cho những người lính dưới quyền ông.
Trong tình yêu nước và lòng hiếu thảo, Phạm Ngũ Lão không chỉ là một danh tướng xuất sắc mà còn là một nhà thơ tài năng, để lại những dấu ấn sâu sắc trong lòng dân tộc. Bài thơ Thuật hoài là một biểu tượng của tình yêu quê hương, lòng dũng cảm và lòng trung hiếu, là di sản văn hóa lớn của nhân dân Việt Nam.
3. Phân tích 'Tỏ lòng' (Thuật hoài) số 3
Văn học Việt Nam một thời được ví như con thuyền ý chí và khát vọng của người đương thời, nhất là thời kỳ hào sảng và hùng tráng của áng thi ca trung đại. Mỗi tiếng thơ của 'Thuật hoài' (Tỏ lòng - Phạm Ngũ Lão) như một bức tranh hiện lên, đưa ta đến với hình ảnh những tráng sĩ thời Lý - Trần, biểu tượng của một thời đại rực rỡ: thời đại Đông A.
Phạm Ngũ Lão, tướng tài của nhà Trần, hiểu rõ tình cảm với non sông và khao khát bảo vệ chủ quyền cho đất nước. 'Thuật hoài' ra đời như một liều thuốc tinh thần, là động viên cho quân dân trong cuộc kháng chiến chống Mông – Nguyên lần hai.
Trong hoàn cảnh đặc biệt, với bút pháp của một người tầm vóc lớn, bài thơ này ghi danh tên tác giả lên đỉnh cao vinh quang. Hai dòng thơ đầu tiên phác họa chân dung người tráng sĩ thời Trần, cầm giáo vững vàng giữ non sông, hiên ngang giữa giang sơn và thời gian dài trôi chảy.
Vận mệnh và bình yên của đất nước đặt trên đầu giáo kia, người tráng sĩ đảm đương trọng trách lớn lao, nhưng giáo đó cũng là điểm tựa vững chắc cho dân tộc. Câu thơ nhỏ gọn mang ý nghĩa lớn, không chỉ là hình ảnh một con người, mà là tầm vóc của biết bao con người thời đại, là không khí sôi sục của đất trời Đông A.
Thời đại Lý - Trần chưa từng có sự lớn lao như vậy, với sức mạnh đặc biệt: 'Tam quân tì hổ khí thôn ngưu'. Cách diễn đạt ẩn dụ, 'tam quân tì hổ' gợi lên hình ảnh đội quân sát thát của nhà Trần, với khí thế mạnh mẽ. 'Khí thôn ngưu' có thể hiểu là sức mạnh của đội quân có thể 'nuốt trôi trâu', hoặc là khí thế sôi động đến mức át cả sao ngưu, sao mai.
Nhà thơ tự hào về quân dân nhà Trần, coi họ như bản chất của thiên nhiên và vũ trụ bao la. Đó là niềm tự hào của con người sinh ra trong đất nước mạnh mẽ, đầy tự tin, khao khát giữ vững chủ quyền. Từ hình ảnh người tráng sĩ hiên ngang đến tầm vóc lớn lao của ba quân thời đại, vẻ đẹp người tráng sĩ là kết tinh của vẻ đẹp dân tộc, tôn vinh vẻ đẹp hùng sảng của tráng sĩ thời Trần.
Hai dòng thơ đầu tiên của 'Thuật hoài' không chỉ là sự hiện ngang của một anh hùng, mà là vẻ đẹp vĩ đại của dân tộc anh hùng. Phạm Ngũ Lão không chỉ làm cho ta ngắm nhìn vẻ đẹp của một anh hùng, mà còn khám phá tâm thế vững vàng, hùng chí bên trong tráng sĩ.
'Nam nhi vị liễu công danh trái, Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu'. Chí là phẩm chất quan trọng của người quân tử, là động lực để bảo vệ đất nước. Nợ công danh là nhiệm vụ của họ, nhưng không chỉ vì vậy, mà còn vì khao khát vươn lên, giữ vững chủ quyền cho dân tộc. Người tráng sĩ thời Trần không chỉ thấy thẹn vì công danh chưa trả hết, mà còn khát khao vươn tới những đỉnh cao mới.
'Thuật hoài' không chỉ là bức tranh hùng vĩ về người tráng sĩ và thời đại, mà còn là tiếng nói của tâm hồn, ý chí của Phạm Ngũ Lão và những tráng sĩ thời Trần, đầy yêu nước, rực lửa. Bài thơ này vẫn là một khúc hùng ca vĩ đại, kể về vẻ đẹp của con người và thời đại, tồn tại mãi theo dòng thời gian.
