1. Bài viết Phân Tích 'Cảm xúc mùa thu' số 1
Đỗ Phủ (712 - 770) tên chữ là Tử Mĩ, hiệu là Thiếu Lăng, người huyện Củng, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống Nho học và thơ ca lâu đời. Thủa trẻ Đỗ Phủ cũng đi thi nhưng không đỗ. Suốt cuộc đời, ông sống trong cảnh đói nghèo và bệnh tật.
Tuy vậy, ngọn lửa đam mê văn chương trong lòng ông không bao giờ tắt. Ông sáng tác rất nhiều và để lại cho đời hàng ngàn bài thơ có nội dung phong phú, sâu sắc, phản ánh sinh động những sự kiện lịch sử thời ông đang sống và chan chứa lòng yêu nước thương đời. Với những đóng góp to lớn cho nền thi ca Trung Quốc nói riêng và nền văn hóa nhân loại nói chung, Đỗ Phủ đã được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.
Bên cạnh những bài thơ được coi là "thi sử" (lịch sử bằng thơ), Đỗ Phủ còn sáng tác nhiều bài thơ trữ tình thể hiện cảm xúc chân thành của mình trước thiên nhiên, con người và cuộc đời. Trong những bài thơ đặc sắc có bài Thu hứng (Cảm xúc mùa thu).
Đây là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu bạt ở Quý Châu.. Tứ Xuyên là vùng núi non hùng vĩ, hiểm trở, cách xa quê hương nhà thơ mấy ngàn dặm. Sau mười một năm kể từ khi bùng nổ loạn An Lộc Sơn, tuy loạn đã dẹp xong nhưng đất nước kiệt quệ vì chiến tranh và nhà thơ vẫn phải lưu lạc ở quê người. Hoàn cảnh ấy đã khơi gợi cảm xúc bi thương là cảm xúc chủ đạo của Thu hứng.
Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) vừa là bức tranh mùa thu ảm đạm, hắt hiu, Vừa là bức tranh tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn li: lo cho hiện tình của đất nước đang lâm vào cảnh rối ren, loạn lạc; thương nhớ quê hương xa xôi và ngậm ngùi xót xa cho thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.
Phiên âm chữ Hán:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thồi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Dịch nghĩa:
Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong
Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt
Gió lộng sông, sóng vọt lên tận lưng trời,
Trên cửa ải, mây sà xuống giáp mặt đất âm u.
Khóm cúc nở hoa đã: hai lần (làm) tuôn rơi nước mắt ngày trước,
Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ nơi vườn cũ.
Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét,
Về chiều, thành Bạch Đế cao, tiếng chày đập áo nghe càng dồn dập.
Dịch thơ tiếng Việt:
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
(Nguyễn Công Trứ dịch)
Bài thơ có thể chia làm hai phần: Bổn câu thơ đầu (đề, thực) là bức tranh vé thiên nhiên mùa thu ở vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang. Bốn câu sau chủ yếu thể hiện cảm hứng của thi nhân trước cảnh thu về trên đất khách. Ở cặp câu thứ nhất, chỉ với vài nét chấm phá, tác giả đã thể hiện được cái thần của một chiều thu ở Quý Châu:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.)
Người đọc có thể nhận thấy Đỗ Phủ đứng ở vị trí tương đôi cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của ông khá xa, khá rộng. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ thể hiện ngay từ câu thơ đầu tả cảnh rừng phong:
Ngọc lộ điếu thương phong thụ lâm
(Lác đác rừng phong hạt móc sa).
Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu bởi mỗi độ thu về, có rừng phong chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự li biệt. Sương trắng cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo. Sương móc sa dày đặc làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua cái nhìn đầy tâm trạng của nhà thơ.
Câu thứ hai: Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm. Nhắc, đến Vu sơn, Vu giáp là người đọc nghĩ ngay tới hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia. Toàn cảnh bao trùm trong hơi thu hiu hắt. Trong bản dịch, từ lòa cùng với từ hiu hắt chỉ lột tả được một phần ý nghĩa của cụm từ khi tiêu sâm (tối tăm, ảm đạm).
Chữ ngàn non thay thế cho Vu sơn, Vu giáp khiến bản dịch dễ hiểu song lại làm mờ nhạt bản sắc của phong cảnh Quý Châu. Vu sơn, Vu giáp tức là núi Vu, hẻm Vu nổi tiếng hiểm trở và hùng vĩ. Được nhắc đến nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Suốt cả chiều dài bảy trăm dặm, núi tiếp núi dọc đôi bờ sông, tuyệt không có một chỗ trống.
