1. Bài tham khảo số 1
“Không yêu sống làm sao
Không nhớ, không thương, đếch yêu ai”
Đời thiếu đi phần ý nghĩa nếu không có tình yêu. Xuân Quỳnh, qua bài thơ 'Sóng', đã biểu đạt khao khát tình yêu với những cung bậc phong phú. Tình yêu trong 'Sóng' không chỉ truyền thống mà còn hiện đại, đậm chất tâm hồn.
Người phụ nữ trong bài thơ không chỉ đẹp truyền thống với nỗi nhớ, sự thủy chung và nữ tính, mà còn hiện đại với sự chủ động, táo bạo. Xuân Quỳnh thông qua hình tượng sóng đã khéo léo thể hiện tâm trạng của người phụ nữ khi yêu, từ mãnh liệt đến dịu dàng, từ thủy chung đến chủ động. Tình yêu được mô tả như cuộc hành trình tìm kiếm hạnh phúc, vượt qua mọi khó khăn như con sóng lớn đối mặt với biển cả.
Bài thơ mang đến cái nhìn mới, tinh tế và góc nhìn sâu sắc về tình yêu. Đọc 'Sóng' là như đắm chìm trong cảm xúc của người phụ nữ, mê đắm trong vẻ đẹp của tình yêu đan xen giữa truyền thống và hiện đại.
Tình yêu trong bài thơ không chỉ là cảm xúc đối lập mà còn là niềm tin tuyệt đối. Người phụ nữ không chỉ dựa vào những con sóng nhỏ nhoi, mà còn hòa mình vào biển lớn của cuộc đời. 'Sóng' là khát vọng tình yêu vĩnh hằng, ý nghĩa, là sự hòa nhập của tình yêu cá nhân vào tình yêu lớn lao của cuộc sống.
Xuân Quỳnh đã khắc họa vẻ đẹp tình yêu truyền thống và hiện đại một cách tuyệt vời qua từng câu thơ, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả. Đọc 'Sóng', ta không chỉ ngắm nhìn vẻ đẹp của sóng biển mà còn hiểu sâu về vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ, người yêu đong đầy niềm tin và sức mạnh của tình yêu.


3. Tài liệu tham khảo số 3
“Sóng” là một bài thơ tình độc đáo nhất của Xuân Quỳnh, xuất hiện trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ mang đến cho chúng ta những cảm xúc, tình cảm đa dạng của trái tim người con gái khi yêu. Đặc biệt, bài thơ kết hợp tinh tế giữa vẻ đẹp hiện đại và truyền thống, làm nổi bật nét tâm hồn phong phú của người con gái.
Đánh giá về bài thơ “Sóng”, có những quan điểm cho rằng “Bài thơ thể hiện góc nhìn hiện đại, mới lạ của Xuân Quỳnh về tình yêu”, cũng có ý kiến cho rằng “Bài thơ thể hiện quan điểm truyền thống về tình yêu”. Mặc dù những nhận định này trái ngược nhau, nhưng thực tế, chúng hoàn toàn hài hòa để tạo nên nét đặc sắc của bài thơ.
“Sóng” là giọng nói của một tâm hồn trong tình yêu, đầy tính mới mẻ, hiện đại. Tác giả Xuân Quỳnh đã diễn đạt rất sinh động những trạng thái tình cảm đối lập, mâu thuẫn trong tâm hồn người con gái:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ'
Thay vì chỉ sử dụng từ ngữ truyền thống, nữ sĩ đã khéo léo mượn hình ảnh của sóng, đem lại những trạng thái tinh tế, đan xen trong tình cảm của người con gái. Như sóng ở trên biển, có khi ồn ào, dữ dội như bão tố, nhưng cũng có lúc dịu êm, lặng lẽ khi biển trở nên yên bình. Tình yêu cũng như thế, đem lại những cảm xúc phức tạp, đa dạng, nhưng cũng chứa đựng sự mềm mại, dịu dàng. Tình yêu là một chuỗi cảm xúc mà lý trí khó giải thích.'
Phần mới mẻ, hiện đại của hồn thơ Xuân Quỳnh thể hiện qua sự táo bạo, khao khát theo đuổi tình yêu, lòng chủ động tìm kiếm tình yêu trong cuộc sống:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Trong bài thơ, “em” là giọng nói của một tâm hồn tràn đầy sức sống, có sự chủ động và mong muốn sống hết mình cho tình yêu, nhưng cũng mang theo khao khát hòa nhập tình yêu cá nhân để xây dựng nên tình yêu bền vững, vĩnh cửu:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Con nào chẳng tới bờ
Dẫu muôn vời cách trở”
Nữ sĩ tin tưởng mù quáng vào tình yêu, thể hiện khát khao của bản thân là được sống hết mình, hòa mình vào tình yêu. Khao khát này lớn đến mức “em” mong muốn tan ra thành trăm con sóng nhỏ để luôn vỗ nhẹ trong bể lớn tình yêu của cuộc đời.
Bên cạnh cái tôi mới mẻ, hiện đại trong tình yêu, “sóng” cũng là biểu tượng của tình yêu truyền thống:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Giống như những người phụ nữ xưa, khi yêu, “em” ghi nhớ đậm sâu nỗi nhớ, nỗi mong mỏi không ngừng đối với người yêu. Quan điểm này của Xuân Quỳnh về nỗi nhớ có sự gặp gỡ với những câu ca dao, dân ca truyền thống:
“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai”
Nỗi nhớ trong thơ của Xuân Quỳnh không chỉ là tình cảm thường trực khi tỉnh giấc, mà còn là nỗi nhớ mãnh liệt khi chìm đắm trong giấc mơ.
Sự trung thành, sắc sảo của người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh cũng được thể hiện qua sự quan tâm lúc nào cũng hướng về phía người yêu:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
Tình yêu không tránh khỏi những khó khăn, thách thức để đến được hạnh phúc cuối cùng. Nhưng những trở ngại, gian khổ của cuộc sống không thể ngăn cản trái tim người con gái hướng về người yêu. Sức mạnh của tình yêu giúp “em” vượt qua mọi khó khăn để đến bên anh, như một quy luật tự nhiên của tình cảm:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dẫu muôn vời cách trở”
Qua bài thơ “Sóng”, người đọc có thể cảm nhận được vẻ mới mẻ, hiện đại cũng như quan niệm truyền thống về tình yêu. Sự kết hợp độc đáo này làm nên sức hút đặc biệt của bài thơ Sóng trong trái tim những người đang trải qua cảm giác yêu.


3. Tham khảo số 2 - Đỉnh cao của Nghệ thuật
Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là một biểu tượng tinh tế về tình yêu và lòng nồng thắm của người phụ nữ. Tác giả đã sử dụng hình ảnh sóng để diễn đạt sự phong phú và đa dạng của tình cảm, từ sự hồn nhiên đến sâu sắc, từ hiền hòa đến mãnh liệt.
Truyền thống và hiện đại giao thoa trong bài thơ, nơi tình yêu được mô tả không chỉ qua những đặc điểm cảm xúc quen thuộc mà còn bởi tính cá nhân mạnh mẽ của người phụ nữ thế kỷ hai mươi. Sự tự do và khao khát vượt qua giới hạn của tình yêu được thể hiện thông qua hình ảnh sóng mạnh mẽ, đầy tự tin.
Bài thơ mở ra với việc mô tả những khía cạnh truyền thống của tình yêu, như nhớ nhung, giận dữ, và khao khát. Tuy nhiên, người phụ nữ trong bài thơ không ngần ngại thể hiện sự chủ động, tìm kiếm tình yêu một cách rộng lớn và tự do. Cô ấy không chấp nhận sự hạn chế của tình yêu, giống như sóng không ngừng tìm đến bờ biển rộng lớn.
Thực tế rằng sóng có thể trải qua những trạng thái cảm xúc đối lập như dữ dội và dịu dàng, ồn ào và lặng lẽ, là cách tác giả miêu tả một cách tinh tế về những khía cạnh đa dạng của tình yêu. Người con gái trong bài thơ cũng trải qua những biến động phức tạp trong trái tim mình khi yêu, từ sôi nổi đến ôn hòa, từ nồng nàn đến yếu đuối.
Thông qua sóng và bờ biển, Xuân Quỳnh đã tạo ra một hình ảnh đẹp và sâu sắc về tình yêu và lòng dũng cảm của phụ nữ. Tình yêu không chỉ là những trạng thái tích cực mà còn chứa đựng những khía cạnh khó khăn và mâu thuẫn. Bằng cách này, bài thơ chứng minh rằng tình yêu là một hành trình đầy thách thức và đồng thời là nguồn động viên mạnh mẽ.


4. Tài liệu tham khảo số 5
Nhà thơ Xuân Quỳnh có một chùm thơ về biển: “Thuyền và biển”, “Sóng”, “Chỉ có sóng và em”. “Sóng” được nhiều bạn đọc nhớ đến, đây là một trong những bài thơ tình hay nhất của chị. Bài thơ là nơi tập trung nhiều đặc điểm của thơ Xuân Quỳnh: hồn hậu, nữ tính, chân thành. Đặc biệt qua bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh “đã thể hiện được một tình yêu có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời nhưng vẫn mang tính chất hiện đại như tình yêu hôm nay” (Hà Minh Đức).
