1. Bài văn thuyết minh về tác giả Nguyễn Du số 1
Nguyễn Du, nhà văn vĩ đại thời trung đại, đã để lại dấu ấn sâu đậm với kiệt tác “Truyện Kiều”. Cuộc đời và sự nghiệp của ông đầy bi hùng và tài năng, chinh phục cả thế giới văn chương. Bài văn này sẽ đưa bạn khám phá những khía cạnh đặc biệt của tác giả Nguyễn Du.
Nguyễn Du sinh vào ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu (tức ngày 3/1/1766), trong một gia đình quý tộc tại Thăng Long. Ông là con của Hoàng Giáp Nguyễn Nghiễm và bà Trần Thị Tần. Với tâm hồn nhân đạo và tài năng vượt trội, Nguyễn Du đã trascend lên nền văn hóa thế giới với “Truyện Kiều” – kiệt tác không lẫn vào đâu được.
Ông không chỉ là một quan nhân thành đạt mà còn là nhà thơ có tầm ảnh hưởng lớn. Tác phẩm thơ nổi tiếng của ông không chỉ giới hạn trong văn hóa Việt Nam mà còn được đánh giá cao trên trường quốc tế.
Bài văn thuyết minh này sẽ đưa bạn đi sâu vào thế giới tinh tế, tư duy sáng tạo và tâm hồn lý tưởng của tác giả Nguyễn Du. Hãy cùng khám phá!


2. Bài văn thuyết minh về tác giả Nguyễn Du số 3
Nhà thơ Tố Hữu đã viết trong bài thơ “Gửi cụ Nguyễn Du” như sau:
Nỗi niềm xưa nghĩ mà thương
Dẫu lìa ngọ ý còn vương tơ lòng
Nhân tình nhắm mắt chưa xong
Biết ai hậu thế khóc cùng Tố Như?
Vâng, chắc hẳn khi đọc những vần thơ ấy của nhà thơ Tố Hữu, mỗi người chúng ta lại hình dung về nhà thơ Nguyễn Du – biểu tượng nhân đạo chủ nghĩa, người để lại đóng góp lớn cho văn học Việt Nam ở nhiều mặt về nội dung và nghệ thuật.
Nguyễn Du, hay còn gọi là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, ông sinh năm 1765, mất năm 1820. Nguyễn Du lớn lên và sống ở Thăng Long, trong gia đình quý tộc. Quê nội của ông là xã Nghi Xuân, huyện Tiền Điền, tỉnh Hà Tĩnh – vùng đất của những làn điệu dân ca nhẹ nhàng, du dương. Mẹ của ông là bà Trần Thị Tần – người có tài đàn hát. Vợ của Nguyễn Du quê ở Quỳnh Côi, trấn Nam Sơn (nay thuộc tỉnh Thái Bình) – nơi ông đã sống trong thời gian “mười năm gió bụi”. Những trải nghiệm này giúp Nguyễn Du tiếp xúc với nhiều văn hóa khác nhau và hình thành vốn hiểu biết đa dạng.
Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình có nhiều người làm quan, với truyền thống khoa cử. Điều này tạo điều kiện cho ông học hành, nghiên cứu kinh sử, và am hiểu về tư tưởng Nho giáo. Gia đình ông cũng yêu chuộng văn học, thơ văn bằng chữ Nôm. Những yếu tố về quê hương và gia đình đã làm nền tảng cho sự tổng hợp nghệ thuật trong tâm hồn và sáng tác của Nguyễn Du.
Nguyễn Du sống trong một thời đại đầy biến động, với cuộc sống nhân dân khốc liệt. Thời kỳ này chứng kiến sự chia cắt của đất nước, khủng hoảng xã hội và loạn lạc. Điều này ảnh hưởng đến tư tưởng và sự sáng tác của Nguyễn Du, người sống một cuộc đời đầy bi kịch và vất vả.
Nguyễn Du đã có nhiều đóng góp cho văn học Việt Nam với nhiều tác phẩm xuất sắc, sáng tác bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Những tác phẩm chữ Hán như “Thanh Hiên thi tập,” “Nam trung tạp ngâm,” và “Bắc hành tạp lục” đã làm phong phú di sản văn hóa của ông. Sáng tác bằng chữ Nôm, đặc biệt là Truyện Kiều, đã làm giàu ngôn ngữ dân tộc và trở thành kiệt tác của văn học Việt Nam.
Nguyễn Du không chỉ là nhà thơ, nhà văn lớn của dân tộc, mà còn là nhà nhân đạo chủ nghĩa. Thơ văn của ông luôn phản ánh chân thực hiện thực xã hội và chứa đựng chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc. Với nghệ thuật độc đáo, Nguyễn Du là đại thi hào của Việt Nam, là nguồn cảm hứng vô tận cho thế hệ sau.


3. Bài văn thuyết minh về tác giả Nguyễn Du số 2
Nguyễn Du, một thi sĩ vĩ đại, hình nhân văn hóa toàn cầu, tận tâm với con người và nhân quả. Ông có khả năng 'nhìn thấu sáu cõi' và trái tim lưu giữ 'nghĩ suốt ngàn đời' (từ Mộng Liên Đường của chính ông).
Tố Như - tên thật Nguyễn Du, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông ra đời năm 1765 (Ất Dậu) trong một gia đình quan trọng dưới triều Lê, Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm, người giữ chức Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, phụ nữ Kinh Bắc tài năng xướng ca.