Quanh năm, mây mù bao phủ những ngọn núi cao vút. Vách núi dựng đứng nên ánh mặt trời khó lọt được xuống tới lòng sông. Vào mùa thu, khung cảnh nơi đây vốn ảm đạm, lạnh lẽo, qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng li sầu của Đỗ Phủ lại càng thêm tối tăm, ảm đạm. Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu ở rừng phong, câu thứ hai tả cảnh thu ở núi non.
Tuy cảnh vật khác nhau nhưng nhà thơ nhìn chúng với con mắt và tâm trạng giống nhau: trĩu nặng một nỗi buồn thương. Vẫn tiếp tục quan sát thiên nhiên với tâm trạng như thế nên Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ tả thực đầy ám ảnh như có ma lực cuốn hút hồn người:
Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lưng trời sông rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.)
Ở hai câu đề là cảnh thu trên cao (rừng phong, dãy núi), đến hai câu thực là cảnh thu dưới thấp, vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt thi nhân và được miêu tả bằng ngọn bút kì tài mà thành những vần thơ trác tuyệt. Sông ở thượng nguồn thường hợp, nhiều ghềnh thác, nước chảy rất xiết. Vì thế nên mới có cảnh giữa lòng sông, sóng dữ dội vọt lên đến tận lưng trời.
Trong câu thơ dịch: Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, các tính từ rợn, thẳm đặc tả sự hùng vĩ hiếm có của vùng sông nước nơi đây và thể hiện cảm giác choáng ngợp của con người nhỏ bé trước thiên nhiên hùng vĩ. Hình ảnh: Mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực cảnh mây trắng sà xuống thấp đến mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải phía xa xa.
Nếu ở hai câu trên, cảnh sắc nhuốm màu bi thương tàn tạ thì ở đây cảnh sắc lại có phần vừa hoành tráng vừa dữ dội. Hai cặp câu như bổ sung cho nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u, vừa hùng vĩ.
Bốn câu thơ, mỗi câu tả một cảnh thu cụ thể, đặt cạnh nhau tạo thành một bức tranh mùa thu rộng lớn, hiển hiện rõ ràng cái hồn đặc trưng của mùa thu chốn núi non với đủ cả rừng phong, dãy núi, bầu trời, lòng sông, mặt đất, mây mù, cửa ải xa...
Sức khơi gợi, liên tưởng của bức tranh thu ấy trong tâm hồn người đọc là vô biên, vô tận. Tuy tác giả chưa nhắc tới cảnh đời điêu linh nhưng hình như nó đã thấp thoáng ẩn hiện sau hình ảnh những cánh rừng phong xơ xác vì sương gió, hình ảnh đất trời đảo lộn trên sóng nước Trường Giang và mây xám mịt mù vùng quan ải.
Đứng trước khung cảnh ấy, một nhà thơ có trái tim nhạy cảm như Đỗ Phủ làm sao lại không nhớ thương quê cũ đến cháy lòng. Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Câu năm và câu sáu có nghệ thuật đối rất Chỉnh vừa là cảnh thu mà cũng là tình thu:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Khóm cúc tuồn thêm dòng lệ củ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)
Đây là hai câu hay nhất trong bài thơ chữ Hán của Đỗ Phủ cũng như trong bản dịch của Nguyễn Công Trứ. Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng đi đôi với mùa thu. Đỗ Phủ nhắc đến hoa cúc, điều đó không có gì mới. Điều quan trọng là mỗi lần thấy cúc nở hoa nhà thơ lại rơi lệ. Câu thơ nguyên văn chữ Hán ; Tùng cúc lường khai tha nhật lệ (Khóm cúc nở hoa đã hai lần, làm tuôn rơi nước mắt ngày trước).
Nguyễn Công Trứ dịch thoát ý là : Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ cũng rất hay, giúp người đọc hình dung ra tâm trạng cô đơn chất chửa sầu thương của Đỗ Phủ trong những tháng năm phiêu bạt, xạ quê hương sâu nặng nghĩa tình. Hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là đã hai năm Đỗ Phủ sống ở Quý Châu. Hoa cúc xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn ngào.
Hoa cúc là yếu tố gợi nhớ, hình ảnh con thuyền càng làm cho nỗi nhớ nhà, nhớ quê trào dâng trong lòng tác giả: Cô chu nhất hệ cố viên tâm. (Con thuyền lẻ loi buộc mãi tấm lòng nhớ thương nơi vườn cũ). Câu thơ dịch bỏ mất tính từ cô trong Cô chu chứa chất đầy tâm, trạng của Đỗ Phủ nơi đất khách. Chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một ẩn dụ đầy ý nghĩa không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà còn vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của nhà thơ về với quê hương trong tâm tưởng. Hai câu kết:
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.)