Xuân Quỳnh được biết đến như là cây bút nữ hàng đầu của thi ca tình yêu thời chống Mỹ và thời kỳ hậu chiến. Thơ của chị là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ nhiều trắc ẩn, vừa hồn nhiên, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm và luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Bài thơ “Sóng” được viết năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Đây được xem là một trong những sáng tác thành công nhất của Xuân Quỳnh về đề tài tình yêu.
Giáo sư Hà Minh Đức qua tiếng lòng của người phụ nữ trong “Sóng” đã nhận ra “một tình yêu có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời”. Nghĩa là, tình yêu của người phụ nữ trong bài thơ ấy đã mang những đặc điểm của một tình yêu truyền thống như bao nhiêu tình yêu của người phụ nữ khác. Tình yêu ấy luôn giữ cho mình nét hồn hậu, đằm thắm, nữ tính muôn đời. Nhưng ẩn đằng sau chất truyền thống ấy là “chất hiện đại như tình yêu hôm nay”. Đó là cá tính mạnh mẽ của người phụ nữ thế kỷ hai mươi bứt phá những nhỏ hẹp đời thường để đến với tình yêu rộng lớn bao la “Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể”. Hiện đại ở đây gắn liền với quan niệm tình yêu tự do chứ không phải là thụ động như tình yêu truyền thống.
Trước hết, “Sóng” thể hiện một tình yêu có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời”. Tình yêu muôn đời có tự thuở xa xưa, khi trai gái biết nhớ thương, tình yêu bắt đầu bén rễ, hẹn hò bắt đầu làm tim nhau xốn xang để “nghìn năm hồ dễ mấy ai quên” thì tình yêu đến. Nam giới thường tự do hơn trong tình yêu, tự do đến, tự do đi, tự do nói lời yêu, tự do bộc bạch. Còn phụ nữ, do đặc điểm về giới tính, về định kiến nên chuyện tình cảm đối với họ là điều khó bộc bạch. Vậy nên, trong tình yêu của người phụ nữ Việt Nam, cái truyền thống ngàn đời bó buộc họ trong một cái “khuôn” có sẵn. Xuân Diệu khi yêu đã mượn sóng để nói lên điều mãnh liệt của tình yêu giới mình, cái vồ vập, ham muốn của đàn ông khiến cho ai đó đỏ mặt:
“Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi hôn lại
Cho đến nát cả trời
Anh mới thôi dào dạt”
Thì Xuân Quỳnh lại mượn sóng để nói lên nét nữ tính đáng yêu ngàn đời của người phụ nữ:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Sóng là một hình tượng ẩn dụ vừa hóa thân vừa hòa nhập với cái tôi trữ tình. Và ở đây, sóng góp phần nói lên tình cảm, tình yêu của Xuân Quỳnh. Tình yêu ấy có nhiều trạng thái biểu hiện, khi lặng lẽ dịu êm, hiền hòa, êm dịu. Đó là chất nữ tính - một phẩm chất di truyền từ ngàn đời ở phụ nữ. Khi lại ồn ào, dữ dội với những ghen tuông, giận hờn vô cớ (cung bậc muôn đời khi yêu). Hai trạng thái cảm xúc ấy “Dữ dội - dịu êm/Ồn ào - lặng lẽ” là đối cực của sóng nhưng cũng là những cảm xúc nội tâm đầy phức tạp, mâu thuẫn nhưng cũng rất thống nhất hài hòa trong tâm hồn của người phụ nữ khi yêu. Xuân Quỳnh dùng quan hệ từ “và” ở giữa hai sự tương phản ấy chứ không phải là từ “nhưng”. Nếu là “nhưng” thì sự tương phản đối lập là hoàn toàn. Còn “và” thì trong cái dịu êm có cái dữ dội, trong ồn ào có cái lặng lẽ. Sự quân bình giữa hai trạng thái tâm hồn ấy tạo nên tình yêu muôn đời ở người phụ nữ thật đáng yêu làm sao.
Con sóng là sự vĩnh hằng của biển khơi (xưa cũng vậy và nay cũng vậy), và tình yêu luôn là sự khát khao bồi hồi của tuổi trẻ:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Quy luật muôn đời của tự nhiên là sóng “ngày xưa” hay “ngày sau” thì “vẫn thế”. Nghĩa là nó bất biến, không thay đổi. Nó vẫn chứa đựng trong nó những cung bậc dữ dội, ồn ào, dịu êm, lặng lẽ muôn thuở ấy. Từ quy luật muôn đời ấy của tự nhiên, Xuân Quỳnh cũng rất tự nhiên khi chạm vào lòng ta quy luật của tình yêu muôn đời:
“Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Dường như tuổi trẻ sinh ra là để yêu, và tình yêu có vị trí đặc biệt cho riêng tuổi trẻ vì “Làm sao sống được mà không yêu/ Không nhớ không thương một kẻ nào” (Xuân Diệu). Tình yêu là “cái buổi ban đầu lưu luyến ấy” đến bên ta như những con sóng nhỏ vỗ vào hồn để tim ta bồi hồi trong lồng ngực, để tâm hồn ta trào dâng bao “khát vọng” cồn cào. Vâng! Ông hoàng thi ca tình yêu Xuân Diệu đã đúng khi nói “Hãy để trẻ nhỏ nói vị ngọt của viên kẹo/ Hãy để tuổi trẻ nói hộ lời yêu”. Ai đang ở vào độ tuổi mười tám đôi mươi, ai đã đi qua thời tuổi trẻ, chắc chắn sẽ hiểu điều này.
Tình yêu là một tình cảm lớn lao, thiêng liêng được phát triển theo quy luật chung của đời sống xã hội và quy luật riêng của mỗi tình yêu. Không dễ cắt nghĩa, luôn là những thắc mắc “Khi nào ta yêu nhau” và rất khó xác định, không theo một quy luật chung nhất.
“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau?"
Biển cả là thiên nhiên thuộc về bao la, vô tận, vô cùng là ẩn dụ cho tình yêu vĩnh cửu vĩnh hằng. Trước biển, người con gái là em cảm thấy bé nhỏ quá. Nhìn những con sóng bất tận xô bờ mà lòng bỗng phân vân. Điệp ngữ “em nghĩ” ấy cứ láy đi láy lại hai lần để rồi trong tâm hồn người con gái nhiều ưu tư ấy bật lên nhiều trăn trở:
“Từ nơi nào sóng lên?
Gió bắt đầu từ đâu?
Khi nào ta yêu nhau?”
Ba câu hỏi ấy là hỏi về nguồn gốc của sóng gió và cũng là nguồn gốc bí ẩn muôn đời của tình yêu. Ba câu hỏi ấy có cùng chung một câu trả lời thật nữ tính, đáng yêu, rất ư là con gái:
“Em cũng không biết nữa”
Ta bắt gặp cái lắc đầu nhè nhẹ, cái bất lực đáng yêu. Và bởi vì em như thế nên tình yêu càng trở nên bí ẩn để anh mãi mãi đi tìm.
Nét nghĩa nữa trong ý thơ về nguồn gốc tình yêu trên là: tình yêu muôn đời vẫn là một ẩn số. Nó tựa như một giai điệu không có nốt nhạc kết, một bài thơ không có kết thúc, một bài toán không có đáp số… Tình yêu là sự khám phá hai thế giới, khám phá hai vũ trụ mà sự ngăn cách là “giới hạn không thể vượt qua”. Vì thế nên không một định nghĩa nào thật hoàn chỉnh về tình yêu, hay nói đúng hơn là mọi định nghĩa về tình yêu đều trở nên gượng ép. Nói chung, càng yêu say đắm bao nhiêu, chân thành bao nhiêu thì người ta càng không thể lý giải được ngọn nguồn của nó. Hiểu như thế, ta càng yêu, càng quý người con gái trong bài thơ này vì tình yêu ấy chắc chắn không hề vụ lợi, toan tính mà rất tự nhiên, rất chân thành, đằm thắm.
Tình yêu truyền thống không thể thiếu nỗi nhớ thương và sự thủy chung. Nếu thủy chung là thước đo của tình yêu thì nỗi nhớ là nồng độ để đo độ thủy chung ấy:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Có ai đó đã từng nói rằng: “Một trái tim đang nhớ là biểu hiện của một trái tim đang yêu còn một trái tim đã ngừng nhớ là biểu hiện của một tình yêu sắp sửa lụi tàn”. Từ xưa tới nay, tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ, nỗi nhớ gắn với hai đầu “ở hai đầu nỗi nhớ”. Nỗi nhớ là giai điệu chính của tình yêu lứa đôi. Tố Hữu từng có so sánh rất độc đáo trong bài Việt Bắc: “Nhớ gì như nhớ người yêu”. Thế mới biết, nỗi nhớ người yêu là trên hết và có sức mạnh vượt qua mọi nỗi nhớ khác để trở thành nỗi ám ảnh của những người yêu nhau:
“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai”
Hay:
“Đêm nằm lưng chẳng tới giường
Cứ mong trời sáng ra đường gặp anh”
Trong bài thơ “Sóng” nhà thơ mượn sóng để nói lên nỗi nhớ mãnh liệt của mình. Sóng nhớ bờ mà nỗi nhớ trùm lên mọi không gian “lòng sâu”, “mặt nước”, trùm lên mọi thời gian “ngày đêm không ngủ được” để khao khát hướng vào bờ. Nỗi nhớ ấy vừa hiện diện trong chiều rộng “trên mặt nước” vừa có chiều sâu “dưới lòng sâu”. Sóng không ngủ được cũng như em nhớ anh đến nỗi “cả trong mơ còn thức”. Xuân Quỳnh quả rất sâu sắc khi dùng đến sáu dòng thơ để bộc bạch nỗi nhớ. Trong đó hai câu cuối khổ năm quả rất tài tình:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Chữ “lòng” thật gợi cảm, nó là nhãn tự của cả câu thơ. Ý thơ giàu sức gợi có lẽ cũng là ở đây. Lòng là nơi sâu thẳm của tâm hồn con người, nhất là tâm hồn người phụ nữ. Nơi ẩn giấu những tình cảm chân thành đằm thắm. Nơi để yêu thương, sầu khổ, dịu dàng… Và khi Xuân Quỳnh nói “Lòng em nhớ đến anh” thì hãy hiểu rằng, người con gái ấy đã nghiêng hết cả tình yêu, dốc cạn cả tim mình để hướng về phương anh rồi. Câu thơ “Cả trong mơ còn thức” diễn tả nỗi nhớ thường trực. Nghĩa là cả trong tiềm thức, ý thức lẫn vô thức, hình bóng của người yêu vẫn cứ ám ảnh đến ngọt ngào khiến em “ra ngẩn vào ngơ một mình”.
