1. Phân tích bài 'Tinh thần yêu nước của nhân dân ta' số 1
Bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta là một bản nghị luận xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được trình bày tại Đại hội lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam năm 1951. Trong bài văn, Chủ tịch Hồ Chí Minh tôn vinh lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam, đặc biệt là trong bối cảnh kháng chiến chống thực dân Pháp. Với lối diễn đạt sắc sảo, ông đã thức tỉnh tinh thần yêu nước, khuyến khích nhân dân đoàn kết và đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia.
Trích đoạn này không chỉ là một phần trong bài văn mà còn là biểu tượng của lòng yêu nước sâu sắc. Ông miêu tả những biểu hiện cụ thể của tinh thần yêu nước trong lịch sử, từ những trận chiến vĩ đại đến những hành động thiết thực của những người dân. Bài văn khơi gợi niềm tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc, đồng thời kêu gọi mọi người tiếp tục giữ gìn và phát huy tinh thần này trong cuộc sống hàng ngày.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc khích lệ tinh thần yêu nước. Ông thể hiện sự tin tưởng rằng, với lòng yêu nước bền vững, nhân dân Việt Nam sẽ vượt qua mọi khó khăn, đánh bại thực dân, góp phần xây dựng đất nước tự do, hạnh phúc.
Bài văn không chỉ là một di sản lịch sử, mà còn là nguồn động viên, định hình ý chí của thế hệ người Việt hiện nay. Tinh thần yêu nước là nguồn động viên mãnh liệt, là nền tảng vững chắc cho sự phồn thịnh của đất nước. Bài văn của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa, là nguồn cảm hứng không ngừng cho việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


2. Bài văn phân tích bài 'Tinh thần yêu nước của nhân dân ta' số 3
Văn nghị luận được viết ra với mục đích quan trọng: xác lập tư tưởng, quan điểm cho người đọc. Văn bản cần có luận điểm rõ ràng, lập luận logic và dẫn chứng thuyết phục. Trong bài nghị luận 'Tinh thần yêu nước của nhân dân ta' (Hồ Chí Minh) được đánh giá cao, là một mẫu mực chứng minh tiêu biểu, mẫu mực nhất. Văn bản này đã làm sáng tỏ một chân lí quan trọng: Tình thần yêu nước là truyền thống quý báu của nhân dân Việt Nam. Đó là một sức mạnh lớn giúp nhân dân ta chiến thắng bất kỳ thách thức ngoại xâm nào.
Bài viết phân tích chi tiết bài nghị luận này, từ cấu trúc đến nội dung. Điểm mở đầu đã đặt vấn đề nghị luận một cách rõ ràng: 'Tinh thần yêu nước là một truyền thống quý báu của nhân dân ta'. Phần thân bài chứng minh tinh thần yêu nước qua lịch sử chống ngoại xâm và trong kháng chiến chống thực dân Pháp. Cuối cùng, phần kết luận nhấn mạnh nhiệm vụ của Đảng trong việc phát huy tinh thần yêu nước của nhân dân.
Bài viết không chỉ chứa đựng những lập luận mạch lạc mà còn sử dụng những ví dụ và dẫn chứng cụ thể từ lịch sử và hiện tại. Bác Hồ đã kết hợp sự rành mạch trong lập luận với ngôn từ sâu sắc, biểu cảm, làm cho bài viết trở nên hấp dẫn và thuyết phục.
Đối chiếu với chuẩn mực của một bài nghị luận, bài viết này chứng tỏ sự rành mạch và chặt chẽ trong cấu trúc. Từ mở đầu đến thân bài, từ thân bài đến kết luận, mỗi phần được kết nối tự nhiên và gắn bó chặt chẽ với chủ đề. Bác Hồ không chỉ là một lãnh tụ xuất sắc mà còn là một nhà văn tài ba, biểu cảm qua cách diễn đạt lập luận và sử dụng ngôn từ.
Bài viết không chỉ là một tư liệu giáo dục về lịch sử và tâm hồn dân tộc mà còn là một kiệt tác nghệ thuật văn chương. Hồ Chí Minh không chỉ là người lãnh đạo xuất sắc mà còn là nhà văn vĩ đại, để lại những dấu ấn sâu sắc trong văn văn hóa Việt Nam.