Ở hai câu cuối bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải trên bến sông, trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này đem đến cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui nhưng thoáng vui ấy không đủ để xua đi những áng mây buồn đang vây phủ trong tâm hồn thi sĩ.
Khí thu lạnh lẽo như nhắc nhở mọi người rằng mùa đông sắp đến, phải chuẩn bị nhanh nhanh cho việc may áo ấm. Hãy đọc lại câu thơ thứ tư: Tái thượng phong vân tiếp địa âm. (Trên cửa ải, mây sà xuống giáp mặt đất âm u). Lúc này, Loạn An Lộc Sơn đã dẹp xong nhưng đất nước chưa yên, chồng con của bao người còn trấn giữ nơi ải xa, nỗi lo còn đó.
Trời tối rồi (mộ), không nhìn thấy gì nữa, nhà thơ chỉ nghe thấy tiếng chày đập vải và chạnh lòng nghĩ tới những người lính thú nơi quan ải. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc bài thơ, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang... "Ngôn tận nhi ý bất tận" (lời hết mà ý không hết). Đỗ Phủ cảm thấy Không lời lẽ nào có thể nói hết nỗi niềm Thu hứng.
Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ là kết cấu hết sức chặt chẽ câu nào cũng bám chặt chủ đề, tức là đều thể hiện được hai yếu tố "cảm xúc" và "mùa thu ", vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, khí thu, gió thu, sông thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng Chày đập vải). Tác giả thâu tóm cả thần thái của mùa thu trong bài thờ. Đó là một chiều thu cụ thể ở vùng đất Quý Châu trong giai đoạn suy vong của triều đình phong kiến đương thời.
Chiến tranh xảy ra liên miên đã đầy Đỗ Phủ phiêu bạt về tận góc trời xa thẳm. Ngày đêm, ông chi còn ôm ấp một hi vọng mong manh là được trở về quê cũ. Hẳn ước mơ của Đỗ Phủ cũng là ước mơ của bao người dân nghèo khổ lưu vong. Bởi vậy, bài thơ tuy không miêu tả trực tiếp tình hình xã hội nhưng vẫn có ý nghĩa hiện thực sâu sắc và chan chứa tình đời.
Ở trong bài thơ, các mối quan hệ giữa xa và gần, giữa không gian và thời gian, giữa thị giác và thính giác, giữa thu hứng có sự liên kết chặt chẽ. Sự vận hành của tứ thơ rất lôgíc: từ xa đến gần, từ không gian mà cảm nhận thời gian, từ ngoại cảnh thể hiện nội tâm. Hàm ẩn trong mỗi câu, mỗi chữ là tâm hồn đau đáu nỗi thương đời, thương người của Đỗ Phủ.
Cảm xúc mùa thu là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách thơ trữ tình của Đỗ Phủ.
Thu hứng dạt dào xuất phát từ rung động mãnh liệt của trái tim nhà thơ đã được thể hiện đầy đủ qua ngọn bút thần tình. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang phải sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật, cô đơn nơi xứ lạ.
Cùng với một số bài thơ nổi tiếng khác như Đăng cao, Mao ốc thu phong vị sở phá ca . . được lưu truyền rộng rãi qua hàng ngàn năm, Thu hứng góp phần khẳng định tài năng kiệt xuất của Đỗ Phủ. Ông xứng đáng được người đời tôn vinh lá bậc "Thi thánh" của thơ? Thịnh Đường mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.


Thu hứng (bài số 1) của Đỗ Phủ là một tác phẩm thơ đặc sắc, tràn đầy sâu sắc và ý nghĩa, tinh tế và uyển chuyển. Trong bài thơ, tác giả khéo léo kết hợp giữa tâm trạng và cảnh đẹp, giữa nghệ thuật thơ và hội họa, tạo nên một tác phẩm phong phú và đa chiều.
Bài thơ có thể được chia thành hai phần: bốn câu đầu tập trung vào mô tả cảnh thu, trong khi bốn câu sau thể hiện tâm trạng và tâm lý của nhà thơ. Sự phân chia này không chỉ là một cấu trúc hình thức, mà còn là sự kết hợp sâu sắc giữa hai phần của bài thơ, tạo nên một liên kết tinh tế và phức tạp.