3. Phân Tích 'Tỏ Lòng' (Thuật Hoài) - Phần 2
Từ thời xa xưa, tinh thần yêu nước trong tâm hồn nhân dân ta luôn hiện hữu mạnh mẽ. Đặc biệt, trong lĩnh vực văn hóa, văn học là nơi tình yêu nước được thể hiện rõ nhất. Trong tác phẩm thơ đặc sắc 'Tỏ lòng', Phạm Ngũ Lão đã tận dụng tốt ngôn từ để kể về vẻ đẹp, tinh thần hùng hồn của nhân dân nhà Trần. Ông, một danh tướng lừng lẫy trong thời kỳ chống lại quân Nguyên - Mông, đã sáng tác bài thơ nhằm khích lệ tinh thần chiến đấu của toàn dân, đặc biệt là những người lính trên biên giới Bắc.
Nhắc đến hào khí Đông A, ta không thể không nhớ đến thời kỳ hào hùng của nhà Trần. Những anh hùng trong lịch sử 4000 năm của dân tộc đã góp phần xây dựng nên ba chiến tích lớn, làm rạng danh nước Việt. 'Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu' - câu thơ này chân dung sức mạnh của nhà Trần, sự đoàn kết và quyết tâm chiến thắng của toàn bộ dân tộc. Hình ảnh anh hùng đang hoành tráng, vững chãi cầm giáo, trấn giữ giang sơn, là biểu tượng của lòng dũng mãnh và sẵn sàng chiến đấu.
Thế nhưng, khi chúng ta chuyển dịch thành 'múa giáo', thì sự oai phong của 'hoành sóc' có phần giảm bớt. Ngày xưa, quân lính được chia thành tiểu đội tiền quân, trung quân và hậu quân. Nhưng khi nhắc đến 'ba quân', sức mạnh đoàn kết của nhà Trần hiện lên mạnh mẽ như một con hổ hay báo. Câu thơ thứ hai sử dụng so sánh để đặt lên tầm cao sức mạnh, ví như tam quân như hổ, mạnh mẽ và hùng hổ.
Điều này giúp tác giả bày tỏ tự hào về sức mạnh của nhà Trần và lòng đoàn kết của dân tộc. Câu thơ còn sử dụng phóng đại 'Khí thôn ngưu' - sức mạnh quân đội lấn át cả Sao Ngưu, thể hiện sức mạnh mạnh mẽ có thể 'nuốt trôi trâu'. Như vậy, hai câu thơ đầu tiên chân dung vẻ đẹp của anh hùng đồng thời là vẻ đẹp của thời đại hào hùng, tạo nên những nhân vật anh hùng.
'Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu'
Chí là đặc trưng của người làm trai, lập công để để lại danh tiếng cho đất nước. Một danh tướng có lòng trăn trở, canh cánh trong lòng vì chưa trả xong nghĩa vụ công danh mặc dù đã có nhiều chiến công. Điều này thể hiện tinh thần khát vọng, lí tưởng lớn lao muốn giúp đất nước trong bối cảnh tinh thần chiến đấu đang bùng nổ.
Ở câu cuối cùng của bài thơ, tác giả nói về tâm hồn của anh hùng, thể hiện sự khiêm tốn. 'Thẹn với Vũ Hầu' - Gia Cát Lượng, một nhân cách tài năng, một người có tâm. Tác giả thậm chí cảm thấy thẹn trước tài năng chiến lược của Gia Cát Lượng. Mặc dù đã có nhiều đóng góp cho đất nước, nhưng tác giả vẫn giữ thái độ khiêm tốn, thể hiện ý nguyện cháy bỏng giết giặc, đóng góp cho nước nhà.
Qua bài thơ, Phạm Ngũ Lão tạo nên hình ảnh của người anh hùng thời Bình Nguyên, với khát vọng phá cường địch để bảo vệ đất nước. Vẻ đẹp của anh hùng nằm trong vẻ đẹp của thời đại hào hùng, tạo nên hào khí Đông A. Bài thơ không chỉ là tình cảm cá nhân của tác giả mà còn là lòng tự hào về sức mạnh của nhà Trần và cả dân tộc Việt Nam.