3. Phân tích 'Tinh thần yêu nước của nhân dân ta' số 2
Nhân dân ta không chỉ giàu về tình nghĩa, truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo,… mà còn có lòng yêu nước nồng nàn, cháy bỏng. Lòng yêu nước trở thành một truyền thống đẹp đẽ, quý báu của nhân dân ta, nó được phát huy và thể hiện mạnh mẽ mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng. Truyền thống quý báu đó được thể hiện rõ nhất qua đoạn trích: “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bài văn được trích trong Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm 1951 của Đảng Lao động Việt Nam. Bài văn có thể coi là một mẫu mực về lập luận, bố cục và cách dẫn chứng của thể văn nghị luận. Trước hết về nội dung, văn bản nêu lên luận đề cơ bản: “Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta”. Mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần ấy được phát huy một cách mạnh mẽ. Trong câu văn tiếp theo tác giả đã sử dụng động từ với hình thức tăng tiến: lướt qua, nhấn chìm cùng với đó là hình ảnh so sánh tinh thần yêu nước như một làn sóng mạnh mẽ, đã cho thấy rõ lòng yêu nước nồng nàn của nhân dân ta. Để làm sáng tỏ chân lí đó tác giả đã chứng minh nó ở hai thời điểm: quá khứ và hiện tại.
Bề dày lịch sử truyền thống yêu nước của nhân dân ta đã được tác giả đưa ra dẫn chứng cụ thể ở các thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung,… đây là những vị anh hùng của dân tộc. Lấy những dẫn chứng hết sức tiêu biểu, mỗi nhân vật lịch sử gắn liền với một chiến công hiển hách, vang dội đã làm cho người đọc thấy rõ tinh thần yêu nước của tổ tiên, ông cha. Không dừng lại ở đó, để mở rộng luận điểm, làm người đọc tin và bị thuyết phục hơn nữa, tác giả tiếp tục lấy dẫn chứng đến thời điểm hiện tại.
Ở đoạn thứ ba Hồ Chí Minh tập trung chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược bằng hàng loạt các dẫn chứng. Sau câu chuyển đoạn “Đồng bào ta ngày nay cũng rất xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước” Hồ Chí Minh đã khái quát lòng yêu nước ghét giặc của nhân dân: “Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng bị tạm chiếm, từ nhân dân miền ngược đến nhân dân miền xuôi, ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc”.
Tiếp đó bằng hình thức liệt kê, kết hợp với mô hình liên kết từ …đến Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy rõ lòng yêu nước của mọi tầng lớp, lứa tuổi, giai cấp,… Những dẫn chứng đó vừa cụ thể vừa toàn diện, thể hiện sự cảm phục, ngưỡng mộ tinh thần yêu nước của đồng bào ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
Phần cuối văn bản là lời khẳng định tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý, chúng có thể rõ ràng dễ thấy nhưng cũng có khi được “cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm”. Lần đầu tiên, một thứ vô hình là lòng yêu nước lại được Bác cụ thể hóa, hữu hình hóa một cách vừa giản dị vừa cao quý đến như vậy. Qua lời của Bác, lòng yêu nước không phải những điều lớn lao, xa vời mà nó giản dị, ở ngay xung quanh ta. Nhiệm vụ của ta lại phải phát huy lòng yêu nước đó thành những hành động, việc làm cụ thể trong công việc kháng chiến, công việc yêu nước.
Về nghệ thuật, bài văn có bố cục chặt chẽ, gồm ba phần (phần một nêu lên vấn đề nghị luận “tinh thần yêu nước của nhân dân ta”; phần hai chứng minh tinh thần yêu nước trong quá khứ và hiện tại; phần ba nhiệm vụ của Đảng trong việc phát huy tinh thần yêu nước). Lập luận mạch lạc, rõ ràng, lí lẽ thống nhất với dẫn chứng. Dẫn chứng phong phú, cụ thể, được diễn đạt bằng những hình ảnh so sánh cụ thể, sinh động.
Bài văn đã làm sáng tỏ chân lí muôn đời của cha ông ta đó là truyền thống yêu nước nồng nàn, sẵn sàng đấu tranh và hi sinh để giành tự do, độc lập cho dân tộc. Truyền thống đẹp đẽ đó cần phải được phát huy mạnh mẽ vào công cuộc kháng chiến của toàn dân tộc.


4. Phân tích 'Tinh thần yêu nước của nhân dân ta' số 5
Trong báo cáo chính trị của đại hội Đảng lần thứ 2 tổ chức tại chiến khu Việt Bắc tháng 2/1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bản báo cáo chính trị. Tác phẩm “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” là một phần trích đoạn trong bài cáo ấy để làm sáng tỏ tinh thần “trung với nước, hiếu với dân” của Đảng toàn dân ta.
Tuy chỉ là một đoạn trích nhưng áng văn vẫn đầy đủ ba phần và các yếu tố cần thiết của bài văn nghị luận chứng minh. Mở đầu từ “Dân ta” đến “lũ cướp nước”, Hồ Chí Minh nêu rõ vấn đề cần chứng minh “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước” và đó chính là một trong những truyền thống quý báu của dân ta. Truyền thống ấy có sức mạnh vô biên “vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Bác dùng những lập luận đanh thép để giúp người đọc tập trung vào vấn đề một cách nhanh chóng, xúc tích nhưng vẫn rất đỗi thuyết phục. Người sử dụng một loạt những so sánh khi tổ quốc bị xâm lăng, tất cả nhân dân không phân biệt già trẻ gái trai đều hừng hực khí tế đánh đuổi giặc ngoại xâm. Những từ ngữ như “lướt qua”, “nhấn chìm tất cả” là minh chứng hùng hồn cho nguồn sức mạnh ấy.
