1. Bài viết phân tích cảnh vượt thác trong 'Người lái đò sông Đà' - mẫu số 4
Nguyễn Tuân, một người mê “chủ nghĩa xê dịch”, đã viết tùy bút Sông Đà trong chuyến khám phá vùng cao Tây Bắc, với tiêu điểm nổi bật là tác phẩm “Người lái đò sông Đà”. Cảnh vượt thác của ông lái đò trong tác phẩm này là một hình ảnh không thể quên.
“Người lái đò sông Đà” được xuất bản trong tập tùy bút Sông Đà (1960), chia thành ba phần: Phần đầu (từ đầu đến gậy đánh phèn) miêu tả sự dữ dội của sông Đà; phần hai (từ đó đến dòng nước sông Đà) tập trung vào cuộc sống trên sông và hình tượng người lái đò; phần cuối thể hiện vẻ đẹp trữ tình của sông Đà. Cảnh vượt thác độc nhất nằm trong phần hai, nổi bật tài hoa của người lái đò. Nguyễn Tuân xem người nghệ sĩ là người lao động bình dị nhưng có chất nghệ sĩ trong nghề nghiệp, và cảnh vượt thác đã thể hiện điều đó.
Nguyễn Tuân mô tả thác đá sông Đà: “Sông Đà không chỉ có thác đá mà còn là những cảnh đá bờ sông, dựng vách thành, nơi mặt sông chỉ có ánh mặt trời lúc chính ngọ”. Trong vòng đầu tiên, sông Đà tổ chức chiến trận với “bốn cửa tử, một cửa sinh”, và miêu tả đá như “ngỗ ngược, nhăn nhúm méo mó”. Thác đá không chỉ tấn công trực diện mà còn sử dụng tâm lý chiến với âm thanh khiêu khích “giọng gằn mà chế nhạo”.
Sông Đà tiếp tục tấn công bằng nước thác, với những đòn hiểm hóc: “Dòng thác hùm beo hồng hộc trên sông đá”. Sông Đà dùng số đông để “bẻ gãy cán chèo”, “đá trái sát nách”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc “đội cả thuyền lên”. Người lái đò không nao núng, chiến thuật phòng ngự để chuẩn bị cho trận tiếp theo. Ông giữ mái chèo khỏi bị hất lên, còn sông Đà lại sử dụng đòn vật để lật thuyền và bóp chặt hạ bộ người lái đò. Mặc dù bị đau, ông lái đò vẫn bình tĩnh chỉ huy sáu bơi chèo vượt cửa tử.
Ở vòng vây thứ hai, sông Đà tăng thêm cửa tử và bố trí cửa sinh lệch về phía hữu ngạn. Nguyễn Tuân bình luận rằng: “Cưỡi thác Sông Đà phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ”. Dù thế trận mới đầy thách thức, người lái đò vẫn tự tin với kinh nghiệm vượt thác. Ông dùng chiến thuật đánh nhanh thắng nhanh, tốc độ nhanh chóng vượt qua những cửa tử. Cuối cùng, những cửa tử bị bỏ lại, chỉ còn tiếng thác đá khiêu khích.
Ở vòng trận cuối cùng, sông Đà tung đòn quyết định với ít cửa hơn nhưng cả hai bên đều là luồng chết. Dù vậy, người lái đò vẫn chỉ huy sáu bơi vượt qua hàng phòng ngự và xuyên thẳng cửa giữa. Thuyền như mũi tên xuyên qua hơi nước, kết thúc trận chiến với chiến thắng thuộc về ông lái đò. Đọc tác phẩm, người đọc cảm thấy nhẹ nhõm trước chiến thắng của ông.
Nguyễn Tuân đã sử dụng tài năng ngôn từ kết hợp với nhiều lĩnh vực như văn chương, thể thao, quân sự, võ thuật để khắc họa cảnh vượt thác sinh động. Cảnh vượt thác trong “Người lái đò sông Đà” là một hình ảnh “xưa nay chưa từng có”, làm nổi bật tài năng của người lái đò và Nguyễn Tuân là một nhà văn của cái đẹp.
2. Bài phân tích cảnh vượt thác trong 'Người lái đò sông Đà' - mẫu số 5
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đúng khi nhận xét về Nguyễn Tuân: 'Nguyễn Tuân là định nghĩa về người nghệ sĩ'. Nguyễn Tuân luôn không ngừng tìm kiếm và phát hiện những điều mới mẻ, độc đáo, chưa từng có trong hành trình sáng tạo của mình. Tùy bút 'Người lái đò sông Đà' chính là thành quả của sự sáng tạo không ngừng về vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Với tài năng và kiến thức uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc họa một hình ảnh không thể phai mờ về con sông miền Tây Bắc, vừa hùng vĩ vừa trữ tình, nổi bật trên những thác dữ là vẻ đẹp của một chiến binh sông nước với 'tay lái ra hoa' đã vượt qua bao thử thách như một nghệ sĩ trên mặt trận vượt thác leo ghềnh. Điều này được khắc họa một cách ấn tượng và mãnh liệt qua cảnh vượt thác độc nhất vô nhị trong 'Người lái đò sông Đà'.
Cảnh tượng cuộc vượt thác sông Đà là một cuộc chiến cam go của người lái đò khi phải vượt qua ba trùng vi thạch trận với nhiều thử thách hiểm hóc. Cảnh tượng này, chưa từng có trước đây, phản ánh tài nghệ vượt thác của ông lái đò và tài năng nghệ thuật bậc thầy của Nguyễn Tuân. Với ngòi bút tài hoa và quan niệm duy mỹ về cái đẹp, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng người lái đò sông Đà – một hình tượng nghệ thuật độc đáo và hấp dẫn. Ông khách sông Đà, dù đã ngoài 70 tuổi, vẫn có thân hình rắn chắc như một bức tượng cẩm thạch: ngực ông đầy những vết thương chiến trường sông Đà mà Nguyễn Tuân gọi là 'huân chương lao động siêu hạng', tay ông gầy guộc như cái sào, chân ông khuỳnh khuỳnh; ánh mắt ông cao vời vợi, giọng ông ồ ồ như tiếng thác trước ghềnh. Miêu tả người lái đò như vậy, Nguyễn Tuân đã phần nào khắc họa được vẻ đẹp của con người lao động gắn bó với chiến trường sông nước.
Hình tượng người lao động không chỉ được khắc họa qua ngoại hình mà còn qua tính cách và trí thông minh. Ông xem sông Đà như một thiên anh hùng ca và thuộc lòng mọi luồng lạch; nắm được binh pháp của thần sông, thần đá. Chính vì vậy, trong trận thủy chiến đầy cam go, phần thắng vẫn thuộc về con người trí dũng và tài hoa. Trí và dũng của ông lái đò sông Đà được Nguyễn Tuân khắc họa rõ nét qua ba trùng vi thạch trận. Trận thủy chiến này có thể gọi là một cảnh tượng hiếm gặp và khó lặp lại trong đời.
Trong đoạn văn đầu tiên, Nguyễn Tuân đã dồn hết sức lực vào việc miêu tả trùng vi thạch trận đầu tiên. Tại đây, thác đá sông Đà đã sắp đặt trận địa với bốn cửa tử và một cửa sinh. Nước và đá phối hợp tạo nên một trận địa với những hòn đá oai phong, một hòn trông như đang thách thức chiếc thuyền. Các từ ngữ như reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, hất hàm hỏi, thách thức giúp người đọc cảm nhận được không khí trận chiến nóng bỏng, gay cấn và kịch tính. Đây chính là biệt tài ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
Thác đá sông Đà được nhân hóa thành những kẻ rất nham hiểm và khôn ngoan. Chúng không chỉ tấn công trực diện mà còn sử dụng cả chiến thuật tâm lý. Trước đó, chúng đã khiêu khích bằng âm thanh của thác, giờ đây, chúng lại sử dụng nước thác làm thanh viện cho đá. Với bản tính hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà đã đánh phủ đầu người lái đò với những đòn hiểm hóc. Sông Đà đã “ùa vào bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng đá trái”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, có lúc chúng “đội cả thuyền lên”. Một loạt động từ như ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội… làm người đọc rùng mình trước sự hung bạo của thiên nhiên.