Quê hương của Nguyễn Du là mảnh đất kiệt xuất, hiếu học và trọng tài. Gia đình Nguyễn Du có truyền thống học vấn uyên bác, nhiều tài năng văn học. Gia đình và quê hương là 'mảnh đất phì nhiêu' nuôi dưỡng tài năng của Nguyễn Du. Ông lớn lên trong gia đình ấm áp. Đến 10 tuổi, ông mồ côi cả cha lẫn mẹ. Cuộc đời của Nguyễn Du chứng kiến nhiều sóng gió: sống nhờ Nguyễn Khản (anh cùng cha khác mẹ làm Thừa tướng phủ chúa Trịnh) nhưng Nguyễn Khản bị giam và chạy trốn. Năm 19 tuổi, Nguyễn Du thi đỗ tam trường, sau đó làm quan ở Thái Nguyên. Sau sự sụp đổ của nhà Lê (1789), Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình, nhưng vợ ông mất. Ông rồi về quê cha, thậm chí lên Bắc Ninh quê mẹ. Cuộc sống của ông đầy biến động và thăng trầm, nhưng luôn gắn liền với nhân dân và những nỗi khó khăn của họ. Sự đau khổ trong cuộc đời là nguồn cảm hứng lớn, tạo nên thiên tài Nguyễn Du - nhà nhân đạo lỗi lạc. Mặc dù miễn cưỡng làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du vẫn giữ tính trầm lặng, nhiều tâm sự không thể chia sẻ với ai.
Tư tưởng của Nguyễn Du phức tạp và đầy mâu thuẫn. Ông trung thành với nhà Lê, không hợp tác với nhà Tây Sơn, và bất đắc dĩ phải làm quan cho nhà Nguyễn. Ông là người có lý tưởng và hoài bão, nhưng trước thách thức của cuộc sống, Nguyễn Du coi mọi thứ là hão huyền, rơi lệ trước những gian nan của cuộc đời. Nguyễn Du đã đứng giữa cuộc bão của lịch sử trong giai đoạn bi kịch, và bi kịch ấy đã làm nên tài năng của ông và tác phẩm độc đáo chưa từng có trong văn học Việt Nam.
Nguyễn Du để lại ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, tổng cộng 250 bài thơ Nôm. Tác phẩm xuất sắc nhất của Nguyễn Du là 'Đoạn trường tân thanh' (Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và một số sáng tác khác mang đậm nét dân gian như 'Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu' và 'Vè Thác lèn trai phường nón'. Trong đoạn mở đầu của Truyện Kiều, Nguyễn Du tâm sự:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Chính 'những điều trông thấy' làm cho tác phẩm của Nguyễn Du mang đầy chiều sâu hiện thực. 'Đau đớn lòng' làm cho Nguyễn Du trở thành nhà thơ nhân đạo lỗi lạc.
Nguyễn Du là nhà thơ 'đứng trong lao khổ, mở hồn để đón nhận tất cả những vang vọng của cuộc đời' (Nam Cao). Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giống như một bản nhật ký về cuộc sống và tâm hồn. Cuộc sống đầy đau khổ, bệnh tật, cùng với những diễn biến lịch sử... được Nguyễn Du ghi chép một cách chân thực (Đêm thu: Tình cờ làm thơ; Ngồi dèm…). Nguyễn Du mô tả sự đối lập giữa giàu - nghèo trong 'Sở kiến hành' hoặc 'Thái Bình mại giả ca'... Ông phản đối việc triệu hồi tinh thần của Khuất Nguyên về nước Sở của Tống Ngọc, vì nước Sở 'cát bụi lấm cả áo người', toàn bộ 'vuốt nanh', 'nọc độc', 'xé thịt người nhai ngọt xớt'... Nước Sở của Khuất Nguyên hay nước Việt của Tố Như chỉ là hiện thực: Ác đang hoành hành khắp nơi, người tốt không có nơi trú ngụ. Truyện Kiều sử dụng bối cảnh đời Minh (Trung Quốc), nhưng trước hết là bản cáo trạng ghi lại 'những điều trông thấy' của Nguyễn Du về thời kỳ ông sống.
Nguyễn Du phản ánh mạnh mẽ, đầy quyết liệt, với xu hướng hiện thực sâu sắc trong sáng tác của mình. Tác phẩm của ông không chỉ là bản cáo trạng mà còn là khúc ca về tình yêu tự do, là giấc mơ về công lý tự do 'tháo cũi sổ lồng'. Truyện Kiều không chỉ là bản cáo trạng mà còn là bài hát ca về tình yêu tự do, trong sáng, là giấc mơ về công lý tự do 'tháo cũi sổ lồng'. Toàn bộ Truyện Kiều chủ yếu là tiếng khóc xé ruột vì thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là của phụ nữ.
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Nguyễn Du không chỉ đau khổ, mà còn tôn trọng và ca ngợi vẻ đẹp, những khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của ông vượt qua ràng buộc của ý thức phong kiến và tôn giáo để khẳng định giá trị tự thân của con người. Đó là tư tưởng sâu sắc nhất mà ông mang lại cho văn học Việt Nam trong thời kỳ của mình. Nguyễn Du đã góp phần lớn về mặt tư tưởng và nghệ thuật.
Thơ chữ Hán của Nguyễn Du đơn giản nhưng tinh tế và tài năng. Thơ Nôm của ông thậm chí còn là đỉnh cao rực rỡ. Nguyễn Du sử dụng hai thể thơ dân tộc một cách tài tình: Lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển. Nguyễn Du đã đóng góp một phần lớn, quan trọng cho sự phát triển giàu đẹp của ngôn ngữ văn học Tiếng Việt: Tỉ lệ từ Hán - Việt giảm đi đáng kể, câu thơ tiếng Việt vừa thông dụng vừa trang nhã, diễm lệ nhờ vận luật chỉnh tề, ngắt nhịp đa dạng, tiểu đối phong phú, biến hóa. Thơ Nguyễn Du xứng đáng là đỉnh cao của ngôn ngữ văn học Tiếng Việt trong thời kỳ Trung Đại. Đặc biệt, Truyện Kiều của Nguyễn Du là 'tập đại thành' của ngôn ngữ văn học dân tộc. Mượn lời của nhà thơ Tố Hữu:
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”.


4. Bài văn thuyết minh về tác giả Nguyễn Du số 5
Quá khứ u sầu, nghĩ đến mà lòng thương
Dẫu xa cách, nhớ vẫn âm thầm khắc sâu
Nhân thế nhắm mắt chưa lìa
Đau lòng ai kể nỗi khóc của Tố Như?