4. Phân tích 'Tỏ lòng' (Thuật hoài) số 5
Phạm Ngũ Lão là một danh tướng đời Trần. Tuy xuất thân từ tầng lớp bình dân song chí lớn tài cao nên ông nhanh chóng trở thành tùy tướng số một bên cạnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên xâm lược, Phạm Ngũ Lão cùng những tên tuổi lớn khác của triều đình đã lập nên nhiều chiến công hiển hách, góp phần quan trọng tạo nên hào khí Đông A của thời đại đó:
Ông sáng tác không nhiều nhưng Thuật hoài là một bài thơ nổi tiếng, được lưu truyền rộng rãi vì nó bày tỏ khát vọng mãnh liệt của tuổi trẻ trong xã hội phong kiến đương thời: làm trai phải trả cho xong món nợ công danh, có nghĩa là phải thực hiện đến cùng lí tưởng trung quân, ái quốc.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
Dịch thơ tiếng Việt:
Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Bài thơ được sáng tác trong bối cảnh đặc biệt có một không hai của lịch sử nước nhà. Triều đại nhà Trần (1226 – 14001) là một triều đại lẫy lừng với bao nhiêu chiến công vinh quang, mấy lần quét sạch quân xâm lược Mông - Nguyên hung tàn ra khỏi bờ cõi, giữ vững sơn hà xã tắc, nêu cao truyền thống bất khuất của dân tộc Việt.
Phạm Ngũ Lão sinh ra và lớn lên trong thời đại ấy nên ông sớm thấm nhuần lòng yêu nước, tinh thần tự hào, tự tôn dân tộc và nhất là lí tưởng sống của đạo Nho là trung quân, ái quốc. Ông ý thức rất rõ ràng về trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước: Quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách.
Bài thơ Thuật hoài (Tỏ lòng) được làm bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn tứ tuyệt luật Đường, niêm luật chặt chẽ, ý tứ hàm súc, hình tượng kì vĩ, âm điệu hào hùng, sảng khoái. Hai câu thơ đầu khắc họa vẻ đẹp gân guốc, lẫm liệt, tràn đầy sức sống của những trang nam nhi - chiến binh quả cảm đang xả thân vì nước, qua đó thể hiện hào khí Đông A ngút trời của quân đội nhà Trần thời ấy.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu (Dịch nghĩa: cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu); dịch thơ: Múa giáo non sông trải mấy thu. So với nguyên văn chữ Hán thì câu thơ dịch chưa lột tả được hết chất oai phong, kiêu hùng trong tư thế của người lính đang chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Hoành sóc là cầm ngang ngọn giáo, luôn ở tư thế tấn công dũng mãnh, áp đảo quân thù. Tư thế của những người chính nghĩa lồng lộng in hình trong không gian rộng lớn là giang sơn đất nước trong suốt, một thời gian dài (giang sơn kháp kỉ thu).
Có thể nói đây là hình tượng chủ đạo, tượng trưng cho dân tộc Việt quật cường, không một kẻ thù nào khuất phục được. Từ hình tượng ấy, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước ngời tỏa sáng. Câu thơ thứ hai: Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu. (Dịch nghĩa: khí thế của ba quân mạnh như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời). Dịch thơ: Ba quân hùng khí át sao Ngưu, đặc tả khí thế chiến đấu và chiến thắng không gì ngăn cản nổi của quân dân ta. Tam quân tì hổ là một ẩn dụ so sánh nghệ thuật nêu bật sức mạnh vô địch của quân ta. Khí thôn Ngưu là cách nói thậm xưng để tạo nên một hình tượng thơ kì vĩ mang tầm vũ trụ.
Hai câu tứ tuyệt chỉ mười bốn chữ ngắn gọn, cô đúc nhưng đã tạc vào thời gian một bức tượng đài tuyệt đẹp về người lính quả cảm trong đạo quân Sát Thát nổi tiếng đời Trần. Là một thành viên của đạo quân anh hùng ấy, Phạm Ngũ Lão từ một chiến binh dày dạn đã trở thành một danh tướng khi tuổi còn rất trẻ. Trong con người ông luôn sôi sục khát vọng công danh của đấng nam nhi thời loạn.
Mặt tích cực của khát vọng công danh áy chính là ý muốn được chiến đấu, cống hiến đời mình cho vua, cho nước. Như bao kẻ sĩ cùng thời, Phạm Ngũ Lão tôn thờ lí tưởng trung quân, ái quốc và quan niệm: Làm trai đứng ở trong trời đất, phải có danh gì với núi sông (Chí làm trai - Nguyễn Công Trứ). Bởi thế cho nên khi chưa trả hết nợ công danh thì tự lấy làm hổ thẹn:
"Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu
(Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu).
Vũ Hầu tức Khổng Minh, một quân sư tài ba của Lưu Bị thời Tam Quốc. Nhờ mưu trí cao, Khổng Minh đã lập được công lớn, nhiều phen làm cho đôi phương khốn đốn; vì thế ông rất được Lưu Bị tin yêu.