Thơ cổ thường nhấn mạnh sự đồng nhất giữa con người và vũ trụ ('Thiên nhân tương đồng'). 'Tôi' (tiểu ngã) chỉ là một phần của 'ta' vũ trụ (đại ngã). Cảnh đẹp được thể hiện thông qua trí tưởng tượng và cảm nhận tâm hồn. Bốn câu đầu với những chi tiết chân thực như ong kính hắt đầu từ rừng phong, núi Vu đến đợt sóng bọt trên sông, tất cả tạo nên một bức tranh sống động và hùng vĩ.
Nhà thơ không chỉ mô tả một cảnh vật bình thường mà còn chọn lọc và tỉa tót để phản ánh cảm nhận tâm lý. Cây phong, biểu tượng của nỗi buồn và chia ly trong thơ Đường, lại xuất hiện, làm đậm thêm nét hiu quạnh và buồn bã trong tâm hồn nhà thơ.
Các câu thơ sau đó tiếp tục phát triển cảm xúc, tập trung vào hoa cúc và con thuyền, nhưng chúng lại trở thành biểu tượng của tâm trạng và cảnh đẹp, không rõ ràng là vật thể cụ thể hay tâm trạng trừu tượng. Tình và cảnh, hiện tại và quá khứ, sự vật và con người, tất cả hòa quyện trong tâm hồn nhà thơ.
Câu kết độc đáo của bài thơ mở ra nhiều ý nghĩa, tận dụng cảnh khách quan để thể hiện tâm trạng chung của xã hội. Tiếng chày đập áo trên thành Bạch Đế không chỉ là âm thanh ngoại cảnh mà còn là biểu tượng của mùa đông gần kề, với những lo lắng và nỗi nhớ về quê hương.
Bài thơ của Đỗ Phủ, trong bức tranh của mùa thu tuyệt vời, không chỉ mô tả cảnh đẹp mà còn chứa đựng tâm trạng sâu lắng và tư duy triết học về cuộc sống và tình cảm. Mỗi chi tiết được chọn lọc cẩn thận, từng từ ngôn ngữ được sắp xếp một cách tinh tế, tạo nên một tác phẩm thơ đẹp mắt và sâu sắc.
Đỗ Phủ đã tạo ra một kiệt tác thơ độc đáo, làm cho độc giả không chỉ ngắm nhìn cảnh đẹp mà còn suy ngẫm về ý nghĩa sâu sắc của cuộc sống và tình người.


Đến Trung Quốc, ai cũng biết đến nhà thơ nổi tiếng Đỗ Phủ (712-770). Ông sáng tạo hàng nghìn bài thơ độc đáo, sâu sắc, thường nói về tác động của thời đại lên cuộc sống của người dân và chính bản thân ông. Trong số các tác phẩm xuất sắc, có bài thơ 'cảm xúc mùa thu', nằm ở đầu bộ thơ 'thu hứng' năm 766, khi ông và gia đình trốn nạn ở Quỳ Châu.
'Cảm xúc mùa thu' là bức tranh thu ảm đạm, buồn thảm, vừa là hình ảnh đau lòng của nhà thơ đối mặt với thời kỳ khó khăn, hỗn loạn. Bài thơ được chia thành hai phần, bốn câu thơ đầu tả cảnh mùa thu ảm đạm, buồn thảm. Bốn câu thơ sau mô tả tâm trạng, đó chính là cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước cảnh mùa thu, nhớ về quê hương và tình cảnh của nhân dân. Hai câu thơ đầu nhìn rộng và xa:
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Tác giả chọn góc nhìn từ rừng núi xuống sông, nhìn toàn cảnh theo chiều rộng. Phong cảnh thu vàng rực khiến người ta liên tưởng đến mùa thu. Nhưng sương trắng dày đặc làm xóa sạch màu vàng, tạo ra vẻ tiêu điều, lạnh lùng. Nét tiêu điều hiện rõ trong mắt của nhà thơ.
Câu thứ hai thể hiện sự lạnh lùng của 'Vu sơn, Vu giáp', là con đường hiểm trở, vách núi cao đứng nên ánh mặt trời khó chạm vào lòng sông. Trong mùa thu, không khí lạnh ảm, buồn thảm được nhà thơ tận hưởng và miêu tả. Qua hai câu đầu về cảnh núi rừng mùa thu, sự tiêu điều, buồn thảm lan tỏa khắp không gian, hoàn toàn khác biệt với cảnh thu trong thơ truyền thống. Đó là sự đau đớn, Đỗ Phủ thể hiện qua những dòng thơ sâu sắc:
Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,
Tại thượng phong vân tiếp địa âm.