Lời văn của bác cuốn hút người đọc, người nghe vào dòng chảy tinh thần mạnh mẽ đó. Người vừa viết vừa ca ngợi truyền thống quý báu của dân tộc, vừa giúp người đọc hiểu được nguồn gốc giúp dân tộc ta có thể đánh đổi giặc ngoại xâm mà không hề có chút cảm giác khoa trương. Tiếp nối tinh thần ấy, phần thân bài bắt đầu từ “Lịch sử ta” đến “lòng nồng nàn yêu nước”, tác giả đưa ra những chứng cứ lịch sử thực tế để chứng minh cho luận đề. Từ bao đời nay, từ thời các anh hùng dân tộc như Bà Trưng, Ngô quyền, Trần Hưng Đạo,… đã không quản thân mình xả thân vì giặc thù. Tác giả bày tỏ niềm biết ơn, trân trọng những công lao to lớn ấy “Chúng ta có quyền tự hào.. chúng ta phải ghi nhớ… một dân tộc anh hùng”. Bác nhắc nhở thế hệ con cháu mai sau, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được phép những công lao to lớn ấy. Trải qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, những lớp người đi trước luôn cố gắng không ngừng để xây dựng phát triển đất nước.
Đó là những kim chỉ nan soi đường chỉ lỗi, truyền lại trong tim mỗi người dân Việt Nam luôn phải ý thức được tinh thần yêu nước - giữ nước. Lòng yêu nước cần phải được thể hiện bằng những hành động, lời nói cụ thể, chẳng hạn như: “Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng tạm bị chiếm….” đã là người dân sinh sống trên dải đất hình chữ S, là con cháu của con rồng cháu tiền đều phải có trách nhiệm, nghĩa vụ yêu thương và bảo vệ đất nước.
Trong những dẫn chứng ấy, Bác không quên đến những tấm gương tiêu biểu của các anh chiến sĩ ngày đêm bám sát, băng qua mưa bom bão đạn để tiêu diệt giặc, đến những người phụ nữ ở nhà lam lũ nuôi con chăm mẹ già để cho chồng yên tâm công tác ngoài chiến trường, cho đến những người mẹ già có đến dăm bảy người con tham gia mặt trận chiến đấu. Từ những nam nữ công nhân, nông dân tham gia tăng gia sản xuất phục vụ kháng chiến,… Đó là những hành động cao quý để thể hiện tinh thần yêu nước, vì nước mà quên mình phục vụ.
Phần kết thúc của tác phẩm, Hồ Chí Minh dùng những lời lý lẽ sắc bén để nhấn mạnh luận đề. Không một chút khô khan, cứng nhắc, Bác vô cùng khéo léo lồng ghép một khái niệm trừu tượng về lòng yêu nước với hình ảnh cụ thể. “Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tỷ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có khi cất giấu kín đáo trong rương….” Có khi thế này, có khi thế kia, lòng yêu nước được thể hiện qua muôn hình vạn trạng, kiểu cách, nhưng tóm gọn lại chỉ cần trong tim của ta luôn có hình bóng của đất nước, luôn dốc hết sức vì sự phát triển của dân tộc thì đó đều đáng quý. Và để hoàn thiện tốt “lòng yêu nước”, bác kêu gọi toàn Đảng toàn dân là phải “ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”.
Bằng những lý lẽ, lập luận sâu sắc, luôn biết lắng nghe thấu hiểu lòng dân, Hồ Chí Minh đã xuất sắc đưa ra những dẫn chứng cụ thể, giàu sức thuyết phục trong lịch sử và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Bác khẳng định một chân lí “'Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta'. Qua tác phẩm này càng khẳng định được những tố chất tuyệt vời của Người trong lĩnh vực văn chương, thơ ca.


5. Phân tích 'Tinh thần yêu nước của nhân dân ta' số 4
Lịch sử của dân tộc Việt Nam chính là hành trình của những cuộc đối mặt khốc liệt với thế lực xâm lược, từ thời kỳ dân tộc mới hình thành cho đến thế kỷ 20 với những thăng trầm gian truân, chiến thắng vĩ đại trước thách thức của cả Pháp và Mỹ sau gần một thế kỷ chiến đấu không nghỉ. Điều làm nên những chiến công vĩ đại như vậy chính là lòng hy sinh của hàng triệu con người anh hùng, sẵn sàng đứng lên bảo vệ Tổ quốc khi cần thiết. Và đằng sau những chiến công ấy là tinh thần yêu nước, rộng lớn, sâu sắc, nồng cháy trong từng tia máu của người dân Việt Nam, trở thành bản sắc, truyền thống quý báu của con người Việt Nam. Bản nghị luận về Tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam của Hồ Chí Minh đã mô tả rõ vẻ đẹp ấy qua những minh chứng cụ thể, phong phú và thuyết phục.