(Tố Hữu – Gửi tới cụ Nguyễn Du)
Gần ba thế kỷ đã trôi qua, nhưng những dòng thơ ngọt ngào và tình thương của Nguyễn Du vẫn giữ nguyên giá trị. Tác phẩm của ông thể hiện những nỗi buồn uất, những tâm trạng thổn thức đến nỗi loạn nhạc.
Nguyễn Du được coi là thiên tài, danh nhân văn hóa không chỉ của Việt Nam mà của cả nhân loại. Nếu nói đến Nguyễn Du, chúng ta không thể không nhắc đến trái tim luôn đau đớn của con người. Mọi đau buồn, nỗi thống khổ của cuộc sống con người đều có thể khiến trái tim ấy chảy máu. Từ đó, Nguyễn Du sáng tác những dòng thơ đau lòng và tràn đầy tình người. Trong cuộc sống, ông cũng trải qua không ít gian nan, biến động mà bắt đầu cho kiệt tác Truyện Kiều:
Trải qua cuộc đời dày trắng
Những biến cố đau lòng, thấy mà đau đớn.
Nguyễn Du sinh năm 1765, mất năm 1820, tên chữ là Tố Như, quê ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong một gia đình phong kiến quý tộc có truyền thống văn chương tại Thăng Long. Năm 1802, ông được cử đi sứ Trung Quốc lần thứ hai, nhưng trước khi kịp bắt đầu hành trình, ông mắc bệnh và qua đời. Nguyễn Du để lại cho văn hóa và nền văn hóa một tuyển tập văn chương đồ sộ, trong đó Truyện Kiều là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.
Cuộc đời Nguyễn Du liên quan đến nhiều biến cố lịch sử: chế độ phong kiến đang trải qua khủng hoảng nặng nề, các cuộc nổi dậy nông dân diễn ra khắp nơi, điển hình là cuộc nổi dậy Tây Sơn. Ông trải qua nhiều biến động, từ cuộc sống xa hoa, quyền quý đến những ngày lưu lạc giữa đất khách quê người. Điều này giúp ông tích luỹ được sự hiểu biết sâu sắc về cuộc sống và nắm vững ngôn ngữ của nhân dân. Điều này có thể là nền tảng cho tư tưởng nhân quả trong thơ văn của Nguyễn Du?
Đọc và khám phá những tác phẩm của Nguyễn Du, chúng ta thấy ông thấu hiểu nhất về những thời điểm đau thương của cuộc sống. Đó là những khi địa vị con người trở nên mong manh, bị đàn áp, bị coi thường. Cả xã hội và số mệnh mù quáng đã hợp tác để quấy rối con người. Trong những thời điểm như vậy, đau đớn của con người trở nên rõ ràng. Đó là lúc tư tưởng nhân quả trong thơ Nguyễn Du được thể hiện qua sự thù hận của ông với những thế lực đàn áp con người:
Thù hận từ sự thiên nan đau thương
Vận mệnh bất công tự do cư.
(Đọc Tiểu Thanh Kí)
Ông luôn thể hiện nỗi đau một cách đau đớn trước những số phận bị đè nén, sự hủy hoại tài năng:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Đọc Tiểu Thanh Kí)
Ông luôn thể hiện lòng thương cảm chân thành đối với những người bị áp bức, bị hủy hoại. Nguyễn Du tìm thấy bản thân mình trong họ, và họ trong ông. Do đó, lời thơ của ông là sự chân thành tận cùng. Ông đổ hết những đau thương của trái tim vào những dòng viết để tạo nên những 'tiếng thơ ai động đất trời'.
Nguyễn Du đã sống và trải nghiệm mùi vị đắng của cuộc sống. Ông không chỉ cảm thấy xót xa vì những người phụ nữ, mà còn là tiếng khóc lớn của những tâm hồn bi kịch. Tất cả họ, cho dù sống trong xa hoa hay lẫn lộn trong bùn đất, khi chết đều trở thành những linh hồn bất hạnh, bất hạnh, đau khổ, không có nơi nào dựa dẫm. Nguyễn Du khóc cho họ, khóc cho tất cả. Trong khi sống, ông phân biệt rõ ràng giữa người đúng và người sai, giữa người yêu và kẻ ghét nhưng khi họ chết, Nguyễn Du yêu thương tất cả. Ông sống trong thế giới vật chất nhưng dường như lại chìm đắm trong thế giới tinh thần để đến gần và chia sẻ với hàng triệu tâm hồn oan trái:
Sống đã trải qua một cuộc sống đầy lo lắng
Chết lại nhờ nhảy vào lá đa.
Người đọc có cảm giác như chìm vào im lặng trước những dòng thơ đau đớn như một tiếng thở dài, một tiếng rên đau đớn. Nguyễn Du với 'đôi mắt nhìn xuyên sáu cõi' và 'trái tim suy tư suốt nghìn đời' (Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân) nhìn thấy những tâm hồn lang thang rơi vào một nơi không rõ trong bóng tối sâu thẳm. Người cũng rơi nước mắt trong từng chữ viết khiến hàng triệu người đọc suốt nhiều thế hệ cảm thấy nhức nhối.
Khi nhắc đến Nguyễn Du, không thể không nhắc đến Truyện Kiều, đỉnh cao của sự nghiệp văn hóa của ông và văn học Việt Nam. Mặc dù Truyện Kiều mượn cốt truyện từ tác phẩm Trung Quốc Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân, nhưng Nguyễn Du đã có sự sáng tạo để tạo nên một kiệt tác độc đáo đại diện cho tình cảm nhân bản và đau thương thân phận con người. Truyện Kiều cũng là một bài hát về tình yêu tự do và ước mơ về công bằng với những triết lý mà Nguyễn Du truyền đạt qua từng nhân vật, từng sự kiện. Thúy Kiều đã băng qua vườn khuya hay băng qua hàng rào phong kiến để đi theo tiếng gọi từ trái tim?
