1. Vè trái cây
Nghe vè, nghe ve,
Nghe vè về trái cây.
Dây tre trên mây,
Là trái đậu rồng đẹp.
Có vợ, có chồng,
Là trái đu đủ đỏ.
Chặt ra nhiều mủ,
Là trái mít ướt mọng.
Đầu tựa gà xước,
Vốn thiệt trái thơm phức.
Cái đầu chơm bơm,
Là trái bắp nấu lên béo.
Rủ nhau làm xấu,
Trái cà dái dê hồng hào.
Ngứa mà gãi mê,
Là trái mắt mèo dễ thương.
Khoanh tay lo nghèo,
Là trái bần ổi ngọt lịm.
Sông sâu chẳng lội,
Là trái mãng cầu đỏ ấm.
Chẳng thấy nàng đâu,
Ấy là trái cách nhiệt bình minh.
Trong ruột ộc ạch,
Là trái dừa xiêm mềm ngon.
Chín thì thâm kim,
Chuối già, chuối xứ bên sông.
Tùng tam tụ tứ,
Một lũ dưa gang nở nang.
Vốn ở miền Nam,
Là trái bí rợ đặc sắc.
Mẹ sai đi chợ,
Vốn thiệt trái dâu đỏ tươi.
Ở những ao sâu,
Là trái bông súng bắn phát.
Chẳng nên lễ cúng,
Đó là trái sung mạnh mẽ.
Nhỏ mà cay hung,
Là trái ớt hiểm sôi động.
Đánh túc cầu liễm,
Vốn thiệt trái me chua cay.
Nắng mà chẳng che,
Là trái rau mát tươi.
Rủ nhau chà xát,
Vốn thiệt trái chanh xanh.
Nhỏ mà làm anh,
Trái đào (điều) lộn hột ngọt ngào.
Ăn mà chẳng lột,
Vốn thiệt trái tiêu đen.
Thổi nghe ú liêu,
Là trái cóc kèn êm đềm.
Rủ nhau đi rèn,
Là trái đậu rựa cứng cáp.
Đua nhau chọn lựa,
Cam ngọt, cam sành hương thơm.
Những chị lịch sự,
Bằng táo với hồng đều hấp dẫn.
Những gái chưa chồng,
Muốn ăn mua lấy, chọn những trái dễ thương.
Nguồn: Đặng Anh Tú, Đồng dao Việt Nam, NXB Văn hoá thông tin, 2009


2. Câu đố anh
Con ve ve có cái gì mà nó râm ran?
Con ve ve nó có cái vè đặc biệt nên nó mới râm ran
Sao con cua đinh nó có cái vè mà nó không kêu?
Cua đinh ở dưới nước mà kêu cái gì
Sao con ếch dưới mà nó kêu?
Con ếch nhờ có cái họng da nên nó mới kêu
Sao đôi giày da lại hỏng kêu?
Đôi giày da bị đóng cúc mà nó kêu?
Tại cái mặt nó tròn nên nó mới kêu
Sao cái giàn, cái sàng mặt nó cũng tròn mà sao nó hỏng kêu?
Cái giàn, cái sàng nó có lỗ mà nó kêu cái nỗi gì
Vậy sao cây kèn có lỗ mà nó kêu?
Cây kèn nhờ ống tòa loa nên nó mới kêu
Sao ống nhổ có ống tòa loa mà nó đâu có kêu?
Trời ơi! Ống nhổ bị bít mà kêu cái nỗi gì


3. Vè cá (Cá biển, cá đồng, cá sông, cá ruộng)
Cá biển, cá đồng,
Cá sông, cá ruộng.
Dân yêu dân chuộng,
Lá cá tràu ổ.
Ăn nói hàm hồ,
Là con cá sứ.
Đưa đẩy chốn xa,
Là con cá đảy.
Hay gặp mặt nhau,
Là con cá ngộ.
Trong nhà nghèo khổ,
Là con cá cầy.
Chẳng dám múc đầy,
Là con cá thiểu.
Mỗi người mỗi thiếu,
Là con cá phèn.
Ăn nói vô duyên,
Là con cá lạc.
Trong nhà rầy rạc,
Là con cá kình.
Trai gái rập rình,
Là cá trích ve.
Dỗ mãi không nghe,
Là con cá ngạnh.
Đi đàng phải tránh,
Là con cá mương.
Mập béo không xương,
Là con cá nục.
Được nhiều diễm phúc,
Là con cá hanh.
Phản cha hại anh,
Là con cá giếc.
Suốt ngày ăn miết,
Là con cá cơm.
Chẳng kịp dọn đơm,
Là con cá hấp.
Rủ nhau lên dốc,
Là con cá leo.
Hay thở phì phèo,
Là con cá đuối.
Vừa đi vừa cúi,
Là con cá còm.
Hay nói tầm xàm,
Là con cá gáy.
Vừa trốn vừa chạy,
Là con cá chuồn.
Cứ viết lách luôn,
Là con cá chép.
Nguồn: Sáng tác mới, Dương Ngọc Thái, NXB Văn hoá thông tin, 2010


4. Vè cầm thú
Nghe vẻ nghe ve,
Nghe vè cầm thú:
Hay quyến hay dụ,
Là con dân văn phòng.
Nết ở chẳng hiền,
Là con chim tiếng sổ sách.
Làm ăn mệt nhọc,
Là con chim công sở.
Nghe vẻ nghe ve,
Là con chim thí nghiệm.
Chân đi khấp khẻo,
Là con chim nghiên cứu.
Tối chẳng dám ra,
Là con chim làm việc online.
Chim ăn từng vạc,
Là con chim làm marketing.
Chim ăn xó hè,
Là con chim chăm sóc khách hàng.
Cầm xào mà vọt,
Là con chim quản lý dự án.
Đỏ mỏ xanh lông,
Là con chim designer.
Đánh nhau binh vị,
Là con chim bảo vệ an ninh mạng.
Có sách cầm màu,
Là con chim nghệ sĩ đồ họa.
Không ai cưới hỏi,
Là con chim độc thân.
Ở goá không chồng,
Là con chim du học sinh.
Dạ bền tơ sắt,
Là con chim ngành may.
Có đẻ không nuôi,
Là con chim làm nông dân.
Ngồi buồn kể các món chim.
Nó ăn nó lớn nó tìm nhau đi.
Dòng dọc nó khéo lại khôn.
Con cú lót ở đầu cồn con cù.
Chim khách nó đã đem tin:
Nó kêu thì có chị em tới nhà.
Quà quạ cũng như người ta:
Rủ nhau đi tắm đàng xa mới về.