Hồ Chí Minh (1890-1969), quê ở Nam Đàn, Nghệ An, là một lãnh tụ thiên tài, nhà chính trị và quân sự xuất sắc, đồng thời còn là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc, để lại dấu ảnh lớn trong văn học cách mạng của đất nước. Mỗi bước đi trong sự nghiệp văn chương của Người đều gắn liền với bước tiến của Cách mạng, khiến cho Cách mạng trở nên gần gũi hơn với nhân dân, đồng thời là nguồn động viên mạnh mẽ cho sự thành công của Cách mạng. Tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam, như được mô tả trong tác phẩm nghị luận của Hồ Chí Minh, là một trong những tác phẩm xuất sắc trong bộ sưu tập các tác phẩm nghị luận hiện đại, được sử dụng để động viên, khen ngợi và khích lệ tinh thần yêu nước, đoàn kết chiến đấu của nhân dân trong những giai đoạn khó khăn, những cuộc kháng chiến đầy gian khổ.Mở đầu tác phẩm, Hồ Chí Minh nhanh chóng đặt ra vấn đề nghị luận, tập trung vào tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam qua câu nói 'Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước', với sự khẳng định mạnh mẽ 'Đó là truyền thống quý báu của dân tộc ta'. Từ đó, Người nhấn mạnh rằng lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam là một đặc điểm mãnh liệt, được truyền đạt qua nhiều thế hệ. Để làm nổi bật luận điểm, vạch ra sức mạnh vô song của tinh thần yêu nước và tinh thần đoàn kết của nhân dân, tác giả đã tinh tế sử dụng những hình ảnh so sánh độc đáo, ví dụ như tình thần yêu nước 'trở thành một làn sóng to lớn, mạnh mẽ, lướt qua mọi nguy hiểm, khó khăn, làm chìm đắm tất cả những kẻ phản quốc và thù địch'. Việc so sánh đã làm cho văn bản trở nên sống động, hấp dẫn, làm nổi bật sức mạnh to lớn của tinh thần yêu nước trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm qua các thời kỳ lịch sử.Để chứng minh cho hai luận điểm trên, Hồ Chí Minh đã trình bày các minh chứng, đầu tiên là về tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam trong lịch sử, rõ ràng và sâu sắc qua các cuộc kháng chiến của Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,... những giai đoạn lịch sử mà như Nguyễn Trãi đã diễn đạt 'Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời góp phần vào sự độc lập/Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên tự xưng đế một hướng/Tuy mạnh yếu theo từng thời kỳ, nhưng mỗi thời đại đều có những anh hùng'. Từ quá khứ đến hiện tại, tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam được chứng minh mạnh mẽ qua các minh chứng thuyết phục, Người chỉ ra rằng tinh thần này không chỉ thuộc về một tầng lớp, một độ tuổi hay một khu vực cụ thể, mà nó là đặc điểm chung, bản chất của toàn bộ nhân dân Việt Nam, những con người mang máu đỏ da vàng. Tinh thần yêu nước này không chỉ là một lý thuyết, mà còn là hành động thực tế, đóng góp vào cuộc kháng chiến, làm nổi bật sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc.Trong phần bàn luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh so sánh tinh thần yêu nước với 'những thứ quý giá'. So sánh này nhấn mạnh rằng tinh thần yêu nước không chỉ biểu hiện thông qua các hành động cụ thể mà còn tiềm ẩn trong từng con người. Nhiệm vụ của chúng ta, của Đảng và Nhà nước là làm cho tinh thần yêu nước này trở nên mạnh mẽ, biến nó thành hành động thực tế, góp phần vào cuộc chiến tranh, thể hiện sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc. Khi đó, tinh thần yêu nước sẽ trở thành vũ khí mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi thách thức.'Tinh thần yêu nước của nhân dân ta' là một kiệt tác về lập luận, cấu trúc và dẫn chứng, khẳng định tài năng của Hồ Chí Minh trong nghệ thuật văn nghị luận. Tác phẩm này đã chỉ ra một sự thật kiên định, không bao giờ lỗi thời: 'Nhân dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta'.