Tình yêu truyền thống của người phụ nữ Việt là gắn liền với thủy chung. Vì yêu thương của người phụ nữ Việt là canh bạc mà yêu thương là sự “đặt cược” cuối cùng. Mất hết yêu thương coi như là sự trắng tay. Nhưng dù sao đi nữa thì em vẫn:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương”
Hai câu thơ đầu như một mệnh đề với cặp từ “dẫu” đứng ở đầu câu cùng phép điệp cấu trúc “Dẫu xuôi - Dẫu ngược”. Các động từ “xuôi”, “ngược” và không gian địa lý Bắc - Nam đã góp phần làm nhấn mạnh sự xa xôi cách trở, sự vất vả, gian nan. Để mệnh đề hai Xuân Quỳnh khẳng định: Dẫu xa xôi cách trở, dẫu vất vả gian nan thì:
“Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương”
“Nơi nào” - “cũng nghĩ” là cách diễn tả một cảm xúc thường trực, ám ảnh. Còn “hướng về anh” là sự toàn tâm toàn ý. Lại thêm dấu gạch nối ở giữa và chữ “một phương” ở cuối câu thơ. Càng chắc chắn thêm cho sự khẳng định hướng về anh là cả “toàn hồn” của em. Bởi như Xuân Quỳnh từng nói:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Dẫu ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
(Tự hát)
Đã yêu là tin và người phụ nữ trong tình yêu ngàn đời luôn tin điều đó. Niềm tin ấy đặt vào những con sóng biển. Sóng ở mãi tận giữa vô cùng, gặp muôn ngàn bão tố nhưng cuối cùng “Con nào chẳng tới bờ/Dù muôn vời cách trở”. Thì tình yêu cũng thế, muốn có tình yêu bền vững, phải biết vượt qua những thử thách mới có được hạnh phúc. Vì:
“Tình ta như hàng cây
Đã qua mùa bão tố
Tình ta như dòng sông
Đã yên mùa thác lũ”
(Thư tình cuối mùa thu, Xuân Quỳnh)
Tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh không dừng ở mức độ tình yêu buổi đầu giản đơn hò hẹn, non nớt, ngọt ngào mà là tình yêu – hạnh phúc, tình yêu gắn với cuộc sống chung, với nhiều đòi hỏi ở chiều sâu của tình cảm, với nhiều minh chứng của thử thách, mang đậm dấu ấn trách nhiệm. Đặc biệt nó có “tính hiện đại như tình yêu hôm nay”.
Qua hình tượng sóng và toàn bộ bài thơ, ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Đó là sự mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và rung động rạo rực trong lòng mình. Nếu như những cô gái trong ca dao xưa khi yêu chỉ biết thụ động “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó” để rồi không thể quyết định lấy được hạnh phúc của mình. Mãi mãi họ sống trong khổ đau:
“Em như con hạc đầu đình
Muốn bay chẳng nhấc nổi mình mà bay”
Thì ở đây không còn sự thụ động, chờ đợi (như trong truyền thống) nữa. Nếu “Sông không chịu hiểu mình” thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó, “tìm ra tận bể”, đến với cái cao rộng, bao dung. Vì sóng chỉ thực sự là sóng khi nó tìm về với đại dương. Đại dương thực sự là nơi vĩnh hằng của sóng. Còn lòng sông chật hẹp kia muôn đời sao có thể làm con sóng yên lòng được. Cũng như vậy, tình yêu hiện đại là tình yêu không cam chịu một tình cảm nhỏ nhen, ích kỷ, tầm thường. Vì vậy, nếu anh hẹp hòi và thiếu sự bao dung thì em sẵn sàng từ bỏ anh để ra đi tìm tình yêu rộng lớn hơn.
Tình yêu hiện đại đó còn là một tình yêu với nhiều cung bậc (dữ dội, dịu êm, ồn ào, lặng lẽ, cả trong mơ còn thức…). Có lúc chị còn muốn hiến dâng:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Cụm từ “tan ra” không phải mất đi mà trường tồn đến ngàn năm vì Xuân Quỳnh biết chọn biển lớn tình yêu mà vỗ sóng. Biển lớn là hình ảnh cường tráng của điểm tựa tình yêu, tình người khiến bài thơ ấm và chắc. Sức hút của bài thơ là sức hút của người con gái biết yêu chủ động, mãnh liệt, biết dành hết mình cho tình yêu. Tình yêu của cá nhân con người chỉ có thể trở thành vĩnh cửu và bất tử khi tình yêu đó hóa thân vào biển lớn của tình yêu nhân loại. Xuân Quỳnh đã dám yêu và dám thổ lộ tất cả, đó là nét mới mẻ hiện đại trong tình yêu.
Có thể nói “Sóng” là khát vọng tình yêu, tồn tại mãi trong trái tim giàu yêu thương của Xuân Quỳnh và của chúng ta. “Sóng” vừa mang tính chất truyền thống muôn đời vừa mang tính chất hiện đại của tình yêu hôm nay. Con sóng của Xuân Quỳnh vừa dịu dàng neo đậu vào bờ bến thuỷ chung vừa mới mẻ, hiện đại và táo bạo vô cùng. Đó là cái gốc của truyền thống dân tộc bền chắc khiến con sóng của Xuân Quỳnh gần gũi với sóng của ca dao: “Chừng nào con sóng bỏ ghềnh/ Cù lao bỏ biển anh mới đành bỏ em”. Đến đây có thể khẳng định ý kiến của giáo sư Hà Minh Đức là hoàn toàn chính xác: Qua bài thơ Sóng, Xuân Quỳnh “đã thể hiện được một tình yêu có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời nhưng vẫn mang tính chất hiện đại như tình yêu hôm nay”.
Bài thơ “Sóng” của nữ hoàng thi ca tình yêu Xuân Quỳnh giống như câu chuyện cổ tích về tình yêu. Nó đánh thức ta, khơi dậy trong ta về nguồn gốc, về đạo lý, ân tình của tình yêu khiến mỗi câu thơ như sợi chỉ đan vào tâm hồn ta bao sợi nhớ sợi thương. Từ đó soi chiếu vào tình yêu của mình chúng ta biết trân trọng những gì có trong cuộc sống hôm nay.


5. Bài tham khảo số 4 mang đến những thông tin hữu ích
Xuân Quỳnh, một ngôi sao sáng trong đồng thơ trẻ thời kỳ chống chiến Mĩ, là biểu tượng tiêu biểu của nghệ sĩ trẻ có tâm hồn phức tạp. Thơ của Xuân Quỳnh là lời nói từ trái tim của một phụ nữ đầy ẩn số, vừa trong sáng, tươi tắn, vừa chân thành, đằm thắm, luôn nuôi hy vọng vào hạnh phúc. Bài thơ 'Sóng' được sáng tác năm 1967 trong hành trình thực tế tại vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), khi Xuân Quỳnh vừa 25 tuổi, tràn đầy sức sống và niềm đam mê. Đây thực sự là một tác phẩm xuất sắc, đưa đến độ sâu về tình yêu, là biểu tượng cho phong cách thơ độc đáo của Xuân Quỳnh, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của phụ nữ trong tình yêu thông qua hình ảnh sóng: tình yêu mãnh liệt, đam mê, hòa mình trong khát vọng và lòng trung thành sắt son, vượt lên trên mọi giới hạn của cuộc sống.
Quan điểm mới, hiện đại thường thức ngày nay là quan điểm của những người có đời sống văn hóa và tinh thần không bị ràng buộc bởi tư tưởng phong kiến. Trong tình yêu, tính mới mẻ và hiện đại thường thấy ở sự chủ động, thể hiện những khát khao yêu đương mạnh mẽ, lòng khao khát mạnh mẽ về những cảm xúc mãnh liệt trong trái tim, tin vào sức mạnh của tình yêu. Trong khi quan điểm truyền thống tồn tại từ lâu, được bảo tồn trong cuộc sống hiện đại, thể hiện ở những giá trị truyền thống: uyển chuyển, dịu dàng, trung thành...