Bị tấn công bất ngờ, người lái đò vẫn giữ bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để dưỡng sức cho những trùng vi tiếp theo, “ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng”; lúc này, sông Đà chuyển sang thể đánh miếng đòn hiểm độc nhất “cả luồng nước bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”.
Dính miếng đòn hiểm, mắt ông hoa lên, tưởng như “một cửa bể đom đóm rừng ùa xuống châm lửa lên đầu sóng”. Đòn đau khiến ông đò “mặt méo bệch đi”. Đó là cái méo bệch do nước lạnh và miếng đòn đau làm ông khách sông Đà mặt tím tái, ngây dại. Phép điệp động từ “đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào chỗ hiểm” gợi lên cơn đau dồn dập, hành hạ người lái đò. Nhưng ông đò nén đau, giọng ông vẫn bình tĩnh, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt cửa tử vào cửa sinh.
Nếu đoạn văn đầu tiên miêu tả cuộc vượt thác ở thế trận một chiều từ sông Đà thì ở đoạn văn tiếp theo, nhà văn tập trung miêu tả thế trận của ông khách sông Đà qua sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác dũng mãnh, phi thường. Chuyển từ thế trận phòng ngự sang tấn công, ông lái đò đã đối mặt với trùng vi thạch trận thứ hai, nơi sông Đà tăng cường thêm các cửa tử và cửa sinh bố trí lệch qua bờ hữu ngạn.
So với trùng vi một, trùng vi này khó khăn hơn, nhưng ông đò không nao núng. Với kinh nghiệm mười năm chiến trường sông nước, ông đã “nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá”, thuộc quy luật phục kích của đá. Ông đò triết lý rằng “cưỡi lên thác sông Đà là cưỡi đến cùng như cưỡi hổ”, vì thế không ngừng nghỉ tay và mắt phải phá luôn vòng vây thứ hai và đổi chiến thuật. Trong trận này, ông đò đã đánh phủ đầu với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh.
Như một vận động viên đua ngựa, ông đò “nắm chắc được bờm sóng đúng luồng rồi, ông đò ghì cương lái”, ông “phóng nhanh”, “lái miết”… tốc độ di chuyển nhanh chóng. Nhưng sông Đà cũng không phải dễ đối phó. Chúng xô ra định níu chiếc thuyền vào tập đoàn cửa tử. Ông đò đã cảnh giác, “đứa thì ông tránh mà rảo bơi chèo”, “đứa thì đè sấn lên chặt đôi ra để mở đường tiến”. Hàng loạt động từ như nắm, ghì, phóng, lái, tránh, rảo, đè, chặt… tạo nên một đội quân ngôn ngữ hùng hậu hò reo theo từng nhịp tiến của ông đò. Chính nhờ sự mưu trí và tài năng ấy, ông đò vượt qua hết các cửa tử. Một trùng vi với bao cửa tử, cửa sinh mà chỉ vài ngón đòn ông lái đò đã đánh sập vòng vây của lũ đá, đồng thời làm cho chúng phải thất bại với bộ mặt “tiu nghỉu, xanh lè thất vọng”. Qua đó, người khách sông Đà quả thật là Trí Dũng song toàn.
Trong trùng vi thứ ba, sông Đà còn một cơ hội cuối để thử thách người lái đò. Trùng vi này ít cửa hơn nhưng bên trái, bên phải đều là luồng chết, nguồn sống chỉ nằm giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói trận chiến này sông Đà đã dùng thế “trên đe dưới búa” làm người lái đò phải đối mặt với thế “tiến thoái lưỡng nan”. Nhưng ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên và như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong lại cửa trong cùng. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được.
“Thế là hết thác”. Một loạt các động từ được Nguyễn Tuân huy động để miêu tả cách đánh của ông đò: Phóng, chọc thủng, xuyên qua, xuyên nhanh, lái được, lượn được… Sự thần tốc trong cách đánh đã giúp người lái đò vượt qua trùng vi đầy phi thường. Quả thật, “Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ” (Phan Huy Đông). Nghệ thuật lái thuyền đến đây khiến người đọc hoàn toàn tâm phục khẩu phục. Đúng là ông lái đò đã đạt đến đỉnh cao của nghề nghiệp. Đoạn trích vì thế đã xây dựng được một “cảnh tượng có một không hai”.
Ý kiến trên là hoàn toàn chính xác. Ý kiến đã đánh giá sâu sắc đoạn trích và tài nghệ có một không hai của người lái đò sông Đà. Ông là người lao động nhưng lại mang cốt cách của một tâm hồn nghệ sĩ. Trong cuộc vượt thác leo ghềnh, ông là một con người phi thường và tài hoa. Một nghệ sĩ có phong thái ung dung, nhàn nhã, khiêm tốn. Ông chính là hình tượng con người lao động là biểu tượng cho trí dũng song toàn trong hành trình đi tìm cái đẹp của nhà văn. Ý kiến này đã góp phần làm sáng tỏ giá trị nội dung và nghệ thuật của đoạn trích cũng như tác phẩm nói chung.
Nguyễn Tuân thực sự là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động trong gian lao nguy hiểm nhưng đầy vinh quang, điển hình là hình tượng ông lái đò trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” với nhiều nét đẹp và cả chất nghệ sĩ trong nghề. Cuộc vượt thác của người khách sông Đà quả thật là phi thường, xứng đáng là một trong những “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
3. Phân tích cảnh vượt thác trong 'Người lái đò sông Đà' - mẫu số 6
“Cảnh vượt thác” miêu tả một cuộc chiến đấu khốc liệt của người lái đò với ba lớp trận địa đá nguy hiểm, nơi có sự xuất hiện của những thế lực tự nhiên hung dữ. Nguyễn Tuân, với quan niệm độc đáo về cái đẹp và ngòi bút tài hoa, đã thành công trong việc xây dựng hình tượng người lái đò sông Đà – một biểu tượng nghệ thuật đầy ấn tượng.
Hình tượng người lái đò hiện lên với vẻ đẹp của người lao động, vừa vững chãi vừa khéo léo trong nghề. Dù đã trên 70 tuổi, ông vẫn mạnh mẽ, mang những dấu tích của cuộc chiến trên sông Đà như những 'huân chương lao động siêu hạng'. Cơ thể ông cường tráng, tay chân dẻo dai, và ông có giọng nói ầm ầm như tiếng thác. Đây là hình ảnh của một con người gắn bó lâu dài với vùng sông nước rộng lớn.
Người lái đò không chỉ nổi bật nhờ vẻ ngoài mà còn bởi trí tuệ và tính cách. Sông Đà đối với ông như một bản anh hùng ca mà ông thuộc lòng từng ngõ ngách. Trong trận chiến với thiên nhiên, ông vẫn thắng thế nhờ sự thông minh và tài năng.
Ông lái đò chiến đấu với ba lớp trận địa đá như một nghệ sĩ biểu diễn tài năng. Trận chiến với sông Đà là cuộc đấu trí giữa con người và thiên nhiên. Ở lớp trận địa đầu tiên, thác đá đã bày ra một trận địa với bốn cửa tử và một cửa sinh. Những cơn thác, những viên đá như tạo thành một cuộc chiến khốc liệt, làm nổi bật không khí kịch tính của trận chiến.