Truyện Kiều là tiếng kêu thét về những nỗi đau của con người, tiếng khóc lóc về tình cảm cao quý bị chia lìa, đau thương cho nhân phẩm bị chà đạp. Qua Truyện Kiều, Nguyễn Du đã viết lên một bản cáo trạng mạnh mẽ, tố cáo những thế lực đàn áp quyền sống của con người. Đó là những kẻ như quan xử án, Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh, Hoạn Thư, Tổng đốc Hồ Tôn Hiến... Nguyễn Du luôn đau đáu trước đau thương chung của con người, và trước bức tranh tối tăm, ông đã phát ra tiếng la thét bi thương trước những thế lực tàn ác – không chỉ con người mà còn một thế lực vô hình khác, nhưng cũng độc ác: thế lực của tiền bạc.
Với những giá trị tư tưởng và nghệ thuật sâu sắc, độc đáo, những tác phẩm văn chương của Nguyễn Du trở thành những kiệt tác lưu giữ tinh thần dân tộc, với tư tưởng nhân quả bao trùm. Một nhận định của Mộng Liên Đường về Nguyễn Du như sau: “Lời văn chảy ra như máu ở đầu ngòi bút, nước mắt ngấm vào trang giấy, khiến người đọc cảm nhận được sự đau đớn, như đau lòng”.
Với đóng góp to lớn của mình, Nguyễn Du xứng đáng là đại thi hào dân tộc, là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam và là danh nhân văn hóa của thế giới được cả nhân loại tôn vinh.


5. Đoạn văn giới thiệu về tác giả Nguyễn Du thứ 4
'Một thế kỷ trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là đối thù.'
Đọc hai dòng thơ, người đọc nhận ra ngay đó là 'Truyện Kiều' - tác phẩm xuất sắc của đại thi hào dân tộc, Nguyễn Du. Ông, một nhà thơ nhân đạo, lỗi lạc, đã sử dụng tài năng văn chương để kể những bài học về nhân đạo cho thế hệ sau.
Nguyễn Du, hay còn gọi là Tố Như, Thanh Hiên, sinh năm 1765 và mất năm 1820. Quê cha ở Hà Tĩnh, quê mẹ ở Bắc Ninh, nhưng ông chào đời tại Thăng Long. Với nền văn hóa đa dạng từ những vùng miền khác nhau, gia đình là nền tảng để ông phát triển thành một nhà thơ uyên bác, đại thi hào dân tộc - Nguyễn Du.
Là con của một quan to trong triều đình, cuộc sống nhung lụa đã được Nguyễn Du trải qua từ nhỏ. Tuy nhiên, khi ông mười tuổi, cả cha và mẹ đều qua đời, làm ông trở thành mồ côi. Từ đó, cuộc sống của ông trở nên gập ghềnh, và ông trải qua những biến cố lịch sử đầy thách thức của xã hội phong kiến. Cảm nhận cuộc sống của nhân dân, nhìn nhận mặt tiêu cực của xã hội, trái tim ông đau đớn, tràn ngập tình yêu thương dành cho nhân dân. Ông chỉ có thể thể hiện tâm huyết của mình qua những câu thơ và văn bản.
Về mặt văn học, Nguyễn Du để lại một di sản văn chương đồ sộ cho thế hệ sau. Ông có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. Các tác phẩm chữ Hán của ông được đánh giá cao về sự giản dị, tinh tế và tài năng. Còn với thơ chữ Nôm, Nguyễn Du để lại hai kiệt tác là 'Đoạn trường tân thanh' (Truyện Kiều) và 'Văn tế thập loại chúng sinh'.
Truyện Kiều có thể coi là tác phẩm lớn nhất trong các tác phẩm của ông. Nguyễn Du chuyển ngữ từ một câu chuyện Trung Quốc và tác phẩm này đã được đón nhận nồng nhiệt bởi nhân dân Việt Nam, đặc biệt là qua nhân vật Kiều. Hiện nay, Truyện Kiều vẫn giữ được sức hút với nhiều người đọc và người hâm mộ. Tác phẩm đã được dịch sang nhiều ngôn ngữ khác nhau như Pháp, Anh, Trung... Nguyễn Du là một danh nhân văn hóa thế giới được UNESCO công nhận. Người đọc có thể dễ dàng nhận ra tầm ảnh hưởng lớn mà Nguyễn Du đã đóng góp cho ngôn ngữ Tiếng Việt, làm cho nó trở nên trong sáng, tinh tế và phong phú, đặc biệt là trong Truyện Kiều. Nghệ thuật mô tả tâm lý nhân vật của ông rất sắc bén, dễ hiểu và đầy cảm xúc.
Đóng góp của Nguyễn Du cho văn học Việt Nam là không lớn. Ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới. Nguyễn Du xứng đáng với danh hiệu này, không chỉ vì ông là một nhà thơ xuất sắc mà còn vì ông là người có tấm lòng nhân ái sâu sắc, yêu nước và thương dân, luôn mong muốn một cuộc sống bình yên, hạnh phúc cho dân tộc.


6. Về Tác Giả Nguyễn Du - Bài Thuyết Minh Số 7
Nguyễn Du, nhà thơ vĩ đại của dân tộc, là hình mẫu văn hóa toàn cầu, và là nhà nhân đạo với 'con mắt nhìn thấu sáu cõi' và 'tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời' (Mộng Liên Đường chủ nhân).
Nguyễn Du, tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên, xuất thân từ làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 (Ất Dậu) trong một gia đình quan to dưới triều Lê, Trịnh. Cha là Nguyễn Nghiễm, từng là Tể tướng 15 năm. Mẹ là Trần Thị Tần, người phụ nữ Kinh Bắc có tài xướng ca.
Quê hương Nguyễn Du là nơi trí lực, hiếu học và tài năng văn học hội tụ. Gia đình Nguyễn Du truyền thống uyên bác, nơi 'mảnh đất phì nhiêu' nuôi dưỡng thiên tài.