6. Phân tích bài viết số 7: Tinh thần đoàn kết yêu nước của nhân dân Việt Nam
Nhân dân Việt Nam không chỉ được biết đến với tình cảm gia đình, truyền thống tôn kính giáo dục, và lòng trung thành với giáo sư, mà còn nổi tiếng với tình yêu nước mãnh liệt, hùng biện. Tình yêu nước đã trở thành một giá trị quý báu, là nét đẹp đặc trưng của nhân dân Việt Nam, được thể hiện rõ nhất khi đất nước đối mặt với nguy cơ bị xâm lược. Truyền thống quý báu này được làm nổi bật thông qua đoạn trích từ bài diễn thuyết “Tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bài diễn thuyết được trích từ Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ II, tháng 2 năm 1951 của Đảng Lao động Việt Nam. Đây có thể coi là một bản mẫu về lập luận, cấu trúc, và cách thức chứng minh trong văn bản luận. Trước hết, về nội dung, tác phẩm đề cập đến luận điểm chính: “Nhân dân Việt Nam có truyền thống mạnh mẽ yêu nước. Đó là giá trị quý báu của chúng ta”. Mỗi khi đất nước đối mặt với nguy cơ bị xâm lược, tinh thần này được thể hiện mạnh mẽ. Trong câu tiếp theo, tác giả sử dụng từ ngữ đầy sức sống và hình ảnh so sánh, như tinh thần yêu nước là một làn sóng mạnh mẽ, đã làm cho lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam trở nên rõ ràng. Để làm sáng tỏ chân lý này, tác giả đưa ra minh chứng ở cả quá khứ và hiện tại.
Độ sâu của truyền thống yêu nước trong lịch sử của nhân dân Việt Nam được chứng minh thông qua các ví dụ cụ thể về các anh hùng như Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung,... những nhân vật lịch sử liên quan đến những chiến công lớn, ấn tượng đã làm cho người đọc hiểu rõ hơn về lòng yêu nước của tổ tiên, ông bà. Không chỉ giới hạn ở đó, để mở rộng quan điểm, làm cho người đọc tin tưởng và thuyết phục hơn, tác giả tiếp tục đưa ra minh chứng từ thời điểm hiện tại. Trong đoạn thứ ba, Hồ Chí Minh chứng minh tinh thần yêu nước của nhân dân trong cuộc chiến tranh chống lại thực dân Pháp, với nhiều minh chứng cụ thể. Sau câu chuyển đoạn “Những người dân Việt Nam ngày nay xứng đáng với tổ tiên trong quá khứ” Hồ Chí Minh mô tả lòng yêu nước và sự căm ghét giặc của nhân dân: “Từ các cụ già tóc bạc đến các em nhỏ trẻ con, từ người Việt ở nước ngoài đến những người dân ở vùng đất đang bị chiếm đóng, từ người dân ở miền núi đến người dân ở miền biển, tất cả đều có lòng yêu nước nồng nàn, căm ghét kẻ thù”. Tiếp theo, thông qua việc liệt kê và kết nối từ…đến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ lòng yêu nước của mọi tầng lớp, độ tuổi, giai cấp,… Những minh chứng này vừa cụ thể vừa toàn diện, thể hiện sự kính trọng, ngưỡng mộ tinh thần yêu nước của đồng bào Việt Nam trong cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp.
Phần kết thúc của văn bản là lời khẳng định về tinh thần yêu nước và giá trị quý báu khác, những điều có thể rõ ràng nhưng cũng có thể “ẩn sau trong hòm, trong rương”. Lần đầu tiên, một khía cạnh vô hình như lòng yêu nước lại được Bác mô tả một cách cụ thể, giản dị nhưng cao quý. Qua lời của Bác, lòng yêu nước không chỉ là những điều lớn lao, xa xôi mà nó ẩn sau những điều giản dị, quanh ta. Nhiệm vụ của chúng ta là biến tình yêu nước đó thành những hành động cụ thể, công việc thiết thực trong cuộc chiến tranh, trong công việc xây dựng đất nước.
Về khía cạnh nghệ thuật, bài viết có cấu trúc chặt chẽ, gồm ba phần (phần một đặt vấn đề về tinh thần yêu nước của nhân dân Việt Nam; phần hai chứng minh tinh thần yêu nước từ quá khứ đến hiện tại; phần ba nhiệm vụ của Đảng trong việc phát huy tinh thần yêu nước). Lập luận mạch lạc, rõ ràng, với một dãy chứng minh. Các chứng minh phong phú, cụ thể, được biểu đạt thông qua những hình ảnh so sánh sinh động.
Bài viết đã làm sáng tỏ đúng lý luận bền vững của cha ông ta, đó là tinh thần yêu nước nồng nàn, sẵn sàng đấu tranh và hy sinh vì tự do, độc lập cho dân tộc. Truyền thống đẹp đẽ này cần phải được phát huy mạnh mẽ trong cuộc chiến tranh của cả dân tộc.


7. Phân tích bài viết số 6: Tinh thần đoàn kết yêu nước của nhân dân Việt Nam
Là người lãnh đạo và hướng dẫn cho cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh là người hiểu rõ nhất về lòng yêu nước nồng nàn của đồng bào. Để khẳng định và ca ngợi tinh thần đó, Người đã viết bài Tinh thần yêu nước của nhân dân ta và trình bày tại đại hội thứ II của Đảng Lao động Việt Nam năm 1951.