Thác đá sông Đà không chỉ tấn công mà còn sử dụng chiến thuật tâm lý để khiêu khích. Sông Đà đã dùng âm thanh và sức mạnh của nước để tấn công thuyền. Dù bị tấn công dữ dội, người lái đò vẫn giữ bình tĩnh và điều khiển thuyền vượt qua thử thách.
Với chiến thuật phòng ngự, ông giữ mái chèo và chống lại những đòn tấn công của sông Đà. Khi bị tấn công mạnh mẽ, ông vẫn giữ được sự bình tĩnh, chỉ huy sáu bơi chèo vượt qua các cửa tử. Mặc dù gặp đau đớn, ông vẫn giữ được sự tập trung và tiếp tục điều khiển thuyền.
Ở lớp trận địa thứ hai, sông Đà tăng cường các cửa tử và cửa sinh. Người lái đò, với kinh nghiệm và trí thông minh, đã vượt qua lớp trận địa này bằng cách tấn công nhanh chóng và khéo léo. Ông điều khiển thuyền vượt qua các cản trở, đánh bại các cửa tử và làm cho các viên đá thất bại.
Trong lớp trận địa thứ ba, sông Đà thử thách người lái đò với những cửa chết và nguồn sống nằm ở giữa. Người lái đò đã điều khiển thuyền như một mũi tên, vượt qua các thử thách với tốc độ và sự khéo léo. Ông đã vượt qua tất cả các thử thách một cách xuất sắc, thể hiện sự tự do và tài năng trong nghệ thuật lái thuyền.
Trong việc vượt thác leo ghềnh, người lái đò là một nghệ sĩ phi thường và tài năng. Ông là hình mẫu của người lao động Việt Nam với phong thái điềm đạm và khiêm tốn. Nguyễn Tuân thực sự là một bậc thầy trong việc ca ngợi những người lao động trong những hoàn cảnh gian nan nhưng đầy vinh quang!
4. Phân tích cảnh vượt thác trong 'Người lái đò sông Đà' - mẫu số 7
Vũ Ngọc Phan từng nhận định về phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân: “Chỉ những người yêu thích suy ngẫm mới tìm thấy sự thú vị trong văn của Nguyễn Tuân, vì văn của ông không phải là thứ để những người nông nổi thưởng thức.” Thực vậy, ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân luôn hướng đến cái đẹp tuyệt mỹ của cuộc sống. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” là những thước phim tuyệt vời về thiên nhiên hùng vĩ và con người tài hoa. Đặc biệt, hình tượng người lái đò trong cảnh vượt thác chính là một bức tranh đẹp đẽ, nổi bật mà Nguyễn Tuân đã tạo nên. Qua đó, độc giả dễ dàng cảm nhận được tài năng của một nghệ sĩ “suốt đời đi tìm cái đẹp”.
Trước năm 1945, Nguyễn Tuân thường say mê miêu tả vẻ đẹp tài hoa của những nhân vật trong quá khứ, để bày tỏ sự ngưỡng mộ và tiếc nuối. Sau năm 1945, quan niệm thẩm mỹ của ông đã thay đổi, hướng ngòi bút đến vẻ đẹp của những người lao động bình thường. Tùy bút “Người lái đò sông Đà” sáng tác năm 1960, là kết quả của chuyến đi thực tế lên Tây Bắc để khám phá cảnh sắc thiên nhiên và tìm kiếm “thứ vàng mười” trong cảnh và con người nơi đây. Qua tùy bút, hình tượng người lái đò hiện lên ấn tượng giữa sự hung bạo của con sông Đà. Cảnh vượt thác đầy điêu luyện của ông lái đò là một trận chiến dữ dội giữa con người và thiên nhiên, mà Nguyễn Tuân gọi là “có một không hai, trước nay chưa từng có”.
Người lái đò hiện lên là một ông lão 70 tuổi với ngoại hình đặc biệt: tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh, giọng nói ào ào như tiếng nước, ánh mắt luôn tìm kiếm một bến bờ xa trong sương mù. Nguyễn Tuân đã khắc họa hình ảnh người lái đò gần gũi, một người sống và làm việc trên sông, chiến đấu với thác, đá và sóng nước của sông Đà để xây dựng quê hương Tây Bắc. Giữa thiên nhiên sông Đà hùng vĩ, Nguyễn Tuân đã làm nổi bật vẻ đẹp trí dũng của người lái đò qua cuộc vượt thác đầy hiểm nguy. Con người nhỏ bé cùng chiếc thuyền mỏng manh đối mặt với thiên nhiên hung bạo, nhưng nhờ sự trí dũng, tỉnh táo và khéo léo, người lái đò đã đưa thuyền vượt qua những hiểm nguy một cách ngoạn mục.
Trong vòng vây đầu tiên, sông Đà tạo ra một thạch trận với bốn cửa tử và một cửa sinh. Nước và đá phối hợp để gây khó khăn cho thuyền; những hòn đá oai phong như thách thức thuyền xưng tên trước khi giao chiến. Khi thạch trận vừa được dàn bày, thuyền đã đến. Người lái đò không hề sợ hãi, tiến vào thạch trận với sự chuẩn bị tốt nhất. Sông Đà khôn ngoan, không tấn công trực diện mà dùng âm thanh và nước thác để khiêu khích. Nó xông tới, bẻ gãy mái chèo, thúc gối vào thuyền, có lúc còn đội cả thuyền lên. Mặc dù sông Đà hiểm ác, người lái đò vẫn bình tĩnh giữ mái chèo không bị hất lên khỏi sóng.
Sông Đà chuyển sang bám thuyền và sử dụng đòn vật, túm lấy thắt lưng người lái đò để lật thuyền. Không cho ông đò có cơ hội xoay sở, sông Đà dùng đòn hiểm nhất để bóp chặt hạ bộ người lái đò. Khi sóng thác tấn công mạnh, mặt ông đò trắng bệch, không chỉ vì đau đớn mà còn vì phải dầm lâu trong nước lạnh. Sự đau đớn được miêu tả qua cảm nhận của thị giác và xúc giác, tạo nên một trận chiến không cân sức giữa sông Đà hung bạo và người lái đò nhỏ bé nhưng đầy sức mạnh. Nguyễn Tuân đã thể hiện lòng ngưỡng mộ và cảm phục đối với bản lĩnh và sự dũng mãnh của người lái đò.
Tại vòng vây thứ hai, ông đò không chỉ dũng mãnh mà còn thông minh với kinh nghiệm dày dạn. Ông nắm chắc quy luật của dòng sông và thác đá, thực hiện kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh. Dù sông Đà xô đẩy, níu thuyền vào tập đoàn cửa tử, ông đò vẫn khéo léo điều khiển thuyền vượt qua tất cả. Nguyễn Tuân đã sử dụng hàng loạt động từ để thể hiện sự điêu luyện của ông đò. Ông lão lái đò như một dũng tướng, điều khiển con thuyền vượt qua các cửa tử, làm cho đá phải thất vọng. Nguyễn Tuân đã khắc họa sức mạnh phi thường của ông lái đò, một tướng lĩnh thực thụ chiến thắng cả thần sông và thần đá.