Lấy gương sáng trong lịch sừ cổ kim soi mình vào đó mà so sánh, phấn đấu vươn lên cho bằng người, đó là lòng tự ái, lòng tự trọng đáng quý cần phải có ở một đấng nam nhi. Là một tùy tướng thân cận của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quôc Tuấn, Phạm Ngũ Lão luôn sát cánh bên cạnh chủ tướng, chấp nhận xông pha nơi làn tên mũi đạn, làm gương cho ba quân tướng sĩ, dồn hết tài năng, tâm huyết để tìm ra cách đánh thần kì nhất nhằm quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi.
Suy nghĩ của Phạm Ngũ Lão rất cụ thể và thiết thực; một ngày còn bóng quân thù là nợ công danh của tuổi trẻ với giang sơn xã tắc vẫn còn vương, chưa trả hết. Mà như vậy là phận sự với vua, với nước chưa tròn, khát vọng công danh chưa thỏa. Cách nghĩ, cách sống của Phạm Ngũ Lão rất tích cực, tiến bộ. ông muốn sống xứng đáng với thời đại anh hùng. Hai câu thơ sau âm hưởng khác hẳn hai câu thơ trước. Cảm xúc hào sảng ban đầu dần chuyển sang trữ tình, sâu lắng, như lời mình nói với mình cho nên âm hưởng trở nên thâm trầm, da diết.
Phạm Ngũ Lão là một võ tướng tài ba nhưng lại có một trái tim nhạy cảm của một thi nhân. Thuật hoài là bài thơ trữ tình bày tỏ được hùng tâm tráng trí và hoài bão lớn lao của tuổi trẻ đương thời. Bài thơ có tác dụng giáo dục rất sâu sắc về nhân sinh quan và lối sống tích cực đối với thanh niên mọi thời đại Thuật hoài đã làm vinh danh vị tướng trẻ văn võ song toàn Phạm Ngũ Lão.
5. Phân tích 'Tỏ lòng' (Thuật hoài) số 4
Phạm Ngũ Lão, nhân vật tài năng và yêu nước, là tướng tài với tâm hồn văn chương. Tác phẩm nổi bật nhất của ông, bài thơ Tỏ Lòng, hiện thực hóa tư duy và lòng yêu nước, tái hiện hào khí Đông A thời đại.
Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Bức tranh về những tráng sĩ đời Trần hiên ngang, dũng mãnh 'cầm ngang ngọn giáo', tư thế chủ động khác biệt với 'múa giáo' biểu diễn. Không gian rộng lớn của giang sơn làm nhân vật trữ tình hiện lên với tầm vóc lớn lao, ôm trọn non sông đất nước, tinh thần sẵn sàng chiến đấu bảo vệ biên cương.
Câu thơ thứ hai tái hiện sức mạnh của quân đội nhà Trần bằng các hình ảnh 'tam quân', 'tì hổ', 'khí thôn ngưu', khẳng định vẻ đẹp sức mạnh độc đáo. Hai câu thơ cuối chuyển sang tâm trạng suy tư:
Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
Với lòng khiêm tốn, nhân vật trữ tình nhận thức về nghĩa vụ của mình làm 'nam nhi', phải lập công danh, đóng góp cho đất nước. Hổ thẹn trước Vũ Hầu, thể hiện sự khiêm nhường và tinh thần nghiêm túc của nhân vật.
Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, hàm súc, cô đọng 'ý tại ngôn ngoại'. Hình ảnh so sánh được chọn lọc kỹ càng, giúp biểu đạt tư tưởng tình cảm. Tác phẩm là bức tranh hào hùng thời đại nhà Trần, tự hào về con người và thời kỳ đó.
Bài thơ là tâm sự, bày tỏ lý tưởng, hoài bão của một vị tướng nhà Trần tài giỏi và khiêm nhường. Hiển thị vẻ đẹp tinh thần của Phạm Ngũ Lão và sức mạnh oai hùng của quân đội nhà Trần.
7. Phân tích tác phẩm 'Tỏ lòng' (Thuật hoài) số 7
Phạm Ngũ Lão, chiến tướng vĩ đại trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông, không chỉ là võ tướng xuất sắc mà còn là nhà văn võ kiêm thơ sáng tác. 'Tỏ lòng' (Thuật hoài) là một trong hai bài thơ hiếm hoi của ông, thể hiện hào khí và tư tưởng lớn lao của người anh hùng thời Trần.
Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, biểu đạt sức mạnh và vẻ đẹp của quân đội nhà Trần. Hình ảnh người anh hùng 'hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu' thể hiện tư thế anh hùng, kiêu hùng giữa giang sơn bao la, thời gian vô tận.
Câu thơ thứ hai tả lại sức mạnh của quân đội nhà Trần với các hình ảnh sống động như 'tam quân', 'tì hổ', 'khí thôn ngưu'. Bản dịch thơ cân đối, giữ được hào sảng và nghệ thuật ngôn từ.