Thời thơ ấu, Nguyễn Du lớn lên trong nhung lụa. Mồ côi cả cha lẫn mẹ từ năm 10 tuổi, ông trải qua những sóng gió trong cuộc quốc biến ba đào. Thi đỗ tam trường năm 19 tuổi, Nguyễn Du làm quan ở Thái Nguyên. Nhà Lê sụp đổ (1789), Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình, rồi về quê cha, thậm chí lên Bắc Ninh quê mẹ, sống không nhà ở kinh thành Thăng Long.
Qua mười năm lang thang ngoại đất Bắc, Nguyễn Du chia sẻ niềm vui, nỗi buồn của nhân dân, đặc biệt là những người lao động, phụ nữ, trẻ em, cầm ca, ăn mày... những con người 'dưới đáy' xã hội. Cuộc sống đầy bi kịch đã làm nên thiên tài Nguyễn Du - nhà nhân đạo lớn.
Mặc dù miễn cưỡng khi làm quan cho nhà Nguyễn, Nguyễn Du vẫn làm quan trung thành. Năm 1813, ông được thăng chức Học sĩ điện cần Chánh và cử đi Trung Quốc. Năm 1820, ông được cử đi lần thứ hai, nhưng trước khi kịp đi, ông qua đời đột ngột ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn (18-9-1820). Suốt thời gian làm quan, Nguyễn Du sống trầm lặng, ít nói, có nhiều tâm sự không biết chia sẻ.
Tư tưởng phức tạp và mâu thuẫn của Nguyễn Du: trung thành với nhà Lê, không hợp tác với nhà Tây Sơn, bất đắc dĩ làm quan cho nhà Nguyễn. Ông là người có lí tưởng, có hoài bão, nhưng trước cuộc đời khó khăn, Nguyễn Du coi mọi thứ là hão huyền, lại rơi lệ trước những cảnh đau đớn. Ông đứng giữa giông tố cuộc đời trong một giai đoạn lịch sử đầy bi kịch, tạo nên tác phẩm thơ văn sâu sắc chưa từng có trong văn học Việt Nam.
Nguyễn Du có ba tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, tổng cộng 250 bài thơ Nôm. Ông là tác giả của kiệt tác Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn) và một số tác phẩm dân gian như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu; và Thác lời trai phường nón. Nguyễn Du tâm sự ở đầu Truyện Kiều:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
'Những điều trông thấy' làm cho tác phẩm của Nguyễn Du có chiều sâu hiện thực. 'Đau đớn lòng' khiến Nguyễn Du trở thành nhà thơ nhân đạo lỗi lạc.
Nguyễn Du là nhà thơ 'đứng trong lao khổ mà mở hồn ra đón lấy tất cả những vang vọng của cuộc đời' (Nam Cao). Thơ chữ Hán của Nguyễn Du giống những trang nhật kí đời sống, nhật kí tâm hồn. Cảnh sống lay lắt, bệnh tật, thực tại lịch sử... đều được Nguyễn Du ghi lại một cách chân thực (Đêm thu: Tình cờ làm thơ; Ngồi dèm…).
Nguyễn Du nêu rõ sự đối lập giữa giàu nghèo trong Sở kiến hành hay Thái Bình mại giả ca. Ông phản đối việc gọi hồn Khuất Nguyên về nước Sở của Tống Ngọc, vì nước Sở 'cát bụi lấm cả áo người', toàn bộ 'vuốt nanh”, “nọc độc”, “xé thịt người nhai ngọt xớt”… Nước Sở cùa Khuất Nguyên và nước Việt của Tố Như đều là hiện thực: ác độc hoành hành khắp nơi, người tốt không có chỗ trú ngụ.
Truyện Kiều mặc dù mượn bối cảnh đời Minh (Trung Quốc), nhưng là bản cáo trạng đanh thép ghi lại 'những điều trông thấy' của Nguyễn Du về thời đại đang sống. Phê phán mạnh mẽ, là khuynh hướng hiện thực sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du.
Sáng tác của Nguyễn Du chú trọng vào tư tưởng nhân đạo, đặc biệt là niềm quan tâm sâu sắc tới thân phận con người. Truyện Kiều không chỉ là bản cáo trạng, mà còn là khúc ca về tình yêu tự do, giấc mơ tự do công lí “tháo cũi sổ lồng”. Nhưng toàn bộ tác phẩm chủ yếu là tiếng khóc xé ruột cho thân phận và nhân phẩm con người bị chà đạp, đặc biệt là người phụ nữ.
“Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Không chỉ xé ruột, Nguyễn Du còn trân trọng, ca ngợi vẻ đẹp, cùng những khát vọng sống, khát vọng tình yêu hạnh phúc. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du vượt qua ràng buộc của phong kiến và tôn giáo để khẳng định giá trị tự thân con người. Đó là tư tưởng sâu sắc mà ông để lại cho văn học Việt Nam trong thời kỳ đó.
Nguyễn Du đóng góp lớn về mặt tư tưởng và nghệ thuật. Thơ chữ Hán của ông giản dị mà tinh luyện, tài hoa. Thơ Nôm của Nguyễn Du thực sự là đỉnh cao rực rỡ. Ông tài tình sử dụng hai thể thơ dân tộc: lục bát (Truyện Kiều) và song thất lục bát (Văn tế thập loại chúng sinh). Đến Nguyễn Du, thơ lục bát và song thất lục bát đã đạt đến trình độ hoàn hảo, mẫu mực, cổ điển.
Nguyễn Du là người làm phong phú và đẹp ngôn ngữ văn học Tiếng Việt: tỷ lệ từ Hán - Việt giảm, câu thơ tiếng Việt thông tục và trang nhã, diễm lệ nhờ vần luật chỉnh tề, ngắt nhịp đa dạng, tiểu đối phong phú, biến hóa. Thơ Nguyễn Du là đỉnh cao của văn học Tiếng Việt Trung Đại. Truyện Kiều của ông là “tập đại thành” về ngôn ngữ văn học dân tộc.


7. Bài viết giới thiệu về tác giả Nguyễn Du số 6
Văn hóa văn học của Việt Nam được hình thành bởi nhiều nhà văn tài năng, trong đó, Nguyễn Du luôn là biểu tượng xuất sắc nhất của văn hóa dân tộc qua mọi thời kỳ.