Đó là một tình yêu với nhiều cảm xúc đa dạng: mãnh liệt, ồn ào, nhẹ nhàng, yên bình:
“Mạnh mẽ và nhẹ nhàng
Ồn ào và im lặng”
Hoặc có thể là sự mạnh mẽ, tích cực thể hiện những khát khao yêu đương mãnh liệt và những xúc cảm mãnh liệt trong trái tim “Sông không hiểu được chính mình/ Sóng tìm thấy đường đến bể”. Hình ảnh so sánh này làm rõ, người phụ nữ ở đây không còn sự chờ đợi, mà là chủ động, tìm kiếm một tình yêu mãnh liệt. Người phụ nữ dám hi sinh cho tình yêu, hòa mình vào tình yêu cá nhân trong một tình yêu rộng lớn hơn cuộc sống:
“Không thể tan ra
Nhưng thành hàng trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để vỗ mãi mãi
Tuy nhiên, tình yêu trong 'Sóng' vẫn chứa đựng những giá trị truyền thống. Nỗi nhớ thương trong tình yêu được thể hiện qua hình ảnh sóng và em:
“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không thể ngủ được
Lòng em nhớ anh
Cả trong giấc mơ
Nỗi nhớ luôn hiện diện, mãnh liệt, suốt đêm ngày. Tình yêu kết nối với sự trung thành:
“Dù đi về phía bắc
Hay quay về phương nam
Bất kỳ nơi nào, em cũng nghĩ về anh
Điều hướng về một phương”
Với em, không chỉ có phương Bắc, phương Nam mà còn có “phương anh”. Đó là phương trời của tình yêu đôi lứa, không gian của sự tương tư. Tình yêu gắn liền với khao khát có một gia đình hạnh phúc: Như sóng biển, qua bao nhiêu khó khăn cuối cùng cũng đến bờ, người phụ nữ trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc, dù gặp nhiều thách thức nhưng vẫn tin rằng sẽ đạt được mục đích.
Tổng cộng, 'Sóng' là sự kết hợp độc đáo giữa vẻ đẹp truyền thống và hiện đại trong tình yêu.


6. Tài liệu tham khảo số 7
Xuân Quỳnh được xưng danh là người nữ hoàng của thơ tình yêu trong văn học hiện đại Việt Nam. Tác phẩm của cô là tiếng nói của một tâm hồn phụ nữ đong đầy ẩn tình, vừa trong trắng và tươi tắn, lại đầy những khát vọng hạnh phúc giản dị trong cuộc sống hàng ngày. Đối với bài thơ 'Sóng', độc giả có thể cảm nhận được sự kết hợp tinh tế giữa nét đẹp truyền thống và hiện đại, tạo nên vẻ đẹp của người phụ nữ khi yêu.
Đầu tiên, 'Sóng' là tiếng nói của một cái tôi trong tình yêu, mang theo những quan điểm mới lạ. Xuân Quỳnh đã khắc họa đầy đủ những cung bậc của tình yêu, từ những điểm đối lập:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Giống như con sóng trên biển, người phụ nữ trong tình yêu cũng trải qua những biến động cảm xúc đa dạng. Đôi khi mãnh liệt và ồn ào, nhưng cũng có lúc êm đềm và lặng lẽ. Tình yêu dường như luôn chứa đựng những điều kỳ diệu không thể lý giải bằng lý trí. Cuối cùng, người phụ nữ khi yêu đã đặt ra câu hỏi:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Tính chủ động của người phụ nữ được thể hiện qua cách mở lời. Nếu 'sông' không thể hiểu chính mình, 'sóng' sẵn sàng khám phá bản thân, tìm đến bể lớn - nghĩa là tìm kiếm tình yêu chân thật của cuộc đời.
Không chỉ vậy, người phụ nữ trong 'Sóng' còn sẵn sàng hy sinh, dâng hiến cho tình yêu:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Câu hỏi khởi đầu “Làm sao” như một biểu hiện tự thách thức. Làm thế nào để có thể sống đầy đủ với tình yêu? Người phụ nữ khi yêu cũng rất mãnh liệt, mong muốn trải nghiệm đầy đủ từng khoảnh khắc của tình yêu. Xuân Quỳnh sử dụng từ “tan ra” để thể hiện sự dịu dàng của người phụ nữ, trái ngược hoàn toàn với sức mạnh của Xuân Diệu:
“Đã hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt…
Cũng có khi ào ạt
Như nghiến nát bờ em
Là lúc triều yêu mến
Ngập bến của ngày đêm”
(Biển)
Ngay cả trong sự hiện đại, tình yêu vẫn giữ được những giá trị truyền thống. Không có tình yêu nào mà không bị đánh giá qua nỗi nhớ, và người phụ nữ trong 'Sóng' cũng như vậy:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không thể ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
“Con sóng” được mô tả ở hai chiều - không gian và thời gian. Dù “ở dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước” - chiều không gian, dù là “ngày” hay “đêm” - chiều thời gian, thì con sóng vẫn “nhớ đến bờ” đến nỗi không thể ngủ được. Và nếu “sóng” nhớ “bờ”, thì “em” cũng nhớ đến “anh”. Nhưng con sóng có thể bị cách biệt bởi không gian, thời gian. Còn nỗi nhớ của em vượt qua mọi khoảng cách địa lý. Em nhớ anh đến nỗi “trong mơ vẫn còn thức”. Hình ảnh của anh đã ghi sâu vào tâm trí của em. Điều này không phải là điều xa lạ trong thơ ca. Câu ca dao đã diễn tả nỗi nhớ của những người yêu nhau:
“Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt trên vai
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên một bề”
Nguyễn Bính cũng khéo léo sử dụng hình ảnh để diễn đạt nỗi nhớ:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của trời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
(Tương tư)
Đặc biệt, điểm độc đáo nhất là tấm lòng trung thành của người phụ nữ trong tình yêu:
“Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”
Hình ảnh thơ đối lập “xuôi” - “ngược”, “phương Bắc” và “phương Nam” được sử dụng ngược lại so với quy luật thông thường (ngược về phương Bắc, xuôi về phương Nam) với mục đích thể hiện sự sâu sắc nghệ thuật. Dù cuộc sống có thay đổi nhưng đối với đôi ta, phải trải qua bao sóng gió, mọi thứ có thể thay đổi. Nhưng em vẫn luôn hướng về “phương anh”. Trái tim của em giữ mãi tình yêu nguyên vẹn cho anh, bất kể cuộc sống có đầy khó khăn hay sóng gió. Em luôn hướng về “phương anh” - một phương duy nhất, không bao giờ thay đổi. Tấm lòng trung thành, vững bền của em xứng đáng được trân trọng.
Với tấm lòng trung thành, “em” sẽ luôn tin tưởng vào tình yêu của mình:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Mọi con sóng đều sẽ đến bờ, giống như em sẽ gặp lại anh. Khi đó, tình yêu của chúng ta sẽ tồn tại mãi mãi, dù thời gian có làm thay đổi.
Đánh giá chung, người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh, mặc dù đầy mãnh liệt và sôi nổi, nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp đằm thắm, trung thành - những giá trị cổ điển.
Qua phân tích trên, 'Sóng' đã thể hiện sự kết hợp độc đáo giữa vẻ đẹp truyền thống và hiện đại của người phụ nữ trong tình yêu. Thơ của Xuân Quỳnh thực sự là tiếng nói chân thật của người phụ nữ.


7. Tài liệu tham khảo số 6
Trong danh sách những tác phẩm nổi bật của Xuân Quỳnh, không thể không nhắc đến bài thơ đặc sắc “Sóng”. Tác giả đã thông qua hình ảnh tượng trưng của “sóng” để diễn đạt một cách sinh động và cụ thể về khao khát tình yêu, đồng thời thể hiện vẻ đẹp tinh tế của tâm hồn người phụ nữ trong những mối quan hệ tình cảm. Tình yêu này vừa kế thừa những giá trị truyền thống, vừa mang đến những yếu tố hiện đại.
Đầu tiên, chúng ta cần hiểu rõ sự khác biệt giữa tình yêu truyền thống và tình yêu hiện đại là gì. Tình yêu truyền thống thường gắn liền với những cảm xúc và tình cảm có quy luật, như những lưu luyến, tức giận, và khát khao. Tình yêu hiện đại, ngược lại, là sự tôn vinh cái tôi cá nhân, những cảm xúc mãnh liệt vượt qua mọi giới hạn.
Tình yêu mang đến nhiều trạng thái biểu hiện, từ sự yên bình và dịu dàng đến sự hỗn loạn và ghen tuông không lý do (đầy cung bậc khi yêu). Những trạng thái đối lập như “Dữ dội - Dịu dàng” và “Ồn ào - Lặng lẽ” không chỉ là những biểu hiện của sóng mà còn là những cảm xúc nội tâm phức tạp, mâu thuẫn nhưng lại đồng lòng và hài hòa trong tâm hồn người phụ nữ khi yêu:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Cả hai trạng thái đối lập này tồn tại trong một thể thống nhất là “sóng”. Miêu tả những trạng thái khác thường của sóng thể hiện khao khát tình yêu trong tâm hồn bí ẩn của người con gái, khi đồng thời bồng bềnh và sôi nổi, kín đáo và sâu sắc. Đó là sự đắm chìm và tỉnh táo, nồng nàn và âm thầm, mãnh liệt và yếu đuối ngàn lần. Sự gặp gỡ kỳ lạ giữa sóng và nhân vật trữ tình “em” chỉ ra rằng sóng là biểu tượng của “em”, của khao khát tình yêu đầy thao thức và hạnh phúc vô tận. Sóng vẫn từ sông ra bể, từ giới hạn hẹp đến không gian rộng lớn.