Nhân vật Phạm Ngũ Lão, mặc dù đã có nhiều đóng góp lớn cho đất nước, nhưng vẫn khiêm tốn và tự thức với lời tâm sự về 'nam nhi vị liễu công danh trái'. Khát vọng làm trai, đóng góp cho nhân gian, cảm nhận sự hiểu biết sâu sắc về tình cảm nam tử và nghĩa vụ đối với đời.
Bài thơ 'Tỏ lòng' không chỉ là tác phẩm văn chương mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước và trách nhiệm cao cả của một tướng lĩnh.
6. Phân tích tác phẩm 'Tỏ lòng' (Thuật hoài) số 7
Phạm Ngũ Lão (1255-1320), quê ở làng Phù Ủng, huyện Đường Hào nay là huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên. Là người có đóng góp to lớn trong cả hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm lược, là phụ tá đắc lực dưới trướng của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, được Trần Quốc Tuấn yêu mến và gả con gái nuôi cho. Tuy là người theo nghiệp nhà binh thế nhưng Phạm Ngũ Lão cũng lại là người rất mê thơ văn, ca từ thi phú, có nhiều am hiểu sâu sắc về lĩnh vực này, chính vì thế ông thường được người đời ca tụng là vị tướng văn võ toàn tài.
Phạm Ngũ Lão có nhiều tác phẩm hay, tuy nhiên do sự biến đổi của lịch sử mà bị thất lạc gần hết, nay chỉ còn lại Tỏ lòng (Thuật Hoài) và Viếng Thượng tướng Quốc công Hưng Đạo Đại Vương. Trong đó Tỏ lòng là bài thơ khá nổi tiếng, nằm trong quy phạm chung nhất “Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí”, thể hiện được khí phách nam nhi trong đất trời, đặc biệt là trước viễn cảnh đất nước lâm nguy, để lại bài học sâu sắc cho các thế hệ muôn đời sau.
Tỏ lòng được viết vào khoảng năm 1284, ngay trước khi cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên lần thứ hai diễn ra, trong bối cảnh Phạm Ngũ Lão và một số vị tướng tài khác được triều đình cử đi canh giữ biên giới phía Bắc, đề phòng sự tấn công bất ngờ của quân địch.
Bài thơ chỉ vỏn vẹn 4 câu thơ 7 chữ, trong đó ở hai câu thơ đầu tiên tác giả đã tái hiện lại một cách ngắn gọn và đầy đủ hình ảnh và hào khí của con người cũng như quân đội thời Trần với những thủ pháp nghệ thuật ẩn dụ đặc sắc.
“Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu”
Dịch nghĩa:
“Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu
Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng nuốt trôi trâu”
Thứ nhất nói về hình ảnh con người thời Trần, tác giả đã gợi mở ra một bối cảnh không gian và thời gian rộng lớn, đồng thời dưới triều Trần, một triều đại có nhiều biến động, liên tục phải đối mặt những đội quân hùng mạnh nhất thế giới thời bấy giờ, càng làm cho vẻ đẹp của con người thêm đặc sắc và rõ nét hơn cả. Phạm Ngũ Lão lấy hai chữ “giang sơn” để mở ra không gian địa lý của đất nước, đây là một từ ghép rất hay, “giang” tức chỉ sông cũng tượng trưng cho đất, “sơn” tức chỉ núi cũng tượng trưng cho trời, như vậy ghép lại có nghĩa là sông núi.
Có thể nói rằng hai từ này hoàn toàn bao quát được viễn cảnh đất nước ta, một đất nước nhiều sông, cũng lắm núi non, tạo nên một khung cảnh rộng lớn, bao la và tươi đẹp bởi sự dung hòa giữa hai yếu tố trời đất. Bên cạnh yếu tố không gian, thì yếu tố thời gian cũng được tác giả vạch ra thông qua ba từ “kháp kỷ thu”, tức là đã mấy thu, thể hiện một quãng thời gian dài, rộng, ẩn dụ về bề dày lịch sử của dân tộc, của đất nước.
Trên cái nền không gian và thời gian bao la, dài rộng như thế hình tượng con người Đại Việt đã hiện lên một cách nổi bật và hiên ngang với khí thế mạnh mẽ trong hai từ “hoành sóc”, “hoành” trong tung hoành còn sóc tức là ngọn giáo dài, vốn là loại vũ khí kinh điển trong các cuộc chiến của quân đội. Tổng ý cả câu thì Phạm Ngũ Lão muốn gợi ra hình ảnh người dân Đại Việt đã cầm ngang ngọn giáo canh giữ non sông trải qua mấy mùa thu, đã trở thành truyền thống, là hình ảnh có ý nghĩa biểu tượng cho vẻ đẹp của con người thời Trần.