Trùng vi cuối cùng của thạch trận là nơi tập trung sự hiểm ác nhất của sông Đà. Không chỉ có ít cửa hơn mà còn bị vây quanh bởi luồng chết, cửa sống nằm ngay giữa bọn đá hậu vệ. Sông Đà ngày càng mưu mẹo, dồn con người đến chỗ chết. Nguyễn Tuân đã miêu tả sự hiểm ác của thác đá bằng hình ảnh ẩn dụ về cổng đá – một mặt trận đá trùng điệp với sự tấn công không ngừng của sóng dữ. Nhiệm vụ của người đò là phải phóng thuyền qua luồng sinh duy nhất giữa những đợt sóng thác dữ dội. Sự điêu luyện của ông đò được thể hiện qua cách miêu tả sự nhanh nhẹn và khéo léo khi thuyền lao qua khe hẹp, tạo nên một hình ảnh đầy ấn tượng về tài năng và sức mạnh của người lái đò.
Cảnh vượt thác sông Đà là một kiệt tác nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Tuân. Ông lái đò với trí dũng và tài hoa đã chiến thắng con sông Đà hung bạo một cách ngoạn mục. Khung cảnh vượt thác, dù quen thuộc với người lái đò, dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân trở thành biểu tượng đẹp đẽ nhất của núi rừng Tây Bắc. Mỗi câu chữ đều được Nguyễn Tuân chăm chút, khiến người đọc cảm nhận được sự kỳ diệu và tài hoa của người lái đò.
Nguyễn Tuân đã vẽ nên một khung cảnh vượt thác đầy kịch tính và khốc liệt. Nếu người lái đò là nghệ sĩ điều khiển con thuyền thì Nguyễn Tuân chính là nghệ sĩ chèo lái con thuyền ngôn từ. Chỉ qua cảnh vượt thác, Nguyễn Tuân đã điều động cả một đội quân từ ngữ để diễn tả sự cuồng nộ của sông Đà và sự tài hoa của người lái đò. Ông dẫn dắt người đọc qua từng cảm xúc, từ hồi hộp, căng thẳng đến thở phào nhẹ nhõm. Trong công cuộc tìm kiếm “chất vàng mười” của con người Tây Bắc, Nguyễn Tuân đã khám phá một cách tỉ mỉ và đầy yêu thương, thể hiện lòng khao khát cái đẹp trong đời.
Khi khép lại “Người lái đò sông Đà”, người đọc sẽ không bao giờ quên hình ảnh con sông Đà hiểm độc, người lái đò điều luyện và Nguyễn Tuân tài hoa. Cảnh vượt thác sông Đà đã trở thành ấn tượng khó phai, đưa con người đến chân trời của cái đẹp, tài hoa và sự uyên bác.
5. Phân tích cảnh vượt thác trong 'Người lái đò sông Đà' - mẫu 8
Mỗi vùng đất mà chúng ta đặt chân đến đều để lại những dấu ấn sâu đậm, bởi mỗi nơi đều mang trong mình những đặc trưng văn hóa, lịch sử và địa lý riêng biệt. Khi đến Tây Bắc xa xôi, dưới làn sương mờ ảo, Nguyễn Tuân cũng không thể không bị cuốn hút bởi vẻ đẹp thiên nhiên nơi đây. Chính vì thế, hình ảnh dòng sông Đà với cá tính riêng biệt đã trở thành nguồn cảm hứng bất tận cho ngòi bút của ông. Trong khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, con người dường như trở nên nhỏ bé hơn bao giờ hết. Cảnh vượt thác trong 'Người lái đò sông Đà' của Nguyễn Tuân không chỉ tôn vinh vẻ đẹp bình dị của người lao động mà còn ca ngợi sức mạnh và sự kiên cường khi đối mặt với sự dữ dội của thiên nhiên.
Nguyễn Tuân (1910 - 1988) là một tài năng kiệt xuất, yêu thích khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên và con người ở khắp mọi miền đất nước. Ông nổi bật với phong cách nghệ thuật độc đáo, tìm kiếm sự tinh túy của thiên nhiên và 'thứ vàng mười đã qua thử lửa' trong tâm hồn người lao động. Tùy bút 'Người lái đò sông Đà' là một phần của tập 'Sông Đà', thể hiện 'thứ vàng mười' mà Nguyễn Tuân đã phát hiện khi đặt chân đến Tây Bắc lãng mạn và hùng vĩ.
Cảnh vượt thác trong 'Người lái đò sông Đà' được Nguyễn Tuân mô tả là cảnh 'xưa nay chưa từng có', một cuộc chiến ác liệt giữa thiên nhiên bao la và con người bé nhỏ. Nguyễn Tuân khéo léo làm nổi bật nét tài hoa nghệ sĩ không chỉ qua nghệ thuật mà còn ở nhiều lĩnh vực khác. Cảnh vượt thác được phân chia thành ba trùng vi thạch trận, mỗi trùng vi với những thử thách khắc nghiệt khác nhau, thể hiện sự dũng cảm và trí tuệ của người lái đò khi vượt qua tất cả ba trùng vi an toàn.
Ở trùng vi thạch trận đầu tiên, cuộc đối đầu giữa thiên nhiên và người lái đò diễn ra gay cấn. Nguyễn Tuân đã dùng hình ảnh thác đá để diễn tả sự hùng vĩ của sông Đà, giống như cách các nhà văn thường sử dụng lửa để miêu tả nước. Đá bờ sông tạo thành những vách thành hẹp, khiến cảnh vật trở nên gập ghềnh và hiểm trở. Sự sáng tạo trong cách sử dụng ngôn từ của nhà văn giúp người đọc hình dung rõ nét sự hiểm nguy nơi đây. Khi gần đến thác, sóng bọt trắng xóa như những sinh vật có trí tuệ, sẵn sàng vồ lấy con thuyền. Những hòn đá có vẻ như đang thách thức con thuyền, tạo thành một trận đồ bát quái. Ông lái đò, với sự dũng cảm và quyết tâm, chiến đấu với dòng sông dữ dội như một tướng soái, đối mặt với mọi thử thách để bảo vệ con thuyền.
Cuộc chiến giữa ông lái đò và sông Đà diễn ra ác liệt với sóng nước dữ dội, đá và sóng tấn công liên tiếp. Ông lái đò, dù phải chịu đựng đau đớn và vết thương, vẫn kiên cường vượt qua các thử thách. Mặc dù mặt ông đã méo mó vì đau đớn và dầm lâu trong nước lạnh, ông vẫn giữ tỉnh táo để chiến đấu với sóng thác và vượt qua vòng đầu tiên.
Trong trùng vi thạch trận thứ hai, sự khó khăn tiếp tục đòi hỏi ông lái đò phải kiên nhẫn và khéo léo. Vòng này có nhiều cửa tử và chỉ một cửa sinh để thử thách con thuyền. Với sự hiểu biết sâu sắc về đặc tính của dòng sông và quy luật phục kích của đá nước, ông lái đò đã thay đổi chiến lược, vượt qua các cửa tử và những dòng thác dữ dằn một cách thông minh. Ông đã 'ghì cương bám chắc lấy luồng nước đúng mà phóng nhanh vào cửa sinh', khiến những viên đá phải thất vọng.
Trùng vi thạch trận thứ ba là thử thách khắc nghiệt nhất với ít cửa hơn, nhưng cả hai bên đều là luồng chết. Thiên nhiên ngày càng dữ dằn, thử thách con người để khẳng định sự sống. Ông lái đò chiến thắng bằng sự quyết đoán và khôn ngoan, vượt qua mọi cạm bẫy và đưa con thuyền về đích an toàn. Ở vòng ba, ông 'phóng thẳng con thuyền, chọc thủng cửa giữa' và 'vút qua cổng đá cánh mở cánh khép' một cách nhanh chóng. Ông thể hiện hình ảnh của một anh hùng lãng mạn trong cuộc chiến với thiên nhiên, đối mặt với thử thách một cách bình thản và tự tin.