Qua đoạn trích này, tác giả khẳng định lòng yêu nước là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, nó được thể hiện rõ ràng và mạnh mẽ nhất trong các cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Đoạn trích cũng đã cho thấy thái độ trân trọng, tự hào của tác giả trước truyền thống ấy.
Ngay phần mở đầu, Hồ Chí Minh đã đưa ra vấn đề nghị luận cũng là một lời khẳng định: 'Dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta,...nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước'. Tinh thần yêu nước được thể hiện rất phong phú trong đời sống nhưng với đặc thù tình hình đất nước luôn phải đương đầu với những cuộc xâm lăng của kẻ thù nên Hồ Chí Minh đã đặc biệt nhấn mạnh lòng yêu nước khi chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc: 'mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi...nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước'.
Trên thực tế, dân tộc ta đang phải đối mặt với cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đầy cam go và quyết liệt, đòi hỏi dân tộc ta phải phát huy cao độ tinh thần yêu nước và đoàn kết để có thể chiến thắng. Và bây giờ khi nhìn lại lịch sử chúng ta có thể thấy được kết quả to lớn của tinh thần ấy. Ở trong phần mở đầu, để khẳng định sức mạnh to lớn của lòng yêu nước, Hồ Chí Minh đã sử dụng phép so sánh, đã ví tinh thần ấy với hình ảnh làn sóng: “lòng yêu nước đã kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn...”. Lòng yêu nước được tác giả nhấn mạnh nhiều lần với việc điệp ngữ và sử dụng đại từ thay thế “Nó”, kết hợp với các động từ mạnh “kết thành”, “lướt qua”, “nhấn chìm”đã làm nổi bật sức mạnh không gì ngăn cản nổi của lòng yêu nước. Âm hưởng hào hùng của câu văn làm lay động trái tim người đọc. Cảm xúc sôi nổi, nhiệt thành và rất đỗi tự hào của Hồ Chí Minh thấm đẫm trong từng câu chữ.
Để những nhận định mình đưa ra được thuyết phục hơn, Hồ Chí Minh đã nêu ra những lí lẽ, dẫn chứng để chứng minh cho tinh thần yêu nước của dân tộc ta. Người đã mở đầu bằng việc nêu gương các anh hùng dân tộc của 4000 năm xây dựng đất nước: “Chúng ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,...các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”. Hồ Chí Minh đã điểm qua tên của những vị anh hùng, cũng là những dấu mốc trưởng thành của dân tộc. Họ là những tượng đài còn mãi về quá khứ vàng son của dân tộc. Đất nước Việt Nam hàng nghìn năm văn hiến luôn kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp. Lòng yêu nước như một mạch ngầm xuyên suốt liêng liêng không bao giờ vơi cạn trong dòng máu mỗi người dân Việt.
Giờ đây nó được biểu hiện bằng những hành động thiết thực: “Đồng bào ta ngày nay cũng xứng đáng với tổ tiên ta ngày trước. Từ cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng trẻ thơ, từ kiều bào đến đồng bào bị tạm chiếm,...Những cử chỉ cao quý đó tuy khác nhau nơi việc làm nhưng đều giống nhau nơi lòng nồng nàn yêu nước”. Lòng yêu nước không phải những điều quá xa vời mà chỉ là những hành động thiết thực nhưng đầy ý nghĩa. Chính vì thế ai cũng có thể thể hiện được tình yêu lớn lao ấy từ người già đến trẻ nhỏ, từ miền xuôi lên miền ngược, chạy dọc suốt dải đất hình chữ S. Mỗi cá nhân góp một phần công sức cũng đã tạo nên một dân tộc đoàn kết và mạnh mẽ. Chính lẽ đó đã giúp đất nước ta có thể trường tồn đến ngày nay.
Trong đoạn cuối văn bản, Hồ Chí Minh đã sử dụng phép so sánh để cụ thể hóa tinh thần đó. “Tinh thần yêu nước cũng như một thứ của quý. Có khi được trưng bày trong tủ kính...nhưng cũng có khi cất giấu kĩ trong rương, trong hòm”. Bổn phận của chúng ta là làm cho những của quý kín đáo đó ấy đều được đưa ra trưng bày. Như đã nói ở trên, tinh thần yêu nước không phải là một dạng tư tưởng xa vời mà nó ở ngay gần chúng ta, trong mỗi chúng ta. Đó là đức tính quý báu của mỗi công dân để tạo nên một dân tộc vững mạnh. Tuy nhiên tinh thần ấy có khi được biểu hiện ra rõ ràng, mạnh mẽ nhưng có khi vẫn chưa được mạnh dạn bộc lộ. Đó là điều dễ hiểu bởi không phải ai cũng có nhu cầu và điều kiện để bộc lộ tinh thần yêu nước sẵn có trong lòng mình. Trách nhiệm của người lãnh đạo là phải tạo điều kiện và thời cơ phù hợp để mỗi người được trưng bày thứ của quý đó ra ngoài.