Nguyễn Du, hay Tố Như, hiệu Thanh Hiên, quê gốc Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh, nhưng sinh ra tại Thăng Long vào ngày 25 tháng 11 năm Ất Dậu (tức 3 tháng 11 năm 1765). Sinh ra trong một gia đình quý tộc danh giá, nơi có nhiều người làm quan và nhiều tác giả văn học, Nguyễn Du có cha là Nguyễn Nghiễm, từng là tể tướng triều Lê, và mẹ là Trần Thị Tần, vợ thứ ba của cha, người xuất thân từ một gia đình bình dân ở Bắc Ninh, vốn rất giỏi hát xướng. Nguyễn Du sớm kế thừa những truyền thống tốt đẹp của gia đình.
Sau thời kỳ ấu thơ hạnh phúc, năm 10 tuổi, tang thương bắt đầu khi cha mất, tiếp theo đó, mẹ cũng qua đời hai năm sau. Nguyễn Du phải đến sống nhờ nhà người anh cùng cha khác mẹ, Nguyễn Khản. Năm 19 tuổi, thi hương đậu tam trường, sau đó làm quan võ ở Thái Nguyên. Năm 1789, nhà Lê sụp đổ, Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình, rồi tiếp đó về sống ở Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Đó là giai đoạn 'mười năm gió bụi' đầy sóng gió và khổ cực của nhà thơ.
Năm 1802, nhà Nguyễn được lập, Nguyễn Du không có lựa chọn, phải miễn cưỡng ra làm quan. Ông từng làm tri huyện, tri phủ Thường Tín, cai bạ Quảng Bình. Năm 1813, ông thăng chức học sĩ điện Cần Chánh và được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc. Sau khi trở về nước, ông thăng chức Tham tri bộ Lễ. Năm 1820, ông được cử làm Chánh sứ đi Trung Quốc lần nữa, nhưng trước khi kịp đi, ông mất đột ngột vào ngày 10 tháng 8 năm Canh Thìn trong một đợt dịch lớn.
Trải qua nhiều biến cố thăng trầm, Nguyễn Du để lại một di sản văn học vô song: phong phú về nội dung, xuất sắc về thể hiện nghệ thuật. Nguyễn Du sáng tác cả bằng chữ Hán và chữ Nôm. Thơ chữ Hán của ông bao gồm ba tập: Thanh Hiên thi tập, viết khi ông sống ở quê vợ Thái Bình và quê nhà Nghi Xuân; Nam trung tạp ngâm, viết trong thời gian ông làm quan ở Quảng Bình; Bắc hành tạp lục, là tập thơ chữ Hán xuất sắc nhất, tập hợp những sáng tác khi Nguyễn Du đi sứ ở Trung Quốc.
Trong những tập thơ này, có nhiều bài đặc sắc như Độc Tiểu Thanh kí, sở kiến hành, Long Thành cầm giả ca, Thái Bình mại ca giả. Với thơ chữ Nôm, Nguyễn Du để lại kiệt tác Truyện Kiều và một tác phẩm nổi tiếng khác là 'Văn tế thập loại chúng sinh”.
Những sáng tác của Nguyễn Du thể hiện khả năng bao quát hiện thực và cảm nhận nhạy bén sắc sảo về những vấn đề lớn của con người và thời đại. Cuộc sống hiện thực với những vấn đề đau lòng được Nguyễn Du mô tả một cách trung thực và xúc động. Qua sự phản ánh đó, độc giả cũng cảm nhận được ý thức phản kháng xã hội, đặc biệt là ý thức khẳng định, tôn vinh hạnh phúc của con người, của nhà thơ.
Trái tim của đại thi hào luôn đồng cảm với niềm vui và nỗi buồn của con người khắp mọi nơi: từ người ca nữ đất Long Thành tài năng và sắc đẹp, đến những cảnh chiều tà xế bóng đau lòng (Long Thành cầm giả cá); từ nàng Kiều tài năng và đẹp hơn người nhưng số phận bất hạnh (Truyện Kiều); đến người hát rong (Thái Bình mại ca giả), những người ăn xin (Sở kiến hành), và cả những linh hồn tội lỗi đang lang thang khắp thiên địa (Văn chiêu hồn)… tất cả sống động trong tâm hồn của Nguyễn Du. Hơn hết, Nguyễn Du là một nhà hiện thực và nhân đạo vĩ đại trong văn chương mọi thời đại, với cái nhìn sâu sắc qua sáu cõi và tâm hồn đầy tình yêu thương và đau đớn cho mỗi cuộc sống bất hạnh trên thế gian.
Điều đặc biệt, sáng tác của Nguyễn Du là minh chứng cho một nghệ thuật đạt đến đẳng cấp của một bậc thầy. Ngôn ngữ văn chương, đặc biệt là tiếng Việt, đạt đến đỉnh cao của sự lưu loát, tinh tế, tự nhiên, có khả năng thể hiện sâu sắc về cuộc sống và tâm hồn con người. Đây cũng là ngôn ngữ kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ bác học và ngôn ngữ bình dân, tạo ra nhiều sắc thái biểu hiện đa dạng.
Nguyễn Du còn thành công trong việc xây dựng nhân vật. Ông để lại nền văn hóa những nhân vật bất hủ. Thế giới nội tâm phức tạp và tinh vi của con người dường như được khám phá toàn diện trong tác phẩm của ông. Tác phẩm của Nguyễn Du đạt tới mẫu mực của nghệ thuật cổ điển.
Qua hơn năm mươi năm sống giữa thế gian, dù gặp nhiều bi kịch đau lòng, thậm chí mất phương hướng trong những biến động của lịch sử, Nguyễn Du vẫn là con người tài năng, là trái tim luôn chứa đựng nhiều tình yêu và đau thương vô hạn đối với mỗi cuộc sống bất hạnh trên thế gian. Nguyễn Du là biểu tượng của tài năng và tâm hồn sáng tạo, ngày càng tỏa sáng qua thời gian.