Hình tượng con người cầm ngang ngọn giáo, cho ta thấy được những phẩm chất quý giá, sự kiên cường, bền bỉ, anh dũng trong chiến đấu. Tầm vóc của nhân dân cũng trở nên vĩ đại, sánh ngang với trời đất, trong khí thế mạnh mẽ, sẵn sàng tung hoành ngang dọc, diệt quân thù bằng ngọn giáo cầm chắc trong tay. Đặc biệt trong bối cảnh đất nước đứng trước sự xâm phạm của giặc thù, Phạm Ngũ Lão lại được điều đi nhận mệnh trấn giữ biên cương, thì hình tượng người anh hùng cầm ngang ngọn giáo canh giữ cho đất nước lại càng trở nên oai hùng và hợp với mạch cảm xúc trong thơ.
Trong bản dịch của Bùi Văn Nguyên câu “Múa giáo non sông trải mấy thu”, đọc rất thuận miệng, thế nhưng đáng tiếc từ “múa giáo” lại chỉ đem đến cái “mỹ” mà không hoàn toàn lột tả được tính kiêu hùng trong hai từ “hoành sóc”, thành thử làm cho câu thơ mất đi cái ấn tượng về tầm vóc kỳ vĩ, bao trọn cả non sông của con người.
Sánh với hình tượng con người, thì hình tượng quân đội thời Trần cũng hiện lên với những hình ảnh ẩn dụ, so sánh đẹp và đầy hào khí trong câu thừa đề. Phạm Ngũ Lão dùng từ “Tam quân” tức là chỉ ba đạo quân chính thống trong tổ chức quân sự của ta, bao gồm tiền quân, trung quân và hậu quân, hoặc nếu chia theo 3 cánh quân thì có tả quân, trung quân và hữu quân.
Hình ảnh tập hợp này nhằm mục đích gợi ra sự đoàn kết một lòng của quân đội ta trong chiến đấu, đồng thời cũng chỉ sự hùng mạnh, khí thế chiến đấu sôi nổi và sự chuẩn bị sẵn sàng cho công cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta. Cả câu “Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu” nhằm nhấn mạnh, sự uy vũ, hùng mạnh của quân đội thời Trần, trong đó ta có thể diễn giải theo hai ý.
Một là ba quân có sức mạnh tựa như hổ, báo mạnh mẽ nuốt trôi con trâu lớn, hai là sức mạnh của quân đội thời Trần mang tầm vóc kỳ vĩ lấn át cả ngôi sao Ngưu trên trời cao - Ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Thiên Ưng. Với cách hiểu thứ hai, ta có thể nhận thấy một niềm cảm hứng lãng mạn hiếm thấy trong thi ca trung đại đến từ một võ tướng, không chỉ đem đến sự uyển chuyển trong thi ca, mà còn góp phần nâng đỡ vẻ đẹp hào khí của quân đội nhà Trần với cái tên gọi kinh điển “hào khí Đông A”.
Sau hai câu đề dùng nói về hào khí và vẻ đẹp chung của cả dân tộc thì đến hai câu chuyển và hợp tác giả chuyển sang bày tỏ nỗi lòng, tâm tư nguyện vọng của mình, đồng thời đây cũng chính là nội dung mà tác giả muốn mở ra trong bài, tập trung khai thác về chí nam nhi, về món nợ sông núi mà bản thân đang còn mang nặng, thể hiện những vẻ đẹp cao quý trong tâm hồn của Phạm Ngũ Lão.
“Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”
Dịch nghĩa:
Thân nam nhi mà chưa trả xong nợ công danh
Thì luống thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu”
Như vậy với hai câu thơ này ta có thể nhận rõ quan điểm “nhập thế tích cực” của Phạm Ngũ Lão, rằng phận nam nhi sinh ra đã mang trên mình món nợ công danh, và phải luôn nỗ lực cố gắng hết sức dùng tài trí của mình để đóng góp, xây dựng đất nước, trả cho kỳ được món nợ công danh. Trong đó một trong những biểu hiện rõ nhất của quan niệm này đó là việc ứng thí khoa cử của hàng vạn sĩ tử mỗi năm, trong đó điển hình chúng ta vẫn thường nghe nhắc tới Trần Tế Xương với 8 lần theo đuổi khoa cử, thất bại mà không hề nản chí.