Trong tình yêu truyền thống, nỗi nhớ và sự trung thành không thể thiếu. Nếu trung thành là thước đo của tình yêu, thì nỗi nhớ là sức sống của nó:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Thơ với hình ảnh sóng gợi lên nỗi nhớ nồng nàn với đủ cảm xúc. Sóng có thể là biển lớn như biển cả, hoặc nhẹ nhàng và triền miên theo thời gian, không ngủ đêm ngày. Sóng có thể mở rộng với các hướng phương Bắc và phương Nam, hoặc làm nổi bật nỗi khắc khoải như sóng trên mặt nước. Sự nhớ còn có thể chìm sâu trong trăn trở, quay quắt trong lòng giống như sóng ngầm dưới biển sâu.
Không chỉ “nhớ anh, hướng về anh, nghĩ về anh” tình yêu đã lấp đầy con tim, trí óc, trở thành cốt lõi của cuộc sống và khát vọng suốt đời. Hình ảnh sóng nhân hóa “tình em” và “nỗi nhớ” của em rất đặc sắc. Từ cảm “ôi” nổi lên giữa dòng thơ như một tiếng lòng đong đưa giữa sự nhớ nhung. Nỗi nhớ được diễn đạt trực tiếp qua ẩn dụ sóng, với những sóng da diết, sóng dọc theo bờ đêm ngày, sóng ru, sóng vỗ, và vẫn thao thức với thời gian. Nỗi nhớ tự nhiên, hồn nhiên, say đắm, nhưng có vẻ chưa đủ, vẫn được thể hiện trực tiếp qua nỗi nhớ của nhân vật trữ tình “em”:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Cấu trúc thơ thay đổi, toàn bộ bài thơ là những khổ bốn dòng, nỗi nhớ được diễn đạt bằng khổ thơ sâu dòng, đánh bại cái tôi riêng của người nữ sĩ - một nỗi nhớ tràn ngập tình yêu. Nó nồng nàn, sâu sắc hơn cả nỗi nhớ của sóng với bờ vì nó không chỉ tồn tại ở ý thức mà còn xâm nhập vào tiềm thức, thậm chí đánh thức giấc mơ “cả trong mơ còn thức”.
Nỗi nhớ đó đã tạo nên lòng trung thành:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương”.
Chữ “dẫu” như một khẳng định với mọi thử thách, khó khăn cần vượt qua dù có bao nhiêu không gian đa chiều “phương bắc phương nam”, dù thiên nhiên thay đổi “xuôi bắc ngược nam”, nhưng với “em” và “anh”, “hướng về anh một phương” bằng tình yêu trung thành, độc đáo. Nỗi nhớ ở đây không ngừng, không chấp nhận ngừng. Nó cuồn cuộn như những con sóng triền miên vô tận. Nhịp thơ trong suốt bài gợi lên nhịp của sóng. Rõ nhất, sôi nổi nhất, và mãnh liệt nhất chính là ở đoạn thơ này, ngược cũng như xuôi.
Yêu là tin, và phụ nữ trong tình yêu luôn tin điều đó. Niềm tin ấy được đặt vào những con sóng biển. Sóng vẫn tồn tại giữa vô cùng, đối mặt với muôn ngàn bão tố, nhưng cuối cùng “Con nào chẳng tới bờ/Dù muôn vời cách trở” thì cuối cùng em tin tình yêu của chúng ta sẽ đến được cùng nhau.
Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, tình yêu ở đây còn mang đẹp hiện đại. Nếu “Sông không chịu hiểu mình”, thì sóng quyết định bỏ lại nơi chật chội đó, “tìm ra tận bể”, để đến với không gian rộng lớn, mở lòng:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
“Sóng” đã tự ý thức tìm kiếm tình yêu, không còn chấp nhận sự thụ động. Đặc biệt hơn, “sóng” theo tác giả là biểu tượng của khao khát tình yêu. Nhân vật trữ tình trong thơ đã thể hiện một cách tích cực: lo lắng nhưng không chán nản, chỉ muốn nắm bắt hạnh phúc hiện tại, sống trọn vẹn, đam mê với tình yêu để vượt qua sự hạn chế của thời gian và cuộc sống:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”
Tan ra để hoà mình vào biển lớn của tình yêu, biển lớn của hạnh phúc vĩnh cửu. Đối với Xuân Quỳnh, cách để sống mãi là sống với tình yêu của chính mình. Ước vọng đó vừa dịu dàng, vừa tận hưởng, vừa mãnh liệt. Bài thơ kết thúc nhưng cặp hình tượng “sóng - bờ, em - anh” vẫn nối kết với nhau, chiếu sáng vẻ đẹp vĩnh hằng của tình yêu.
Tổng cộng, hình tượng “sóng” là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh, thể hiện đẹp truyền thống và hiện đại trong tình yêu.


8. Tài liệu tham khảo số 9
Xuân Quỳnh là người phụ nữ có một cuộc đời nhiều đa đoan lo âu vất vả. Đó là người đàn bà có trái tim đa cảm gắn bó hết mình với cuộc sống hằng ngày trân trọng nâng niu và chi chút cho hạnh phúc bình dị, đời thường. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, hồn hậu, thuỷ chung luôn da diết khao khát tình yêu, hạnh phúc đời thường bình dị. Đọc thơ Xuân Quỳnh, người đọc bị chinh phục không phải vì nghệ thuật cao cường của nhà thơ mà chính vì những "thông tin nhân văn " mới mẻ, kỳ lạ mà sâu sắc thuộc về một "mẫu người ưu tú và độc đáo". Bài thơ "Sóng" với chủ đề là lời tự bạch chân thành của trái tim người phụ nữ đang yêu thể hiện tâm hồn phong phú, khát khao hạnh phúc và tự nhận thức về tình yêu hạnh phúc.
Vẻ đẹp hiện đại ở trong bài thơ sóng là sự chủ động táo bạo của người con gái đang yêu với khát khao được sống, được yêu một cách tha thiết. Đó là những rung động rạo rực cùng một trái tim yêu luôn luôn có niềm tin vào sức mạnh của tình yêu. Vẻ đẹp truyền thống là về đẹp mang tính kế thừa gắn liền với người phụ nữ Việt Nam từ ngàn xưa. Đó là sự giãi bày kín đáo ý nhị cùng với lòng thuỷ chung, son sắt nhưng cũng không dấu nổi những lo âu trăn trở về tình yêu và đời người.
Người con gái chủ động đến táo bạo, cương quyết rời bỏ không gian tù túng chật hẹp để đến với biển lớn bao la rộng lớn minh mông để nhận thức về mình hiểu mình và được là mình.
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Sông trong tương quan với biển là một không gian nhỏ hẹp, chật chội, đầy tù túng. Người con gái Xuân Quỳnh đã khéo léo mượn hình ảnh sóng từ bỏ lòng sông chật hẹp để đến với đại dương mênh mông để nói lên cái khát vọng được hướng tới tình yêu tuyệt đích vô biên. Đó là thứ tình yêu chân chính đầy sự bao dung, vị tha thấu hiểu sẻ chia. Người con gái quyết không chấp nhận một thứ tình yêu tầm thường vị kỷ không hiểu nổi mình. Biện pháp nhân hóa sóng tìm ra tận bể đã thể hiện sâu sắc quyết tâm sắt đá khao khát cháy bỏng, một sự ráo riết đến tận cùng của người phụ nữ trong hành trình kiếm tìm hạnh phúc và nhu cầu tự nhận thức về mình. Ta thấy ẩn hiện đằng sau những câu thơ ấy là một quan điểm tiến bộ sâu sắc về tình yêu và cuộc đời. Bản chất của tình yêu vốn là sự rộng lớn thoáng đạt và bao dung.
Vẻ đẹp ấy còn được thể hiện ở khát vọng tình yêu mãnh liệt luôn âm ỉ, bùng cháy trong trái tim người con gái.
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Người con gái Xuân Quỳnh đứng trước biển - khoảnh khắc mà người con gái tách mình ra khỏi để cảm nhận rõ hơn những rung động bồi hồi trong trái tim. Trạng từ chỉ thời gian "ngày xưa" - "ngày sau" kết hợp với phó từ "vẫn" gợi lên cảm nhận của thi sĩ về nét vĩnh hằng của những con sóng. Hàng ngàn hàng vạn năm qua những con sóng ngoài khơi vẫn cất lên bài ca bất tử. Nó vẫn là nó, vẫn vỗ mãi ngàn năm như bản tình ca của biển.
Cũng như sóng khát vọng tình yêu mãi mãi là một khao khát cháy bỏng phải sợ gì bồi hồi trong trái tim con người nhất là tuổi trẻ. Ở đây "ngực trẻ" không chỉ hướng đến tình yêu của những người trẻ mà làm bất cứ ai mà trong trái tim đều đang rung lên nhịp đập thổn thức của tình yêu bởi khao khát yêu và được yêu là không của riêng ai mà là của tất cả chúng ta. Chính vì lẽ đó tình yêu quả thật là suối nguồn tươi trẻ luôn chảy mãi trong tâm hồn con người.
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Của máu thịt dời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập khi đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.