Bằng nghệ thuật lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng và hệ thống dẫn chứng phong phú, thuyết phục, tác phẩm đã chạm đến được “thứ của quý” chính là lòng yêu nước trong trái tim mỗi người. Cấu trúc câu và những động từ có khả năng gơi cảm cao, bài văn như một lời hịch kêu gọi, khích lệ toàn dân đoàn kết một lòng đánh đuổi kẻ thù, bảo vệ chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc.
Những câu văn mang giá trị lớn lao ấy của Hồ Chí Minh dù đã trải qua hơn nửa thế kỉ nhưng vẫn còn nguyên tính thời sự, có tác dụng động viên mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam vững bước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước thân yêu.


8. Phân tích bài viết 'Tinh thần yêu nước của cộng đồng Việt Nam' số 9
Truyền thống đấu tranh chống xâm lược của dân tộc Việt Nam đã được thể hiện qua các thế hệ, từ những anh hùng như Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi đến những nhà thơ tài năng như Tô Hữu, Phan Bội Châu. Những dòng thơ hào hùng và biểu tượng như Tuyên ngôn Độc lập của Lý Thường Kiệt vẫn rộng lớn trong lòng nhân dân. Thậm chí, trong những thời kỳ khó khăn, như chiến tranh chống Mỹ cứu nước, lòng yêu nước đã thắp lên ngọn lửa hùng cường, tạo nên những tấm gương anh hùng như Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Thị Minh Khai.
Dân tộc ta không chỉ thể hiện lòng yêu nước qua những trận đánh lịch sử mà còn bằng những hành động hi sinh cao cả của các chiến sĩ, lính trẻ. Hình ảnh Bác Hồ - linh hồn của cuộc chiến - luôn rạng ngời trong tâm hồn mỗi người con Việt. Điều này là động lực mạnh mẽ để chúng ta vững bước trên con đường xây dựng và bảo vệ đất nước.
Truyền thống yêu nước của dân tộc là niềm tự hào, là nguồn động viên quan trọng giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức. Hãy giữ gìn và phát huy truyền thống tốt đẹp này, để chúng ta luôn là những người con yêu nước, xứng đáng với những anh hùng đã hi sinh vì tự do, độc lập của Tổ quốc.


9. Bài văn phân tích bài 'Tinh thần yêu nước của nhân dân ta' số 8 - Phiên bản Sáng tạo
Sau chiến thắng Biên giới và Trung du, Đại hội Đảng lần thứ II đã diễn ra trên chiến khu Việt Bắc vào tháng 2/1951. Trình bày trước Đại hội Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài Báo cáo chính trị đã thể hiện phong cách chính luận súc tích, hùng hồn, chặt chẽ. Văn bản “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” là một phần nhỏ của bài Báo cáo chính trị ấy, được xem là kiểu mẫu văn chứng minh.
Bắt đầu bằng khẳng định mạnh mẽ về lòng nồng nàn yêu nước của dân ta, văn bản nổi bật truyền thống quý báu của lòng yêu nước và sức mạnh vô cùng mạnh mẽ của nó, nhấn chìm kẻ thù. Hồ Chủ tịch so sánh lòng yêu nước như làn sóng, sôi nổi, kết thành, lướt qua mọi khó khăn, nhấn chìm bất kỳ kẻ địch nào. Điều này được nhấn mạnh trong bối cảnh Tổ quốc bị xâm lăng.
Thứ hai, Hồ Chí Minh sử dụng dẫn chứng lịch sử và xã hội, kể về những anh hùng nhân dân trong lịch sử như Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung. Dẫn chứng linh hoạt từ quá khứ đến hiện tại, khẳng định lòng nồng nàn yêu nước không chỉ là truyền thống mà còn là hiện thực ngày nay.
Chủ đề tiếp theo là sự đa dạng của lòng nồng nàn yêu nước trong mọi tầng lớp xã hội, từ chiến sĩ tới công chức, từ phụ nữ đến nam giới, từ lứa tuổi già đến trẻ thơ. Hồ Chủ tịch vurg kịch tính, tình cảm và sự đoàn kết của toàn bộ dân tộc, từ những kiều bào ở nước ngoài đến những đồng bào ở vùng bị tạm chiếm.
Nhấn mạnh sự hiện đại của lòng yêu nước, văn bản mô tả những hành động cụ thể của nhân dân như chiến đấu, sản xuất, quyên góp. Bác Hồ khẳng định đồng bào ta “ai cũng một lòng nồng nàn yêu nước, ghét giặc”. Cảm xúc, tình yêu nước được thể hiện qua những cử chỉ và hành động cao quý của mọi người.
Văn bản kết luận bằng việc nhấn mạnh sự quý báu của lòng yêu nước, đồng thời đặt ra nhiệm vụ của Đảng và nhân dân là giải thích, tuyên truyền, tổ chức để tinh thần yêu nước được thực hành vào công việc yêu nước, kháng chiến. Bài văn kết thúc với sự hâm mộ và tự hào về lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc.