Phạm Ngũ Lão chính là một trong số những người chịu ảnh hưởng sâu sắc của quan niệm nhập thế tích cực, mặc dù ông không ra kinh ứng thí, thế nhưng ông đã chọn một cách trả nợ công danh khác đó là theo đuổi con đường tòng quân, góp sức đánh đuổi giặc ngoại xâm, làm nên công trạng cho xứng với thân nam nhi. Có thể nói rằng quan điểm “nợ công danh” đã đem đến cho con người dưới các triều đại phong kiến trong lịch sử một mục đích sống, lý tưởng sống cao đẹp và đáng quý, hình thành trong con người tư thái và bản lĩnh biết phấn đấu làm nên công danh sự nghiệp và quan trọng nhất là góp phần xây dựng, phát triển đất nước ngày một vững mạnh trở thành rường cột của quốc gia.
Thế nhưng vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão không chỉ dừng lại ở chí làm trai hay món nợ công danh thông thường, mà nó còn được phát triển lên một tầm cao mới thông qua nỗi thẹn của ông khi nghe chuyện Vũ hầu. Phạm Ngũ Lão, nếu xét thấy thì cũng là người có công danh đề huề, coi như đã trả được món nợ công danh, thế nhưng khi đứng trước chuyện của Vũ hầu - Gia Cát Lượng, thì lại lấy làm xấu hổ bởi bản thân mình không thể đạt tới trình độ như tiền nhân, người đã một giúp Lưu Bị tranh đoạt giang sơn trong bối cảnh tam quốc.
Tác giả tự thấy rằng chút công danh cỏn con của mình cũng chẳng thể sánh vào đâu so với cổ nhân, tự lấy thế làm thẹn, đồng thời cũng tự dặn lòng phải phấn đấu nhiều hơn nữa để trả cho đủ món nợ của nam nhi. Từ đó có thể thấy vẻ đẹp tâm hồn của Phạm Ngũ Lão hiện lên với hai nét chính ấy là ý chí, nỗ lực, mong muốn được đóng góp công sức xây dựng giang sơn, lập công danh sự nghiệp hiển hách và lý tưởng, khát khao trở thành một nhân vật lịch sự lỗi lạc tựa Gia Cát, lưu danh sử sách muôn đời.
Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão là một bài thơ tuy ngắn gọn nhưng lại mang nhiều ý nghĩa sâu sắc, trước hết là ca ngợi vẻ đẹp của con người và quân đội thời Trần, sau đó là khai mở ra bài học về món nợ công danh cho nam nhi khắp thiên hạ, đồng thời cũng thể hiện khát khao, lý tưởng và nhân cách cao đẹp của một nhà nho, nhà quân sự trên bước đường công danh, sao cho xứng với Tổ quốc dân tộc.
8. Phân Tích 'Tỏ Lòng' (Thuật Hoài) Số 9
Thuật hoài, một tác phẩm lừng danh của danh tướng thời Trần - Phạm Ngũ Lão. Dù thuộc thể loại thơ trữ tình, nhưng từng từ ngữ tỏa sáng vẻ hào khí Đông A ngút trời của thời kỳ đó.
Phạm Ngũ Lão (1255-1320), danh tướng kiệt xuất, sống trong thời kỳ Trần, ghi dấu ấn với những chiến công hiển hách chống giặc Mông - Nguyên. Thuật hoài, bức tranh nghệ thuật chia thành hai phần rõ ràng: mở đầu là hình ảnh quân đội và con người thời Trần, sau đó là tâm tư, lòng trí của tác giả.
Bài thơ khai mạc với hình ảnh lộng lẫy của quân đội và con người thời Trần, sảng khoái, hùng tráng qua những câu thơ:
Hoành sóc giang san kháp kỉ thu
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu
Hình ảnh những người lính hùng mạnh, dũng cảm, sẵn sàng hy sinh vì đất nước hiện lên rõ ràng. Điều này là biểu tượng cho lòng yêu nước, sự không khuất phục của dân tộc Việt, ánh hào quang của chủ nghĩa yêu nước, yêu chính nghĩa. Câu thứ hai, 'Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu', thể hiện sức mạnh vượt trội của ba quân như hổ báo, át cả sao Ngưu trên trời.
Bài thơ không chỉ lưu lại hình ảnh mạnh mẽ mà còn chứa đựng nỗi lòng, khát vọng công danh của tác giả:
'Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu'
Là câu kết thúc, thể hiện lòng hổ thẹn khi chưa thể hoàn thành sứ mệnh lớn. Vũ Hầu, biểu tượng cho trí tuệ và tài năng, là nguồn động viên cho nam nhi phấn đấu, cống hiến cho đất nước, giữ vững non sông gấm vóc cha ông để lại.