8. Cuộc đời huyền thoại của nhà văn tài năng Nguyễn Du
Hiệu là Tố Như, Thanh Hiên, con Nguyễn Nghiễm, làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (Nghệ Tĩnh) văn chương vượt bậc, nhưng học vị chỉ là tam trường (tú tài). Nguyễn Du trải qua những thách thức khó khăn hồi tuổi trẻ. Mười một tuổi mồ côi cha, mười ba tuổi mất mẹ, suốt đời trai trẻ ăn nhờ ở đâu: hoặc ở nhà anh ruột (Nguyễn Khản), nhà anh vợ (Đoàn Nguyễn Tuấn), có lúc làm con nuôi của võ quan họ Hà, và nhận chức nhỏ: chánh thủ hiệu uý. Nguyễn Du trải qua 10 năm thăng trầm. Năm 1802, trở thành quan trong triều Nguyễn và từng bước thăng tiến, từ tri huyện lên đến tham tri (1815), được cử làm chánh sứ sang Tàu (1813). Ông qua đời vì bệnh thời khí (dịch tả), không trải qua giai đoạn già, đúng khi chuẩn bị làm chánh sứ sang nhà Thanh lần thứ hai.
Nguyễn Du để lại nhiều tác phẩm xuất sắc. Thơ chữ Hán như Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục. Cả ba tập này, nay đã được sưu tầm thành công 249 bài nhờ công sức của nhiều người. Lời thơ tinh tế, nhiều bài phản ánh hiện thực bất công trong xã hội, thể hiện lòng thương xót đối với nạn nhân, phê phán các nhân vật chính diện và phản diện trong lịch sử Trung Quốc, một cách tinh tế. Một số bài như Phản chiêu hồn, Thái Bình mại ca giả, Long thành cầm giả ca đã thể hiện rõ lòng ưu ái trước vận mệnh con người.
Những bài viết về Thăng Long, về quê hương và cảnh vật ở những nơi Nguyễn Du đã đi qua đều phản ánh sâu sắc nỗi buồn thương. Nguyễn Du còn kết nối mạnh mẽ với cuộc sống nông thôn, tự gọi mình là Hồng Sơn liệp hộ khi săn thì, là Nam Hải điếu đồ khi chài. Ông sáng tác những bài ca dân ca như Thác lời con trai phường nón, văn tế như Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu, chứng minh ông đã tham gia hoạt động văn nghệ dân gian với các phường vải, phường thủ công ở Nghệ Tĩnh.
Tác phẩm nổi bật của thiên tài Nguyễn Du là Đoạn trường tân thanh và Văn tế thập loại chúng sinh, đều sử dụng quốc âm. Đoạn trường tân thanh, hay còn gọi là Truyện Kiều, là một truyện thơ lục bát. Cả hai tác phẩm đều xuất sắc, tràn đầy tinh thần nhân đạo, phản ánh mạch xã hội bất công, cuộc sống đầy thăng trầm. Tác phẩm còn cho thấy trình độ nghệ thuật tuyệt vời của ông.
Truyện Kiều đóng vai trò quan trọng trong văn hóa Việt Nam. Nhiều nhân vật trong Truyện Kiều trở thành biểu tượng cho những hình mẫu xã hội cũ, mang đặc điểm đặc trưng như Sở Khanh, Hoạn Thư, Từ Hải, và trở thành thành ngữ Việt Nam. Nhiều cảnh, ngôn ngữ trong tác phẩm đã trở thành phần của truyền thống ca dao, tục ngữ. Từ xưa đến nay, Truyện Kiều là đề tài của nhiều nghiên cứu, bình luận và cuộc thảo luận. Ngay từ khi công bố (đầu thế kỷ XIX), nhiều học giả, nhà văn, thi sĩ đã thảo luận về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Đầu thế kỷ XX, cuộc tranh luận về Truyện Kiều ngày càng sôi nổi, đặc biệt là cuộc phê phán của các nhà văn Ngô Đức Kế, Huỳnh Thúc Kháng phản đối phong trào cổ điển Truyện Kiều do Phạm Quỳnh đề xuất (1924).
Năm 1965, Nguyễn Du chính thức được nhà nước tổ chức lễ kỷ niệm, Hội đồng hòa bình thế giới vinh danh ông trong danh sách những nhà văn hoá thế giới. Nhà lưu niệm Nguyễn Du được xây dựng tại làng quê Tiên Điền. Trường viết văn được thành lập để đào tạo thế hệ tác giả trẻ mang tên của ông.


9. Cuộc hành trình tuyệt vời của nhà văn tài năng Nguyễn Du
Nguyễn Du, danh nhân văn hóa nổi tiếng, và ông còn là nhà văn xuất sắc sáng tạo ra kiệt tác “Truyện Kiều”, một tác phẩm văn học kinh điển của Việt Nam được dịch sang nhiều ngôn ngữ trên thế giới.
Nguyễn Du, tên chữ Tố Như, xuất thân từ làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh năm 1765 và lớn lên trong gia đình nổi tiếng với nhiều thành viên làm quan trong triều đình. Cả cha và mẹ của ông đều là những nhân vật được tôn kính trong xã hội.
Thời thơ ấu, Nguyễn Du trải qua cuộc sống phồn thịnh nhưng mọi thay đổi khi cha mẹ qua đời, ông phải đối mặt với cuộc sống khó khăn, gian nan. Trải qua những thời kỳ sống ngoài xã hội, ông hiểu rõ nỗi đau và khó khăn của những tầng lớp dân lao động, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em, và những người phải cầm ca... Những trải nghiệm này đã làm nên thiên tài văn hóa Nguyễn Du.
Nguyễn Du sống trong thời kỳ lịch sử phức tạp, khi mà cả triều Lê, Tây Sơn và triều Nguyễn tồn tại. Ông có tư tưởng lớn và hoài bão, nhưng cuộc đời ông lại chật vật giữa những biến cố, điều này đã thúc đẩy Nguyễn Du sáng tác nhiều tác phẩm văn học có giá trị. Ông để lại ba tập thơ chữ Hán, gồm Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục, cùng với 250 bài thơ Nôm. Nguyễn Du nổi tiếng với những tác phẩm như Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn tế thập loại chúng sinh (Văn chiêu hồn), cùng nhiều sáng tác dân gian khác.