10. Bài văn phân tích bài 'Tinh thần yêu nước của nhân dân ta' số 10 - Phiên bản Sáng tạo
Nhà văn I-li-a Ê-ren-bua trong tạp tùy bút “Thời gian ủng hộ chúng ta” từng viết: “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở thành lòng yêu Tổ quốc. Sức mạnh của mọi dân tộc xuất phát từ tinh thần yêu nước. Bài viết 'Tinh thần yêu nước của nhân dân ta' của Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định chân lí ấy mạnh mẽ.
Văn bản “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” là một đoạn trích từ Báo cáo chính trị mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày tại Đại hội lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) tại Việt Bắc vào tháng 2 năm 1951. Mặc dù chỉ là một đoạn trích, nhưng bố cục của nó khá trọn vẹn. Vì vậy, có thể xem đây là cấu trúc của một bài văn nghị luận hoàn chỉnh.
Mở đầu văn bản, tác giả đặt ra quan điểm quan trọng: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta”. Tác giả cũng nhấn mạnh sức mạnh to lớn của lòng yêu nước: “Khi Tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần ấy lại sôi nổi, kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước ”
Để minh chứng, làm rõ truyền thống yêu nước của dân tộc, Hồ Chí Minh đưa ra hàng loạt dẫn chứng và sắp xếp theo trình tự hợp lý. Tác giả lập luận theo thứ tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Đầu tiên, lấy dẫn chứng từ những trang sử hùng vĩ của dân tộc để làm sáng tỏ tinh thần yêu nước. Là những chiến công hùng tráng thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung… Những chiến công hiển hách này là chứng cớ hùng hồn cho tinh thần yêu nước nồng nàn, bất khuất của dân tộc.
Tiếp theo, Hồ Chí Minh nêu những tấm gương tiêu biểu cho tinh thần yêu nước thời đại ngày nay. Những người Việt Nam chân chính, không phân biệt tuổi tác, địa bàn cư trú, giới tính, giai cấp, nghề nghiệp… Từ các cụ già tóc bạc đến các cháu nhi đồng tuổi thơ, từ kiều bào ở nước ngoài đến đồng bào ở vùng tạm bị chiếm, từ nhân dân miền ngược đến miền xuôi… Từ những nam nữ công nhân và nông dân thi đua tăng gia sản xuất… cho đến đồng bào điền chủ quyên ruộng đất cho Chính phủ. Sắp xếp dẫn chứng khoa học như vậy làm nổi bật tinh thần yêu nước trở thành một truyền thống tốt đẹp, xuyên suốt trong lịch sử của dân tộc ta.
Tác giả sử dụng nhiều phép liệt kê để bao quát các tầng lớp trong xã hội và thể hiện một cách đầy đủ, sâu sắc tinh thần yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân. Từ các dẫn chứng phong phú, toàn diện đó, Người khẳng định: “Những cử chỉ cao quý đó tuy khác nhau về hình thức nhưng đều giống nhau về tinh thần yêu nước”.
Ở phần kết, Hồ Chí Minh sử dụng phép so sánh đặc sắc để cụ thể hóa tinh thần yêu nước. Tinh thần yêu nước như các thứ quý giá. Có khi trưng bày trong tủ kính, có khi giấu kín trong rương, trong hòm. Từ đó, Người đề ra nhiệm vụ cho toàn Đảng, toàn dân là phải “ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức, lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của mọi người đều được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến”.
Văn bản được viết trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang diễn ra quyết liệt, đòi hỏi phải phát huy tinh thần yêu nước cao của toàn dân tộc. Vì vậy, Hồ Chí Minh chỉ nhấn mạnh biểu hiện của tinh thần yêu nước trong cuộc kháng chiến, chống kẻ thù xâm lược mà không làm rõ biểu hiện của tinh thần yêu nước trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Bài văn ra đời như một động viên mạnh mẽ cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của quân và dân ta.
Với những dẫn chứng cụ thể, phong phú, giàu sức thuyết phục từ lịch sử dân tộc và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, văn bản làm sáng tỏ chân lí: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta “. Tác giả còn sử dụng nhiều hình ảnh so sánh đặc sắc, cách diễn đạt giản dị, dễ hiểu… đưa ra rõ hơn tinh thần yêu nước và nhiệm vụ chiến đấu của nhân dân ngay lúc này.
Hơn cả, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ sức mạnh lớn lao trong tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Người đã lựa chọn con đường cách mạng, lấy sức mạnh của quần chúng nhân dân làm động viên cho cuộc chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. “Tinh thần yêu nước của nhân dân ta” xứng đáng là một bài ca tràn đầy khí thế và lòng tự hào về sức mạnh lòng yêu của nhân dân ta.