Tự Hát - Xuân Quỳnh
Vẻ đẹp hiện đại được thể hiện qua khao khát khám phá và nhận thức đầy chủ động của một cảm xúc mãnh liệt
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Giọng thơ chuyển sang giọng điệu suy tư trăn trở băn khoăn về tình yêu, hàng loạt câu hỏi tu từ "từ nơi nào sóng lên?", "gió bắt đầu từ đâu?" kết hợp với điệp ngữ "em nghĩ về" đã thể hiện rõ phần nào những băn khoăn về cội nguồn của tình yêu hay cũng chính là nhu cầu tự nhận thức của trái tim người con gái đang yêu
Người con gái đứng trước muôn trùng sóng biển tự trách mình ra khỏi sóng để nhận thức để soi mình vào lòng sóng, để nhận thức rõ hơn được những tình cảm chất chứa nơi đây trái tim mình. Những câu hỏi cứ liên tiếp, dồn dập trong tâm trí nhưng liệu có tồn tại câu trả lời cuối cùng hay không. Có lẽ câu trả lời là không bởi nhà thơ Xuân Quỳnh đã bất lực thốt lên:
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau
Câu thơ như một cái lắc đầu vô cùng đáng yêu của người con gái. Pascal đã từng nói "Trái tim có những quy luật riêng mà lý trí không thể hiểu nổi". Nhưng cũng chính bởi cái bí ẩn đây huyền diệu của tình yêu đã khiến nó luôn luôn hấp dẫn và trở thành nguồn thi cảm vô tận cho bao thi nhân.
Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu
Bởi thế một thoáng bối rối, 1 chút ngập ngừng, băn khoăn trong nỗ lực thì lý giải về cội nguồn của sóng và khởi thủy của tình yêu mới chính là tiếng lòng của một trái tim yêu đích thực. Dẫu nỗ lực lý giải, cắt nghĩa tường tận, cặn kẽ nơi khởi điểm của tình yêu là điều không thể nhưng qua đó Xuân Quỳnh đã bộc lộ được những tình cảm vô cùng mãnh liệt của mình.
Vẻ đẹp của người con gái mang đậm dấu ấn hiện đại khi chủ động bày tỏ nỗi nhớ của mình, chủ động trên con đường kiếm tìm hạnh phúc
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Có thể nói nỗi nhớ luôn gắn liền với tình yêu, nỗi nhớ là biểu hiện đầy đủ và sâu sắc nhất cho một tình yêu chân thành mãnh liệt. đặc biệt là khi hai người phải xa nhau. Đến với thơ Xuân Quỳnh người đọc đã được khám phá một nỗi nhớ cồn cào mãnh liệt da diết bồi hồi không dứt, không nguôi. Nó dâng trào và mãnh liệt như những đợt sóng biển triền miên vô hồi, vô hạn. Một nỗi nhớ bao trùm cả không gian, xâm chiếm cả dòng chảy thời gian bất tận và choán ngợp cả tâm trí người con gái.
Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh
Anh nhớ em, anh nhớ lắm, em ơi
hay như người thiếu phụ trong thơ Đường đã từng khắc khoải:
Nhớ chàng như mảnh trăng đầy
Đêm đêm vàng sáng, hao gầy đêm đêm
Tác giả sử dụng những từ ngữ tương phản trái nghĩa "dưới lòng sâu" - "trên mặt nước", "ngày" - "đêm" diễn tả được nhiều chiều kích của nỗi nhớ. Điệp từ "sóng" được lặp lại ba lần gợi hình ảnh những con sóng cứ vỗ rập rìu như một điệp khúc của bản tình ca với những giai điệu da diết. Cả ba câu thơ gắn liền với hình sóng giống như những đợt sóng đang gối lên nhau hối hả vươn tới bờ hay đó cũng là một ẩn dụ nghệ thuật về những đợt sóng lòng đang trào dâng trong tâm hồn người phụ nữ đang yêu : Những ngày không gặp nhau Biển bạc đầu thương nhớ Những ngày không gặp nhau Lòng thuyền đau rạn vỡ. Phải chăng những rung cảm quá đỗi mãnh liệt của trái tim yêu đã buộc lời thơ phải dài ra để diễn tả cho thỏa cái ngút ngàn của nỗi nhớ.
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Con người luôn sống với hai trạng thái mơ và thức thì nỗi nhớ anh dường như đã xóa nhòa mọi khoảng cách giữa miền ý thức và miền vô thức. Nỗi nhớ đã trở thành một nhịp đập trọn vẹn trong trái tim người con gái đang yêu. Nó cứ bồi hồi, triền miên da diết như hơi thở của sóng. Nỗi nhớ đã không còn được chuyển tải qua hình ảnh dụng sóng mà đến đây Xuân Quỳnh đã bộc lộ một cách chân thành trực tiếp đầy mãnh liệt nỗi nhớ luôn thấp thỏm âm ỉ trong trái tim mình
Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than
Hình tượng sóng và em quyện hòa, đắp đổi nhưng cũng có những lúc em tự tách mình ra khỏi xong để nhận thức được rõ hơn về những cảm xúc riêng tư thầm kín của chính mình.
Vẻ đẹp hiện đại được thể hiện ở khát vọng được dâng hiến hết mình cho tình yêu cho cuộc đời để tình yêu trở nên bất tử
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ
Người con gái Xuân Quỳnh đã có những ý thức vô cùng sâu sắc vê tình yêu của mình. Bà khát khao được tan ra để hòa vào biển lớn tình yêu. Đó chính là khao khát được dâng hiến cho tình yêu - vẻ đẹp thánh thiện của người con gái khi yêu. Khát vọng đó bắt nguồn từ một thái độ sống thái độ yêu gắn liền với sự dâng hiến.
Chỉ riêng điều được sống cùng nhau
Niềm vui sướng với em là lớn nhất
Trái tim nhỏ nằm trong lồng ngực
Giây phút nào tim chẳng đập vì anh
Bằng một cách Ý nhị và kín đáo nhất, Xuân Quỳnh đã mượn hình ảnh sóng để diễn tả những cung bậc cảm xúc, Những quy luật tình cảm muôn đời của người con gái khi yêu.
Vẻ đẹp truyền thống được biểu hiện ở những trạng thái cảm xúc đối lập mà thống nhất trong trái tim người con gái đáng yêu.
Dữ dội và dịu em
Ồn ào và lặng lẽ
Hình ảnh sóng hiện ra với nhiều đối cực khác nhau "dữ dội" - "dịu êm", "ồn ào" - "lặng lẽ". Đây là những biểu hiện thường thấy ở những con sóng gợi lên những nét tương đồng với người con gái khi yêu lúc thì dịu dàng đằm thắm, lúc thì mạnh mẽ dữ dội. Dù cho người phụ nữ có mang bao nhiêu nét đẹp hiện đại thì Dường như cũng có những nét trạng thái không bao giờ đổi thay trong trái tim yêu.
Tuy nhiên với việc sử dụng biện pháp điệp cấu trúc câu kết hợp với liên từ "và" nối kết các từ trái nghĩa đã thể hiện được những sự thống nhất trong tâm trạng của người con gái. Tính khí của người con gái khi yêu là vậy, nó vốn mang trong mình nhiều đối cực mẫu thuẫn nhưng đó lại là những mâu thuẫn trong thống nhất bởi tất cả đều là biểu hiện của một trái tim chân thành mãnh liệt.
Trái tim luôn thuỷ chung son sắt Hương đến người mình yêu của người phụ nữ là biểu hiện của một về đẹp mang đậm tính truyền thống của người con gái Việt Nam.
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
Tác giả sử dụng lối nói đối lập, tương phản kết hợp với các từ ngữ chỉ hướng ngược nhau "xuôi" - "ngược, "Bắc" - "Nam" để diễn tả, khuyếch đại được không gian nhằm bộc lộ, khẳng định nỗi nhớ của mình đồng thời gửi gắm trong đó còn là nỗi âu lo trăn trở suy tư về lòng người.
Mặc cho dòng đời có tấp lập, giữa bốn bề cuộc sống muôn phương cách trở của không gian , thời gian thì em vẫn luôn hướng về một phương - đó là phương anh. Dấu gạch ngang được sử dụng ở giữa dòng nhằm nhấn mạnh tình yêu thủy chung son sắt vẹn toàn trong trái tim em đối với anh. Khoảng cách muôn trùng có thể ngăn bước chúng ta đến bên nhau nhưng không thể ngăn nổi trái tim yêu cồn cào mãnh liệt này hướng về anh.
Về đẹp truyền thống biểu hiện ở niềm tin mãnh liệt vào tình yêu mặc cho muôn vàn trở về trước của người con gái:
Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Xuân Quỳnh mượn quy luật của tự nhiên, của những con sóng để nói đến quy luật của lòng người . Sóng luôn khao khát vươn tới bờ như em luôn khao khát có anh. Cũng như những con sóng vượt qua mọi cách trở luôn vươn tới được bờ, em với trái tim yêu chân thành này cũng sẽ bước qua mọi thử thách khó khăn đi cập bến bờ hạnh phúc. Tác phẩm được Xuân Quỳnh viết sau khi trải qua những đổ vỡ, đắng cay của tình yêu vậy mà trong trái tim bà vẫn vẹn toàn một niềm tin son sắt đối với tình yêu, với cuộc đời, với con người. Niềm tin yêu của người con gái thật mãnh liệt nhưng ta cũng thấy được những trăn trở lo âu không hề dấu diếm của người con gái
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Không biết do trái tim của người phụ nữ hay sự tinh tế giàu cảm xúc của người nghệ sĩ mà Xuân Quỳnh là người nhạy cảm với sự chảy trôi của thời gian. Bà có ý thức sâu sắc về sự ngắn ngủi hữu hạn của đời người giữa tương quan với cái vô hạn mênh mông của vũ trụ, sóng biển cũng như sự mong manh sương khói của tình yêu
Lời yêu mỏng manh như màu khói
Ai biết lòng anh có đổi thay
Cấu trúc câu nhượng bộ, tăng tiến "tuy" - "vẫn" - "dẫu", giọng điệu khẳng định mạnh mẽ thể hiện niềm tin mãnh liệt son vào sức mạnh của tình yêu hạnh phúc cuộc đời. Hình ảnh cuộc đời dài rộng, đại dương mênh mông cũng có thể được tượng cho những thử thách lớn lao, tuy nhiên thử thách chắc chắn sẽ vượt qua khoảng cách không gian sẽ được xóa bỏ.