Cảnh vượt thác trong 'Người lái đò sông Đà' ca ngợi kỳ tích của người lái đò trong cuộc chiến với thiên nhiên. Hình ảnh người lái đò như một anh hùng thầm lặng, thể hiện sự tài hoa của ngòi bút Nguyễn Tuân. Vẻ đẹp của ông lái đò phản ánh vẻ đẹp của con người trong thời đại mới, vì theo Nguyễn Tuân, 'người anh hùng không chỉ có trong chiến đấu mà còn trong cuộc sống đời thường.' Tác giả đã sử dụng nghệ thuật miêu tả sắc sảo cùng hàng loạt động từ để khắc họa vẻ đẹp của ông lái đò trước trận chiến với dòng sông Đà.
Qua cảnh vượt thác trong 'Người lái đò sông Đà', Nguyễn Tuân đã khẳng định 'thứ vàng mười đã qua thử lửa' của núi rừng Tây Bắc. Sông Đà với vẻ đẹp hùng vĩ và thơ mộng đã trở thành nguồn cảm hứng để nhà văn miêu tả cảnh vượt thác một cách hấp dẫn và lôi cuốn.
6. Phân tích cảnh vượt thác trong 'Người lái đò sông Đà' - mẫu 10
Nguyễn Tuân, một trong những cây bút vĩ đại của văn học Việt Nam hiện đại, nổi bật với sự lãng mạn trước cách mạng qua các tác phẩm như “Vang bóng một thời” và “Thiếu quê hương”. Sau cách mạng, ông chuyển hướng sang phong cách kháng chiến, khám phá vẻ đẹp của quê hương và con người trong các tác phẩm như “Tùy bút Sông Đà” và “Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi”. Dù ở giai đoạn nào, văn phong của Nguyễn Tuân luôn cuốn hút bởi sự tài hoa và uyên bác.
Trong sự nghiệp của ông, hai tác phẩm “Chữ người tử tù” (trong tập “Vang bóng một thời”) và “Người lái đò sông Đà” (trong tập “Sông Đà”) nổi bật như những thành công tiêu biểu, đại diện cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân trước và sau cách mạng. Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” và cảnh vượt thác trong “Người lái đò sông Đà” là những đoạn văn đẹp hiếm có trong văn học Việt Nam, thể hiện rõ nét tài năng và phong cách của ông.
Cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” mô tả cuộc gặp gỡ đầy kịch tính giữa Huấn Cao, một tử tù tài hoa và viên quản ngục yêu thích cái đẹp. Mặc dù trong tình huống đặc biệt, cảnh cho chữ vẫn nổi bật với sự đối lập giữa cái đẹp và cái ác, giữa con người tài hoa và cái ác, cho thấy sự thống nhất của cái đẹp với cái thiện.
Thư pháp, một nghệ thuật viết chữ đẹp của văn hóa phương Đông, thường diễn ra trong không gian thanh thoát, nhưng trong cảnh cho chữ, nó được thể hiện trong môi trường ngục tối, trái ngược hoàn toàn với cái đẹp của nghệ thuật viết chữ. Tư thế của Huấn Cao và viên quản ngục càng làm nổi bật sự phi thường của tình huống này, với Huấn Cao là người cầm bút và quản ngục là người tiếp nhận chữ, tạo nên một bức tranh đối lập đầy ấn tượng.
Cảnh vượt thác trong “Người lái đò sông Đà” miêu tả một trận chiến ác liệt giữa ông đò và sông Đà, nơi sông Đà hiện lên như một kẻ thù hùng vĩ và ông đò là một nghệ sĩ tài ba. Với kỹ năng và bản lĩnh, ông đò đã chinh phục thành công những thử thách mà sông Đà đặt ra, thể hiện tài năng và sự dũng cảm trong công việc của mình.
Nguyễn Tuân, qua việc mô tả những cảnh tượng này, không chỉ thể hiện sự uyên bác của mình mà còn khẳng định sự tài hoa và tinh thần nghệ sĩ trong việc khắc họa cái đẹp. Văn của ông, với sự kết hợp giữa tài hoa và chân thành, luôn đem đến cho người đọc những cảm xúc mạnh mẽ và ấn tượng sâu sắc.
7. Phân tích cảnh vượt thác trong 'Người lái đò sông Đà' - mẫu 9
Nguyễn Minh Châu đã đúng khi nhận xét về Nguyễn Tuân rằng: “Nguyễn Tuân chính là hình mẫu của một người nghệ sĩ”. Với sự tìm kiếm không ngừng để khám phá cái mới lạ, độc đáo trong sáng tạo, Nguyễn Tuân đã thể hiện rõ nét điều đó qua tác phẩm Người lái đò Sông Đà. Tác phẩm này là thành quả của sự kiên trì và sáng tạo trong việc khám phá vẻ đẹp kỳ diệu của thiên nhiên và con người Tây Bắc. Nguyễn Tuân, bằng tài năng và kiến thức uyên bác của mình, đã tạo nên một dấu ấn khó phai về con sông miền Tây Bắc, nơi vừa dữ dội vừa lãng mạn, và nổi bật trên những thác dữ là hình ảnh của một người chiến binh sông nước với “tay lái ra hoa”, vượt qua mọi thử thách như một nghệ sĩ trên mặt trận vượt thác leo ghềnh. Cảnh vượt thác độc đáo trong tác phẩm đã được miêu tả một cách mạnh mẽ và ấn tượng.
Cảnh vượt thác sông Đà là cuộc chiến của người lái đò chống lại ba vòng vây thạch trận với các tướng dữ. Đây là một cảnh tượng hiếm có, chưa từng thấy trước đây. Ý kiến này thực chất là về tài nghệ vượt thác của người lái đò và sự tài hoa của Nguyễn Tuân trong việc miêu tả.
Với ngòi bút tài hoa và quan niệm về cái đẹp, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng người lái đò sông Đà – một hình tượng nghệ thuật độc đáo và hấp dẫn. Dù đã ngoài 70 tuổi, người lái đò vẫn có thân hình vạm vỡ như tượng cẩm thạch: ngực đầy những vết thương mà Nguyễn Tuân gọi là “huân chương lao động siêu hạng”, tay như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh; đôi mắt sắc sảo, giọng nói ầm ầm như tiếng thác trước ghềnh. Qua miêu tả này, Nguyễn Tuân đã khắc họa được vẻ đẹp của người lao động gắn bó với chiến trường sông nước.
Hình tượng người lao động không chỉ được khắc họa qua ngoại hình mà còn qua tính cách và trí thông minh. Ông xem sông Đà như một thiên anh hùng ca, thuộc lòng mọi luồng lạch và nắm được chiến thuật của thần sông thần đá. Trong trận chiến này, dù gặp phải những thử thách hiểm hóc, phần thắng vẫn thuộc về trí dũng và tài hoa của ông.
Nguyễn Tuân đã khắc họa trí và dũng của người lái đò qua ba vòng thạch trận. Vòng thạch trận đầu tiên là trận địa với bốn cửa tử và một cửa sinh. Nước phối hợp với đá tạo nên một trận địa dữ dội. Những từ ngữ như reo hò, bệ vệ, oai phong lẫm liệt, thách thức đã làm nổi bật không khí nóng bỏng của trận chiến, cho thấy biệt tài ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
Những thác đá sông Đà không chỉ tấn công mà còn sử dụng chiến thuật tâm lý, như âm thanh khiêu khích và những đòn đánh hiểm hóc. Nguyễn Tuân đã sử dụng các động từ như ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội… để làm nổi bật sự hung bạo của thiên nhiên.
Mặc dù bị tấn công bất ngờ, người lái đò vẫn bình tĩnh và dùng chiến thuật phòng ngự để chuẩn bị cho những vòng thạch trận tiếp theo. Ông giữ vững mái chèo và đối mặt với những đòn hiểm, vẫn giữ được sự tỉnh táo và chỉ huy sáu bơi chèo vượt qua cửa tử vào cửa sinh.