Nội dung văn học của Nguyễn Du chứa đựng giá trị hiện thực sâu sắc, phản ánh cuộc sống khó khăn của bản thân và xã hội, với những bất công, bạo ngược trong thời kỳ đó. Đọc tác phẩm của Nguyễn Du, người ta có thể cảm nhận được tinh thần nhân đạo, sự đồng cảm và ngợi ca đối với những con người dưới đáy xã hội, đặc biệt là những phụ nữ tài năng nhưng gặp số phận khó khăn.
Trong tác phẩm của ông, yếu tố nghệ thuật được đánh giá cao. Nguyễn Du đã nâng cao thể thơ dân gian của Việt Nam lên một tầm cao mới, với việc tiểu thuyết hóa thể loại truyện Nôm, nhìn nhận tận cùng tâm lý của nhân vật và nghệ thuật mô tả tâm lý sâu sắc, tinh tế. Đó là đóng góp lớn giúp ngôn ngữ Tiếng Việt trở nên phong phú, sáng tạo và đa dạng hơn. Không nói quá, Nguyễn Du chính là người đã có công lớn trong việc đưa văn học Việt Nam lên một tầm cao mới.
Nhìn chung, tác phẩm của Nguyễn Du là một biểu tượng của tư tưởng nhân đạo, thể hiện khát vọng công lý, tự do và lòng trắc ẩn với số phận của người phụ nữ. Đồng thời, ông cũng không quên lên án mặt trái của chế độ phong kiến thối nát.
Nguyễn Du, người tài năng, đã có những đóng góp quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ Tiếng Việt, làm cho nó trở nên rộng lớn, phong phú và đa dạng hơn. Ông chắc chắn là một hành trình quan trọng đối với sự phát triển văn hoá trung đại của Việt Nam.


10. Hành trình sáng tạo của nhà văn tài danh Nguyễn Du
Nguyễn Du - nhà thơ, nhà văn vĩ đại của dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới. Tác phẩm nổi bật nhất của ông là Truyện Kiều - kiệt tác kinh điển của văn học Việt Nam. Tên tuổi và đóng góp của Nguyễn Du đã làm bóng lên thế kỉ XVIII.
Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ Tố Như, hiệu Thanh Hiên, quê ở tỉnh Hà Tĩnh. Ông lớn lên trong gia đình quý tộc, có truyền thống văn minh, và được giáo dục tốt từ nhỏ. Thế nhưng, cuộc sống êm đềm chẳng kéo dài bao lâu. Gia đình tan nát do loạn lạc, Nguyễn Du phải trải qua nhiều thăng trầm và mất mát đau lòng. 11 tuổi, ông mất cha, 2 năm sau, mẹ cũng ra đi. Từ đó, Nguyễn Du lang thang khắp nơi, trải qua những khó khăn đau thương. Khi phong trào Tây Sơn thất bại, Nguyễn Du thậm chí phải làm quan dưới triều Nguyễn, nhưng lòng ông không hài lòng với thực tế đau lòng ấy.
Nguyễn Du là người hiểu biết sâu rộng, sống đa dạng và đã trải qua nhiều khổ nạn cuộc đời. Làm quan dưới triều Nguyễn, ông còn có chuyến sứ sang Trung Quốc, trải qua nhiều vùng đất và tiếp xúc với văn hóa phong phú ở Trung Quốc. Tất cả những trải nghiệm đó đã ảnh hưởng lớn đến sáng tác của Nguyễn Du. Ông có tấm lòng tràn đầy tình yêu thương và tư duy sâu sắc về vận mệnh con người và thời đại.
Cuộc đời Nguyễn Du đầy biến động, nhưng ông vẫn giữ được tâm hồn tràn đầy tình người. Ông vừa muốn trung thành với triều đình, vừa quan tâm đến những số phận đau thương và bất hạnh. Nhưng lý tưởng luôn mâu thuẫn với thực tế, và ông thường rơi vào tình cảnh khó khăn. Quan trường đối với ông là nơi ô nhục, nhưng ông vẫn chịu đựng, không ngừng ý thức về trách nhiệm và công lý trong cuộc sống.
Nguyễn Du để lại nhiều tác phẩm văn chương bất hủ bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Trong đó, Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục là những tác phẩm nổi bật. Ông cũng sáng tác bằng chữ Nôm với Đoạn trường tân thanh (Truyện Kiều), Văn chiêu hồn, Thác lời trai phường nón, Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ, đều là những tác phẩm xuất sắc.
Nguyễn Du, ngôi sao rực rỡ giữa bầu trời văn chương, mang đến những tác phẩm đẹp đẽ và giàu tình cảm. Sáng tác của ông đề cao xúc cảm và lòng nhân đạo. Ông tập trung thể hiện sự trân trọng và đánh giá cao con người trong cuộc sống. Bản lĩnh của một đại Nho hiện rõ trong từng dòng thơ, làm cho tác phẩm của Nguyễn Du sống mãi trong trái tim người đọc.
Với những đóng góp to lớn, Nguyễn Du xứng đáng là Đại Thi Hào của dân tộc. Truyện Kiều không chỉ là kiệt tác văn học, mà còn mở ra nhiều hình thức sáng tạo văn hóa khác nhau. Tác phẩm này đã đi vào lòng người, được dịch ra nhiều ngôn ngữ và là niềm tự hào của văn hóa Việt Nam trên thế giới.
Ngày 25/10/2013, Nguyễn Du được Tổ chức Giáo dục Khoa học và Văn hóa Liên hiệp quốc vinh danh cùng với 107 danh nhân văn hóa trên toàn thế giới để tôn vinh tài năng và ý nghĩa lớn lao của ông đối với văn hóa nhân loại.