Như vậy dù táo bạo và hiện đại dù khát khao mãnh liệt bao nhiêu thì người phụ nữ trong tình yêu vẫn trở về với những vẻ đẹp nữ tính truyền thống muôn đời của người phụ nữ. Đó là những giá trị đặc trưng của con người Việt Nam, đó là biểu hiện của cái mà Xuân Quỳnh gọi là giá trị người:
Đó là tình yêu em muốn nói cùng anh
Nguồn gốc của muôn vàn khát vọng
Lòng tắt để duy trì sự sống
Cho con người thực sự người hơn
Bài thơ sử dụng thể thơ năm chữ không có dấu câu, nhịp ngắn 2/3 nhịp nhàng đều đặn góp phần tạo nên âm hưởng của những con sóng vào bờ không nguôi không dứt. Bên cạnh đó Xuân Quỳnh còn tập trung xây dựng hai hình ảnh song hành song đôi "sóng - em". Sóng là ẩn dụ của em với tâm hồn giàu khát vọng và những biến động phong phú phức tạp. Đôi khi em trách mình ra khỏi sóng soi mình vào lòng sống để nhận thức rõ hơn về tâm hồn mình. Bài thơ được viết bằng thứ ngôn ngữ dung dị mộc mạc nhưng cũng rất trẻ trung giàu nữ tính giàu sức gợi hình, có tính nhạc và biểu cảm cao. Nhà thơ sử dụng rộng rãi những biện pháp tu từ như nhân hóa, điệp cấu trúc kết hợp với giọng điệu linh hoạt lúc sôi nổi nồng nàn trong khát vọng hạnh phúc, lúc lắng xuống với những trăn trở suy tư về hạnh phúc của cuộc đời. Bài thơ mang âm hưởng của những con sóng nhịp nhàng vỗ vào bờ cát lúc mạnh mẽ lúc dịu êm.
Người phụ nữ nhân vật trữ tình trong bài thơ mang về đẹp hài hòa giữa những nét đẹp truyền thống đặc trưng cùng với đó là về đẹp vô cùng hiện đại táo bạo mà vẫn thật chân thành và tha thiết. Tuy nhiên dù là vẻ đẹp nào thì đó tất cả đều là tập trung thể hiện cho khát vọng yêu và được yêu một người phụ nữ. Đó là khát khao và là giá trị muôn đời của bất cứ người con gái nào trong tình yêu.


9. Tham Khảo số 8 - Nguồn Cảm Hứng Mới
Sóng không chỉ là tên một thi phẩm đã gây xốn xang cho nhiều thế hệ. Sóng không chỉ là biểu trưng cho một hồn yêu chưa từng nguôi yên. Sóng còn là một nguồn sống, nguồn năng lượng mà nữ thi sĩ ấy đã truyền lại cho mai hậu qua mỗi tiếng thơ mình. Tình yêu trong từng câu thơ là tình yêu của một người, mà cũng là của mọi người, là tình yêu của một thời mà cũng là của mọi thời. Vì thế có ý kiến cho rằng: “Sóng đã thể hiện tình yêu truyền thống như tình yêu muôn đời".
Ý kiến khác lại khẳng định: "Sóng đã thể hiện tình yêu hiện đại như tình yêu hôm nay".
Về ý kiến thứ nhất, “tình yêu truyền thống như tình yêu muôn đời” là tình yêu gắn với những cung bậc cảm xúc quen thuộc, phổ biến, những trạng thái đã trở thành quy luật muôn đời. Còn “tình yêu hiện đại như tình yêu hôm nay” trong ý kiến thứ hai chính là khẳng định cái nhìn mang tính mới mẻ, phát hiện về tình yêu của Xuân Quỳnh. Hai ý kiến là những cách nhìn riêng về những khía cạnh khác nhau về nội dung của tác phẩm.
Không còn phân biệt được sóng tạo nên Xuân Quỳnh, hay Xuân Quỳnh đã tạo nên sóng. Chỉ biết rằng người con gái ấy sinh ra là để dành cho thơ. Thơ ca, với Xuân Quỳnh, gắn liền với sự sống, tình yêu; làm thơ là nữ sĩ được sống với chính mình, sống đủ đầy trọn vẹn là mình. Mỗi bài thơ đều là tiếng nói chân thành nhất của một tâm hồn phụ nữ giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa da diết trong khát vọng hạnh phúc đời thường. Bài thơ “Sóng” được viết năm 1967 trong chuyến đi thực tế ở biển Diêm Điền (Thái Bình), là tiếng thơ của những ngọt ngào, đắng cay từng trải trong tình yêu, khi đã vun đắp và trải nghiệm sự tan vỡ trong tình yêu mà vẫn thật tha thiết, tràn đầy khát vọng. Bài thơ có sự song hành hình tượng giữa “sóng” và “em”: “Sóng” và “em” có lúc tách ra để soi chiếu vào nhau, có lúc lại hòa hợp thống nhất. Sóng biển và sóng lòng, sóng nước và sóng tình ẩn hiện, đan nguyên vào nhau tạo ra những cảm xúc mới mẻ. Bởi thế, sóng có thể nói là một ẩn dụ không hoàn toàn cho em, cho vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu và trong cuộc sống.
Trước hết, sóng đã thể hiện “tình yêu truyền thống như tình yêu muôn đời”. Đó là những cung bậc vừa thống nhất lại vừa đối lập:
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Trong người phụ nữ, luôn tồn tại những trạng thái đối cực. Hai câu thơ có thể đúng với bao người nhưng nó không phải là lời của một nhà nghiên cứu trong tình yêu đứng ngoài nhìn vào. Nó được viết ra trước hết là một lời tự thú chân thành và tự nhiên đến độ khiến ta phải ngỡ ngàng: thì ra, trái tim của người phụ nữ luôn có những đối cực như thế: “dữ dội” – “dịu êm”, “ồn ào” – “lặng lẽ”. Nhà thơ đặt liên từ “và” – không phải bức tường ngăn cách mà là sự kết hợp, chuyển hóa. Người phụ nữ có thể ồn ào, dữ dội nhưng cuối cùng cũng là sự trở về của thiên tính nữ: dịu êm, lặng lẽ. Đó chính là sự hiện diện của cái “tôi” Xuân Quỳnh. Như vậy, tình yêu không bao giờ là trạng thái tâm lí tuần nhất mà là sự hòa kết của những trạng thái khác nhau, thậm chí là đối lập như những nốt thăng, trầm làm nên bản tình ca đôi lứa.
Đó là những khát vọng tình yêu, sự trẻ trung của con người trong tình yêu và sự trẻ trung không thể cắt nghĩa, lí giải được:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ
Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?
- Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
Đối với người phụ nữ, tình yêu không có tuổi: “ngày xưa”, “ngày sau” vẫn thế, “nỗi khát vọng tình yêu/ bồi hồi trong ngực trẻ”. Tuy vậy, họ vẫn luôn khao khát muốn được kiếm tìm về nguồn cội của tình yêu. Câu hỏi tu từ “Từ nơi nào sóng lên?” với lời đáp thật dễ dàng, chóng vánh: “Sóng bắt đầu từ gió”. Câu hỏi thứ hai ráo riết hơn, lí trí muốn đẩy những băn khoăn đến tột cùng: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Những câu hỏi tu từ lúc ẩn duối chân sóng, lúc lại trào lên đầu ngọn sóng như những trăn trở. Nhân vật trữ tình không cảm nhận về sóng mà nghĩ về sóng. Nương theo những con sóng, nhà thơ bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn tình yêu và phân tích, lí giải bản chất của tình yêu. Đó cũng là mong muốn muôn đời của biết bao đôi lứa. Câu trả lời vừa là sự thú nhận, vừa là sự thức nhận: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Đó là cái lắc đầu biểu thị một tâm lí rất phụ nữ: không ham rạch ròi dẫu trong lòng còn bao nhiêu bức xúc “đòi tìm ra tận bể” để hiểu, để nghĩ. Nó là bức xúc của tình cảm hơn là bức xúc của trí tuệ. Phải chăng ở trong đời, “phái yếu” không mong gì hơn một mái ấm yên vui, một gia đình hạnh phúc? Ít nhất, với Xuân Quỳnh là như vậy.