Trong đoạn tiếp theo, Nguyễn Tuân miêu tả sự thông minh và tài nghệ của người lái đò khi ông chuyển từ thế phòng ngự sang tấn công. Với kinh nghiệm dày dạn, ông đã vượt qua vòng thạch trận thứ hai với kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh, làm cho đối phương thất bại.
Cuối cùng, ở vòng thạch trận thứ ba, sông Đà sử dụng chiến thuật “trên đe dưới búa” để thử thách người lái đò. Dù khó khăn, ông lái đò đã biến chiếc thuyền thành mũi tên và vượt qua cửa giữa một cách thần tốc. Điều này thể hiện sự tài ba và nghệ thuật lái thuyền của ông, khiến người đọc hoàn toàn ấn tượng.
Tác phẩm đã làm nổi bật tài nghệ của người lái đò sông Đà, một người lao động mang cốt cách của nghệ sĩ. Cuộc vượt thác của ông xứng đáng được xem là một trong những “cảnh tượng xưa nay chưa từng có”.
8. Phân tích cảnh vượt thác trong tác phẩm 'Người lái đò sông Đà' - Mẫu 1
Tây Bắc ư? Tây Bắc không chỉ có riêng Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoà vào những chuyến tàu
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
Tây Bắc luôn là nguồn cảm hứng phong phú cho văn học nghệ thuật, vì vùng đất núi non này không chỉ để lại nhiều kỷ niệm sâu sắc mà còn là mảnh đất sinh ra những ý tưởng bất tận cho các nhà văn, nhà thơ. Nếu Nguyễn Huy Tưởng để lại dấu ấn với tiểu thuyết 'Bốn năm sau', Tô Hoài ghi dấu với tác phẩm VCAP, Nguyễn Khải với 'Mùa lạc', thì Nguyễn Tuân đã đạt đỉnh cao nghệ thuật qua tập 'Tùy bút Sông Đà' với bài ký 'Người lái đò Sông Đà'. Đọc bài ký này, người đọc không thể không ấn tượng với hình ảnh người chiến binh trên sông nước, vượt qua bao thử thách như một nghệ sĩ vĩ đại trên mặt trận vĩ đại. Sự vĩ đại của hình tượng này được Nguyễn Tuân khắc họa một cách sống động và chân thực qua cảnh vượt thác độc nhất vô nhị.
'Nếu Xuân Diệu coi tình yêu là tôn giáo, thì Nguyễn Tuân coi cái đẹp là tôn giáo của mình' (GS Trần Đình Sử). Quả thật, Nguyễn Tuân là một nghệ sĩ vĩ đại, suốt đời tìm kiếm cái đẹp. Ông sáng tác nhiều thể loại, nhưng thành công nhất là thể tùy bút. 'Người lái đò sông Đà' trích từ tập tùy bút 'Sông Đà', xuất bản năm 1960, là kết quả của chuyến thực tế đến miền Tây Bắc năm 1958 của Nguyễn Tuân, tôn vinh vẻ đẹp thiên nhiên và con người nơi đây.
Nhờ tài năng và quan niệm về cái đẹp, Nguyễn Tuân đã thành công trong việc xây dựng hình tượng ông lái đò, một nhân vật nghệ thuật độc đáo và hấp dẫn. Hình ảnh người lái đò được ông khắc họa qua công việc hàng ngày. Nguyễn Tuân không đặt tên cụ thể cho nhân vật, mà gọi bằng nghề nghiệp, từ đó thể hiện sự chú trọng đến những con người lao động khác ở Tây Bắc cũng như toàn quốc, những người sống âm thầm, giản dị nhưng không ngừng cống hiến cho đất nước. Ông lái đò hiện lên với vẻ ngoài mang đậm dấu ấn của nghề nghiệp: 'tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ầm ào như thác lũ sông Đà, ánh mắt như nhìn về một bến xa nào đó', đặc biệt trên ngực ông có nhiều 'củ nâu' – vết tích của những ngày tháng vật lộn với sông Đà, mà Nguyễn Tuân ví von như 'những huân chương lao động siêu hạng'.
Ông lái đò không phải là người dễ dàng chấp nhận hiện trạng, mà luôn thích đối mặt với hiểm nguy và những pha hành động kịch tính. Dù tuổi đã cao, nhưng ông vẫn giữ được tâm hồn trẻ trung, can trường và niềm đam mê với nghề, cùng sự gắn bó sâu sắc với con sông Đà vĩ đại. Công việc của ông trở thành niềm đam mê, là nguồn vui trong cuộc sống vất vả. Sông Đà trong lòng ông như một bản anh hùng ca đã thuộc lòng, đồng thời nắm vững 'binh pháp của thần sông thần núi', như một tướng tài áp dụng xuất sắc binh pháp Tôn Tử 'biết địch biết ta, trăm trận trăm thắng', và như một nghệ sĩ chuyên nghiệp hiểu rõ mặt trận nghệ thuật đầy cam go. Qua những nét khắc họa này, hình ảnh ông lái đò của Nguyễn Tuân để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả.
Đoạn trích về cuộc vượt thác khắc họa hình tượng ông lái đò tài hoa và dũng mãnh trong trận chiến trên sông Đà qua ba vòng thạch trận. Trước hết, ở vòng đầu tiên, đối diện với trận địa của sông Đà, người lái đò đã dũng cảm đối đầu. Trận địa này gồm bốn cửa tử, chỉ có một cửa sinh mờ mịt bên phía tả ngạn. Tại đây, nước kết hợp với thác tạo thành thanh viện, các hòn đá như những hình nhân bặm trợn, chúng 'bệ vệ, oai phong, lẫm liệt, như đang thách thức thuyền phải xưng tên tuổi trước khi giao chiến'. Những từ ngữ như: Reo hò, bệ vệ, oai phong, thách thức, đã tạo nên không khí trận chiến hồi hộp và đầy kịch tính, phản ánh tài năng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.
Thác đá sông Đà rất khôn ngoan, không chỉ tấn công bằng sức mạnh mà còn bằng nghệ thuật tâm lý. Trước đó, thác đã dùng âm thanh để khiêu khích: 'giọng gằn chế nhạo', có lúc lại 'rống lên như tiếng của một ngàn con trâu mộng'. Giờ đây, nó kết hợp với nước thác để đánh lén: 'túm lấy thắt lưng ông lái đò', 'thúc gối vào bụng và hông thuyền', 'đội cả thuyền lên'. Những động từ mạnh mẽ này làm nổi bật sự hung bạo của thiên nhiên.
Bị tấn công bất ngờ với nhiều chiêu trò, người lái đò không hề nao núng. Ông bình tĩnh chiến đấu, giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng, và với chiến thuật phòng ngự, ông đã giữ được thăng bằng. Dù đau đớn, ông vẫn tỉnh táo chỉ huy sáu người chèo vượt cửa tử vào cửa sinh. Những câu hô chỉ huy ngắn gọn, đầy bản lĩnh của ông đã thể hiện lòng ngưỡng mộ của Nguyễn Tuân đối với sự kiên cường và dũng mãnh của người lái đò.
Ở vòng thứ hai, sông Đà càng hung bạo hơn với nhiều cửa tử mai phục. Nó tăng cường 'tập đoạn cửa tử' và dùng đội quân thác đá: 'Dòng thác như hùm beo, sức mạnh ghê gớm', tạo ra sự bạo liệt và cuồng nộ. Tuy khó khăn hơn, nhưng tinh thần của ông lái đò không bị chùn bước. Ông vận dụng kinh nghiệm và chiến thuật 'đánh nhanh thắng nhanh', khéo léo vượt qua các cạm bẫy. Nhờ sự thông minh và tài năng, ông đã đánh bại vòng vây của đá, làm cho đá phải thất bại với bộ mặt thất vọng. Hình ảnh ông lái đò hiên ngang như Phù Đổng Thiên Vương cưỡi ngựa thần nhổ tre đánh giặc.