Thuật hoài, không chỉ là minh chứng cho chiến công anh hùng mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước, tinh thần kiên trung. Phạm Ngũ Lão, người vừa là danh tướng bách chiến bách thắng vừa là thi sĩ nhạy bén, đã để lại dấu ấn mãi mãi trong lòng người Việt.
9. Tường thuật về tác phẩm 'Dấu hiệu của Tình Yêu' (Nỗi buồn vô tận) số 8
Phạm Ngũ Lão (1255-1320), một danh tướng xuất sắc dưới thời Trần, đã đóng góp to lớn trong cuộc chiến chống quân Mông-Nguyên. Ông từng giữ chức Điện súy, phong tước quan nội hầu, xếp sau Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn - tướng vĩ đại nhất lịch sử nước ta. Mặc dù là người quân sự, Phạm Ngũ Lão rất đam mê thơ ca và được khen là văn võ toàn tài.
Ông sáng tác nhiều bài thơ hay, nhưng chỉ còn Tỏ lòng và Viếng thượng tướng quốc công Hưng Đạo Đại Vương được lưu truyền. Tỏ lòng là bài thơ tiêu biểu thể hiện tính chất giáo dục của văn học trung đại - lời giáo huấn về chí nam nhi thời Trần.
Ngày sáng tác có lẽ vào 1284, trước cuộc chiến chống quân Mông-Nguyên lần thứ hai. Phạm Ngũ Lão cùng các tướng lĩnh chuẩn bị cho chiến sự. Bài thơ mô tả vẻ đẹp của con người và quân đội thời Trần.
“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu.”
Khéo léo xây dựng không gian và thời gian đặc biệt, Tỏ lòng là tác phẩm giữa bão táp mưa sa thời Trần. Bối cảnh giang sơn rộng lớn là không gian của quốc gia, dân tộc. Thời gian kháp kỷ thu là thời gian lâu dài, có lịch sử bền vững. Thân hình người hiên ngang, hùng tráng cầm ngang ngọn giáo, tượng trưng cho kiên cường, bền bỉ, anh dũng của những chiến sĩ dưới thời Trần.
Chữ “tam quân” là ba quân, biểu tượng cho sức mạnh và đoàn kết của quân đội. Phạm Ngũ Lão muốn diễn đạt lòng dũng cảm, đồng lòng chống giặc. Thơ cũng ca ngợi sức mạnh của quân đội thời Trần qua so sánh “Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu” - sức mạnh vượt cả nguyên tắc tự nhiên.
Chuyển và hợp giúp làm rõ ý đồ của bài thơ. Phạm Ngũ Lão thể hiện lòng nỗ lực, lý tưởng làm trai và món nợ công danh. Ông thấy nhỏ bé trước nhân vật lịch sử lỗi lạc như Gia Cát Lượng, nhưng vẫn kiên trì trả món nợ vì Tổ quốc.
Thuật hoài không chỉ mô tả hào khí anh hùng, mà còn tôn vinh tâm hồn lớn lao, thượng đại của Phạm Ngũ Lão. Thẹn trước tình cảm của ông khi nghe về Vũ Hầu, ông thấu hiểu món nợ công danh vẫn còn phải trả, và ông cam kết làm trai đúng chí, đúng lời giáo huấn của thời Trần.
10. Phân tích tác phẩm 'Tỏ lòng' (Thuật hoài) số 10
Phạm Ngũ Lão, danh tướng thời nhà Trần, để lại dấu ấn riêng qua tác phẩm 'Thuật hoài' - bức tranh tình yêu nước và lòng cống hiến. Bài thơ ngắn gọn nhưng sâu sắc, khắc họa hình ảnh quân đội mạnh mẽ, tráng sĩ oai hùng trên con đường chống giặc:
'Múa giáo non sông trải mấy thu
Ba quân khí mạng nuốt trôi trâu'
Người tráng sĩ hiên ngang giữa giang sơn, tư thế oai phong, sẵn sàng chiến đấu. Tam quân hùng hậu, khí thế hào hùng như hổ báo nuốt trôi trâu, tạo nên bức tranh khí thế Đông A.
Phạm Ngũ Lão còn nói về nỗi lòng cống hiến, khát khao trả nợ công danh cho đất nước:
'Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu'
Con đường công danh là món nợ lớn với đất nước, là ý trí và tài năng của người nam tử. Bài thơ thể hiện trí khí anh hùng của danh tướng, luôn khao khát cống hiến hết mình cho nước như Gia Cát Lượng.
Chỉ với bốn câu thơ, Phạm Ngũ Lão đã khắc họa nên thời hào hùng, tình yêu nước và lòng cống hiến sâu sắc. Bức tranh tưởng như xa xôi, nhưng vẫn toả sáng trong lòng người đọc ngày nay.