Đó là những sắc thái muôn thuở của tình yêu:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
(…)
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương”
Điệp từ “sóng” liên tiếp làm cho những con sóng nhớ thương như đang trào dâng dào dạt khỏi bề mặt con chữ, vừa gợi cái sôi trào mà miên man, sâu lắng của nỗi nhớ. Nỗi nhớ đầy ắp không gian: “dưới lòng sâu”, “trên mặt nước”, tràn ngập thời gian “ngày đêm”. Từ nỗi nhớ “bồi hổi bồi hồi” trong ca dao đến nỗi nhớ thiết tha của Xuân Diệu: “Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh”, nỗi nhớ đến ngẩn ngơ của Hàn Mặc Tử: “Người đi một nửa hồn tôi mất/ Một nửa hồn tôi hóa dại khờ”,… Và cả tấm lòng son sắt thủy chung không đổi trong khổ dưới. Trong khổ thơ, ta đã thấy sự khác biệt so với cách diễn đạt thông thường, không phải là ngược Bắc xuôi Nam mà là “xuôi Bắc ngược Nam”. Sự khác biệt hé lộ một tình yêu trắc trở, gian nan. Nhưng đối với Xuân Quỳnh, dù có xáo trộn xuôi – ngược thì điều đó cũng chẳng có gì quan trọng. Quang trọng nhất chỉ là “phương anh”. Nếu khổ thơ trên, nữ sĩ soi vào sóng để nhận ra mình thì ở đây, nhà thơ nhìn sâu vào mình để nhìn vào quy luật sóng: sóng hướng về bờ thì cuộc đời em duy nhất chỉ hướng về anh. Tất cả những trạng thái ấy là những cung bậc nổi bật trong tình yêu.
Nhưng sóng còn là hình ảnh của “tình yêu hiện đại như tình yêu hôm nay”.
Đó là vẻ đẹp của sự vận chủ động táo bạo trong hành trình dấn thân tìm kiếm tình yêu:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Người phụ nữ luôn hướng tìm tới tự do. Khám phá những không gian tồn tại của sóng, Xuân Quỳnh phát hiện ra: hành trình của sóng từ sông ra biển cũng là hành trình con người đến với tình yêu: phải biết vượt qua những giới hạn bản thân chật hẹp để hòa nhập vào biển đời rộng lớn, kiếm tìm hạnh phúc. Đó là hành trình dấn thân tự nguyên, say mê để tìm đến hạnh phúc và sống trọn vẹn.
Đó còn là sự mãnh liệt trong nỗi nhớ, trong sự bày tỏ tâm hồn, tình cảm trong tình yêu:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
Nỗi nhớ của người con gái ấy cồn cào, da diết đến nỗi những con sóng kia cũng chẳng thể diễn tả hết mà tự em phải giãi bày. Hai câu thơ cuối như con sóng xuyên qua cả cõi thực, cõi mộng. Không chỉ ở ý thức mà còn lắng sâu vào tiềm thức để hiện ra trong giấc mơ. Cái dào dạt nhớ nhung khiến cảm xúc tràn bờ mà kéo dung lượng ra 6 câu để biểu đạt. Cảm xúc ấy có gì giống khi Xuân Quỳnh viết “Tự hát”:
“Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt, đời thường ai chẳng có
Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi”
Nỗi nhớ “cả trong mơ còn thức” hay “biết yêu anh cả khi chết đi rồi” rất đậm chất Xuân Quỳnh: mãnh liệt mà đằm thắm, táo bạo, giàu nữ tính. Xuân Quỳnh là thế: bao giờ cũng dám sống thật với mình, thật với cảm xúc của chính mình.
Đó còn là một trái tim đa cảm, giàu trắc ẩn, vừa âu lo vừa tràn đầy niềm tin, khát vọng:
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cuộc đời đi dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Ðể ngàn năm còn vỗ.”
Với trái tim đa cảm và tâm hồn giàu trắc ẩn, nhạy cảm trước sự chảy trôi của thời gian và lòng người, người phụ nữ thường có những lo âu về những điều bất chắc: “Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn”. Nỗi khắc khoải ấy hiện hiện hình khi nhận ra quy luật cuộc sống: “Cuộc đời tuy dài thế/ Năm tháng vẫn đi qua”, “Mây vẫn bay về xa”. Cuộc đời dài rộng vẫn có điểm kết vậy tình yêu kia có thể bất biến giữa thời gian? Nhưng cuối cùng, người con gái vẫn chọn trao niềm tin trọn vẹn. Cặp quan hệ từ “tuy – vẫn” mang sắc thái khẳng định khiến nỗi lo kia chỉ như thoáng qua rồi lại tan biến vào trong những đợt sóng, chỉ còn niềm tin ở lại làm điểm tựa cho tâm hồn. “Con nào chẳng tới bờ/ Dù muôn vời cách trở”. Niềm tin ấy không phải sự ảo tưởng, bồng bột mà là sự thức tỉnh chân lí đời sống nên nó trọn vẹn và tha thiết. Cuối cùng, sóng là hình ảnh của những khát vọng người phụ nữ. “Tan ra”- đó là khát vọng được hóa thân vào sóng để được tồn tại trong không gian rộng lớn của biển cả và cái vĩnh hằng của thời gian. Đó là khát vọng vĩnh viễn hóa tình yêu, dùng tình yêu để nối dài cuộc đời ngắn ngủi của con người. Khát vọng ấy lại làm ta nhớ tới câu chuyện nàng tiên cá hóa thân làm bọt biển để người mình yêu được hạnh phúc trọn vẹn. Phải chăng đó là bản tính hi sinh và dâng hiến của người phụ nữ? Mở đầu bài thơ là khát vọng được làm rõ mình, kết thúc lại bằng khát vọng được hòa mình của người phụ nữ.
Như vậy, hai ý kiến vẫn chưa thật toàn diện, chúng bổ sung cho nhau để đánh giá về nội dung bài thơ: vẻ đẹp hình tượng “sóng” và các cung bậc, trạng thái trong “Sóng”. Điều đó được thể hiện thành công qua những câu thơ mang đậm dấu ấn hồn thơ Xuân Quỳnh. Sóng không được vẽ ra bằng hình ảnh, đường nét mà bằng âm điệu độc đáo, thể thơ 5 chữ, lối gieo vần gián cách, ngắt nhịp linh hoạt gợi ra hình ảnh những con sóng cao thấp liên tiếp. Cách tổ chức ngôn từ theo nguyên tắc: hô ứng tương xứng, trùng điệp, gợi cái dào dạt, sôi trào mà miên man sâu lắng.
Xin mượn lời khẳng định của nhà phê bình Chu Văn Sơn thay cho lời kết: “Giờ đây, đặt chân dung nữ thi sĩ Xuân Quỳnh vào dòng thời gian, thì không chỉ đặt chị vào vị trí đầu của top thi sĩ cùng thời Ý Nhi, Lâm Thị Mỹ Dạ, Phan Thị Thanh Nhàn, Nhã Ca. Mà theo trục dọc, phải đặt chị trong cái mạch thưa thớt những nữ sĩ xuất chúng của thơ Việt như Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan… Xuân Quỳnh thực là một trong những gương mặt nữ sáng giá nhất của thơ Việt. Có lẽ vị trí ấy mới là điều công chúng nghệ thuật Việt hôm qua và hôm nay muốn dành cho nữ thi sĩ này.”

10. Tham Khảo Số 10
Bài thơ “Sóng” của Xuân Quỳnh là một tác phẩm tiêu biểu trong thơ Việt Nam. Xuân Quỳnh sử dụng hình tượng sóng để diễn đạt sâu sắc về khát vọng tình yêu, đồng thời thể hiện sự phong phú và đẹp đẽ của tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Tình yêu trong bài thơ không chỉ là truyền thống mà còn mang tính hiện đại, kết hợp giữa cái đẹp của quá khứ và sức sống mãnh liệt của hiện tại.
“Tình yêu mang tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời” được miêu tả qua những cảm xúc như nhớ nhung, giận hờn, khao khát, đồng thời tôn vinh tính chất tế nhị, kín đáo. Tình yêu “hiện đại” xuất hiện với sự tự do cá nhân và khao khát vượt qua mọi giới hạn. “Sóng” là biểu tượng cho những trạng thái cảm xúc đối lập như dữ dội - dịu êm, ồn ào - lặng lẽ. Những đặc điểm này của sóng thể hiện bản chất muôn đời của tình yêu.
Bài thơ sử dụng hình ảnh sóng để tương đồng với trái tim người con gái khi yêu. Sự đa dạng của sóng - từ dữ dội đến dịu êm, từ ồn ào đến lặng lẽ - phản ánh tâm hồn phức tạp, mâu thuẫn nhưng hài hòa của người phụ nữ. Sóng như khát vọng tình yêu, tìm đến cái rộng lớn, bao la, giống như trái tim người con gái khao khát vượt qua giới hạn cá nhân để tìm đến sự rộng lớn của tình yêu.
Hình ảnh sóng và nhân vật trữ tình “em” gặp nhau và tạo nên sự hòa quyện, giống như khát vọng tình yêu và nỗi nhớ của người con gái. Nỗi nhớ được diễn đạt một cách tinh tế qua cấu trúc thơ và ngôn ngữ. Cảm xúc của người con gái hiện lên qua những dòng thơ như “Lòng em nhớ đến anh, cả trong mơ còn thức” làm nổi bật tình yêu chân thành và thủy chung.
Bài thơ là sự kết hợp hoàn hảo giữa hình tượng sóng và tâm hồn người phụ nữ. Sự sáng tạo trong ngôn ngữ, cấu trúc thơ và ý tưởng làm cho “Sóng” trở thành một tác phẩm nghệ thuật đẹp, sâu sắc và lôi cuốn.
Xuân Quỳnh đã tạo nên một kiệt tác về tình yêu, nâng cao vị thế của người phụ nữ trong thơ Việt Nam.