Vòng thứ ba là cơ hội cuối để sông Đà thử thách ông lái đò. Với ít cửa hơn, nhưng đều là luồng chết, ông đã dùng chiến thuật 'đánh nhanh thắng nhanh', phóng thẳng thuyền qua cửa giữa với tốc độ nhanh, như một mũi tên xuyên qua hơi nước. Ông đã thể hiện trình độ chèo lái siêu phàm, làm cho sông Đà phải tâm phục khẩu phục. Ông đã vượt qua ba cửa ải hiểm nguy, thể hiện hình ảnh của người lao động kiên cường chống chọi với thiên nhiên để giữ sự sống.
Đọc đoạn vượt thác đầy kịch tính, người đọc như xem một bộ phim hành động nghẹt thở, với ông lái đò là nhân vật chính. Lối dựng cảnh đặc sắc, cách kể chuyện kịch tính, và các biện pháp tu từ đã làm nổi bật hình ảnh người lái đò với sức mạnh và trí thông minh. Cuộc chiến giữa ông và sông Đà là cuộc chiến giữa thiên nhiên dữ dội và con người kiên cường. Ngôn ngữ sống động và hình ảnh phong phú trong tác phẩm cho thấy Nguyễn Tuân là một nhà văn vĩ đại, có tài năng vượt qua quy luật sáng tạo nghệ thuật, làm cho hình tượng ông lái đò và con sông Đà mãi mãi bất tử trong lòng người yêu văn. Nguyễn Tuân thực sự là một tài năng lớn, như Nguyễn Minh Châu đã ca ngợi: 'Nguyễn Tuân là một định nghĩa về người nghệ sĩ.'
9. Phân tích cảnh vượt thác trong 'Người lái đò sông Đà' - Mẫu 2
Có quan điểm cho rằng: 'Nguyễn Tuân chính là hình mẫu của người nghệ sĩ.' Đọc tùy bút 'Người lái đò sông Đà', người đọc sẽ không khỏi ấn tượng với cảnh vượt thác mà tác giả gọi là 'cảnh tượng chưa từng thấy trước đây.'
Tùy bút 'Người lái đò sông Đà' là thành quả của hành trình tìm kiếm vẻ đẹp kỳ vĩ của thiên nhiên và con người vùng Tây Bắc. Nguyễn Tuân đã đi qua nhiều vùng đất, sống cùng bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn cuộc sống ở miền cao đã mang lại cho ông nguồn cảm hứng sáng tạo. Tác phẩm được in trong tập 'Sông Đà' (1960). Truyện chia thành ba phần chính: Phần một (từ đầu đến gậy đánh phèn) miêu tả sự dữ dội của sông Đà. Phần hai (từ đó đến dòng nước sông Đà) miêu tả cuộc sống trên sông Đà và hình tượng người lái đò. Phần cuối cùng là vẻ đẹp trữ tình của sông Đà.
Với tài năng và kiến thức uyên bác, Nguyễn Tuân đã khắc họa một hình ảnh không thể phai mờ về con sông Tây Bắc, vừa dữ dội vừa lãng mạn. Nổi bật trên cảnh thác dữ là hình ảnh một chiến binh sông nước với 'tay lái điêu luyện' đã vượt qua bao thử thách như một nghệ sĩ trong trận chiến vượt thác. Cảnh vượt thác của người lái đò nằm ở phần thứ hai trong 'Người lái đò sông Đà'. Cảnh tượng này mô tả người lái đò vượt qua ba tầng thác với những nguy hiểm dữ dội, được Nguyễn Tuân khắc họa một cách sáng tạo và hấp dẫn.
Nhờ tài năng và quan niệm duy mỹ về cái đẹp, Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hình tượng người lái đò sông Đà - một hình tượng nghệ thuật độc đáo. Người lái đò năm nay đã ngoài 70 tuổi, nhưng cơ thể vẫn rắn rỏi như tượng cẩm thạch: ngực đầy những vết thương - dấu ấn của những lần vượt thác mà Nguyễn Tuân gọi là 'huân chương lao động siêu hạng.' Tay ông dài như cây sào, chân ông vững chắc; ánh mắt ông cao vời vợi, giọng nói ông ầm ầm như tiếng thác. Ông không chỉ được khắc họa qua ngoại hình mà còn qua tài năng và tính cách. Ông xem sông Đà như một thiên anh hùng ca, thuộc lòng mọi luồng lạch và nắm vững chiến thuật của thần sông thần đá.
Trong đoạn văn đầu tiên, Nguyễn Tuân tập trung mô tả trận địa đầu tiên của sông Đà. Tại đây, thác đá đã chuẩn bị sẵn 'trận địa với bốn cửa tử, một cửa sinh.' Nước phối hợp với đá tạo ra âm thanh như thanh viện; những viên đá oai phong như thách thức thuyền phải khai danh trước khi giao chiến. Với những từ ngữ như reo hò, bệ vệ, thách thức, người đọc cảm nhận được không khí chiến đấu căng thẳng và kịch tính. Thác đá sông Đà không chỉ tấn công trực tiếp mà còn sử dụng cả chiến thuật tâm lý. Trước đó, âm thanh của thác đã khiêu khích bằng 'giọng chế nhạo.' Giờ đây, thác dùng 'nước làm thanh viện cho đá.' Với sự hung hãn như một loài thủy quái, sông Đà tấn công dữ dội, từ 'ùa vào bẻ gãy cán chèo' đến 'thúc gối vào bụng thuyền.' Một loạt động từ được Nguyễn Tuân sử dụng để mô tả sự hung bạo của thiên nhiên: ùa vào, bẻ gãy, đá trái, thúc gối, đội...
Dù bị tấn công bất ngờ, người lái đò vẫn giữ bình tĩnh. Với chiến thuật phòng ngự để chuẩn bị cho những thử thách tiếp theo, 'ông đò hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng.' Sông Đà lại chuyển sang dùng đòn vật 'túm lấy thắt lưng ông đò.' Khi ông đò bị tấn công mạnh, 'mắt ông hoa lên' và 'mặt méo bệch' vì đau. Với các động từ như 'đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa,' Nguyễn Tuân tạo ra cơn đau dồn dập cho người lái đò. Nhưng ông vẫn tỉnh táo và chỉ huy sáu bơi chèo vượt qua cửa tử.
Trong đoạn tiếp theo, Nguyễn Tuân tập trung miêu tả thế trận của ông lái đò với sự thông minh, linh hoạt và tài nghệ vượt thác. Chuyển từ phòng ngự, ông lái đò tấn công chủ động. Tại trùng vi thứ hai, sông Đà tăng cường 'tập đoàn cửa tử' và cửa sinh lệch qua bờ hữu ngạn. So với trùng vi đầu, đây là thử thách khó hơn. Nhưng với kinh nghiệm và sự mưu trí, ông lái đò đã 'nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá.' Ông đò cũng tự triết lý với mình rằng 'cưỡi thác sông Đà là cưỡi đến cùng như cưỡi hổ.' Ông tấn công nhanh chóng, như một vận động viên đua ngựa, 'nắm chắc bờm sóng,' 'phóng nhanh,' và 'lái miết.' Sông Đà cố gắng níu thuyền vào cửa tử, nhưng ông đò đã cảnh giác và vượt qua các cửa tử bằng cách 'tránh,' 'đè sấn lên,' và 'chặt đôi' để mở đường tiến. Với sự mưu trí và tài năng, ông vượt qua các cửa tử, khiến đá phải thất bại.
Ở trùng vi cuối cùng, sông Đà tạo ra thế 'trên đe dưới búa' với ít cửa nhưng bên trái và phải đều là luồng chết. Tuy nhiên, ông lái đò đã biến chiếc thuyền thành 'mũi tên' và 'phóng thẳng' qua cửa giữa. Thuyền 'vút qua cửa đá' như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước. Một loạt động từ như 'phóng, chọc thủng, xuyên qua' được Nguyễn Tuân sử dụng để miêu tả cách đánh nhanh thắng nhanh, giúp người lái đò vượt qua thử thách một cách phi thường.
Qua phân tích, người đọc như được mở rộng tầm mắt trước tài năng miêu tả của Nguyễn Tuân. Cảnh vượt thác của người lái đò trở thành một trận chiến 'xưa nay chưa từng có.'
10. Bài viết phân tích cảnh vượt thác trong 'Người lái đò sông Đà' - mẫu 3
Nguyễn Đình Thi từng nhận định: “Nguyễn Tuân là người không ngừng tìm kiếm cái đẹp và cái thật”. Đúng vậy, khi đọc “Người lái đò sông Đà”, người đọc sẽ bị ấn tượng bởi sự tài hoa của ông lái đò, đặc biệt là trong cảnh vượt thác - một cảnh tượng hiếm có.
“Người lái đò sông Đà” là thành quả của chuyến thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là vào năm 1958. Nguyễn Tuân đã khám phá nhiều vùng miền khác nhau, sống cùng bộ đội, công nhân và các dân tộc. Những trải nghiệm trong việc xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã cung cấp cho ông nguồn cảm hứng sáng tạo. Tác phẩm được xuất bản trong tập tùy bút sông Đà (1960). Trong sách giáo khoa, tác phẩm được chia thành ba phần: Phần một (từ đầu đến gậy đánh phèn) miêu tả sự dữ dội của sông Đà. Phần hai (từ tiếp đến dòng nước sông Đà) phản ánh cuộc sống trên sông và hình tượng người lái đò. Phần ba thể hiện sự hiền hòa, trữ tình của sông Đà. Cảnh vượt thác nằm trong phần hai, nổi bật với ba trùng vi chiến trận liên tiếp, làm nổi bật tài năng của ông lái đò.
Khung cảnh chiến trận đã được thiết lập ngay từ câu mở đầu: “Tiếng nước thác như là tiếng oán trách, rồi lại như van xin, rồi như khiêu khích, giọng gằn đầy chế nhạo. Tiếng thác gầm gừ như hàng ngàn con trâu rừng điên cuồng giữa rừng vầu, tre nứa, gầm thét như đám trâu cháy bùng bùng…”. Ở vòng đầu tiên, sông Đà bố trí thạch trận với “bốn cửa tử, một cửa sinh”. Các hòn đá trông đều “ngỗ ngược, nhăn nhúm méo mó”. Khi “thạch trận được dàn bày xong thì con thuyền cũng vừa đến”. Câu văn thể hiện sự sẵn sàng đối đầu của ông lái đò. Nhưng thác đá sông Đà rất khôn ngoan, không chỉ giao chiến trực tiếp mà còn dùng cả nghệ thuật tâm lý chiến. Trước đây, thác đã dùng âm thanh khiêu khích “giọng gằn chế nhạo”. Giờ đây, thác lại dựa vào “nước làm thanh viện cho đá”. Với bản tính hung hãn như thủy quái, sông Đà đã tấn công người lái đò bằng những đòn hiểm hóc. Sông Đà đã “ùa vào bẻ gãy cán chèo”, “liều mạng đá trái sát nách”, “thúc gối vào bụng và hông thuyền”, thậm chí “đội cả thuyền lên”. Dù bị tấn công, ông lái đò vẫn giữ bình tĩnh. Ông đã áp dụng chiến thuật phòng ngự để giữ sức cho những vòng đấu tiếp theo. Do đó, “ông đò hai tay giữ mái chèo để không bị hất lên khỏi sóng”; khi đó, sông Đà lại tấn công bằng cách “túm lấy thắt lưng ông đò đòi lật ngửa”. Không để ông đò có cơ hội phản ứng, sông Đà tiếp tục với đòn hiểm “cả luồng nước bóp chặt lấy hạ bộ người lái đò”. Đối mặt với đòn hiểm, mắt ông hoa lên, “mặt méo bệch đi”. Nhưng ông lái đò vẫn nén đau, giọng bình tĩnh, sắc lạnh chỉ huy sáu bơi chèo còn lại vượt qua cửa tử vào cửa sinh.
Trong vòng đấu thứ hai, sông Đà gia tăng số cửa tử và “bố trí cửa sinh lệch về phía hữu ngạn” để dụ con thuyền vào cửa tử. Nguyễn Tuân đã bình luận về chiến trận lúc bấy giờ: “Cưỡi thác sông Đà phải cưỡi đến cùng như cưỡi hổ”. Với kinh nghiệm dày dạn, ông lái đò không mắc bẫy. “Ông đã nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, thuộc quy luật phục kích của đá”. Như một huấn luyện viên dày dạn kinh nghiệm, ông lái đò quyết định đánh phủ đầu với kế hoạch nhanh chóng. Ông “nắm chắc bờm sóng đúng luồng rồi ghì cương lái”, “phóng nhanh”, “lái miết”… với tốc độ di chuyển nhanh chóng. Nhưng sông Đà không hề kém cạnh, đáp trả bằng cách “bốn năm bọn thủy quân ở bờ trái liền xô ra níu thuyền vào tập đoàn cửa tử”. Vẫn nhớ kẻ thù, ông lái đò “tránh và rảo bơi chèo, đè sấn mở đường tiến”. Cuối cùng, các cửa tử đã bị bỏ lại, chỉ còn lại tiếng thác đá khiêu khích phía sau.
Đỉnh điểm là ở vòng cuối cùng, sông Đà, không còn gì để mất, đã tung ra những đòn hiểm nhất. Ở vòng này ít cửa hơn nhưng luồng sống nằm giữa bọn đá hậu vệ. Có thể nói, sông Đà đã sử dụng thế “trên đe dưới búa” khiến người lái đò phải đối mặt với “tiến thoái lưỡng nan”. Nhưng ông lái đò đã biến chiếc thuyền sáu bơi chèo thành một mũi tên, và ông như một cung thủ đã “phóng thẳng thuyền chọc thủng cửa giữa”. Thuyền vút qua cửa đá cánh mở, cánh khép, vút vút, cửa ngoài, cửa trong, cửa trong cùng. “Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái và lượn”. Cuối cùng, ông lái đò đã chiến thắng trước sông Đà hung dữ.
Đoạn văn miêu tả cảnh vượt thác được Nguyễn Tuân thể hiện một cách tài tình với ngôn ngữ giàu hình ảnh. Nhà văn đã biến cuộc vượt thác thành một cuộc chiến khốc liệt, khiến người đọc cảm thấy hồi hộp, đặc biệt với việc sử dụng động từ mạnh để diễn tả sự cuồng nộ của sông Đà. Sự dồn dập của các động từ khiến người đọc nghẹt thở, rồi thở phào khi kết thúc.
Tóm lại, cảnh vượt thác của ông lái đò chính là một cảnh tượng độc đáo, hấp dẫn người đọc đến từng câu chữ. Nguyễn Tuân đã thành công trong việc khắc họa cảnh tượng này, làm nổi bật tài hoa của người lái đò sông Đà.