Hình ảnh đối lập rất thú vị trong hai câu thơ này, sóng nước dâng cao tới trời, sau đó mây bao phủ xuống đất, từ thấp lên cao và ngược lại, sự chuyển động ngược lại và tuyệt đối. Cảnh mùa thu chuyển động mạnh mẽ tạo nên bức tranh hùng vĩ và thảm trạng. Sự chuyển động hỗn loạn của cảnh vật cũng là sự hỗn loạn của xã hội thời đó.
Lời thơ là biểu tượng của tình cảm tuyệt vọng trước thế giới nghẹn ngào của nhà thơ. Bốn câu thơ tả cảnh cụ thể được sắp xếp cùng nhau để tạo ra bức tranh thu rộng lớn, vừa tiêu điều mà lại dữ dội, hùng vĩ. Cảnh vật kia đồng thời làm nổi bật nỗi buồn đau tê tái và sự lo lắng của nhà thơ về tình hình không ổn định tại biên giới. Cảnh thu ở phần đầu đã thức tỉnh tình cảm trong trái tim nhà thơ. Bốn câu thơ sau thể hiện nỗi nhớ về quê hương và tình cảm của dân chúng.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cố chu nhất hệ cố viên tâm.
Cúc là biểu tượng của mùa thu, ký hiệu của niềm vui và vẻ đẹp, nhưng nhìn thấy nó nhỏ lệ, gợi lên nỗi buồn sâu sắc của nhà thơ. Nhìn hoa cúc, nhớ về những mùa thu tại quê hương khiến lòng ông đau đớn, nghẹn ngào. Chữ 'lệ' trong bài thơ khó phân biệt lệ của con người hay của hoa, nhưng có thể hiểu là mỗi lần nhìn thấy hoa cúc nở, nhà thơ lại cảm thấy buồn nhớ về quê hương.
Những giọt nước mắt tràn ra không thể ngăn lại được, hình ảnh hoa cúc nở rồi lại nở làm tăng cường ảnh hưởng của nỗi nhớ quê, và cũng làm nổi bật những dòng lệ chứa đựng tình cảm sâu sắc của nhà thơ. 'Cố chu' là chiếc thuyền cô độc, khi nhìn thấy chiếc thuyền, tâm trạng của tác giả bùng phát, nhớ về quê hương da diết.
Hình ảnh chiếc thuyền trôi nổi, lưu lạc, là biểu tượng duy nhất của ước mơ trở về quê hương, 'hệ cố viên tâm' là hình ảnh đặc biệt như một kết nối chặt chẽ giữa con người và quê hương, như chiếc thuyền trôi về quê hương. Sử dụng tinh tế của ẩn dụ, hai câu thơ biểu hiện nỗi nhớ quê hương một cách sinh động, chân thành và sâu sắc của nhà thơ. Hai câu thơ cuối cùng tạo ra âm thanh sống động:
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ chân.
Cảnh nhộn nhịp của mọi người giặt áo cũ, âm thanh chày đập vải hứng khởi trên sông chuẩn bị cho mùa đông, tạo nên cuộc sống sinh hoạt vui tươi và năng động, vui vẻ và sôi động, nhưng cũng đẩy sâu vào lòng người nỗi nhớ quê hương đau đớn, buồn thương, nhớ đến cuộc sống an bình tại quê nhà. Trời tối, nhà thơ không nhìn thấy gì, chỉ nghe tiếng chày đập vải và chạnh lòng nhớ đến những người lính ở biên giới.
Bằng cách sử dụng không gian rộng lớn, cao, sâu, thấp lên cao và từ cao xuống thấp, và ẩn dụ đặc sắc, tạo ra sự đối xứng chặt chẽ. Phong cách mô tả cảnh nội tâm, ngôn ngữ thể hiện cảm xúc, sử dụng quá khứ để nói về hiện tại. Bài thơ đã mô tả bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, đồng thời cảm nhận sự buồn bã, xót xa về nỗi nhớ quê hương của nhà thơ.
Bài thơ 'Cảm xúc mùa thu' là một tác phẩm hay và ý nghĩa. Nó là biểu tượng cho sự nhớ nhà của tác giả khi phải rời xa quê hương trong thời kỳ rối ren. Bài thơ như một lời nhắc nhở chúng ta yêu quê hương và trân trọng nơi chúng ta đã sinh ra.


4. Phân tích tác phẩm 'Cảm xúc mùa thu' số 5
Đỗ Phủ, tên gọi Thi Thánh, được xem là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc. Ông để lại một sự nghiệp sáng tạo đồ sộ với khoảng 1500 bài thơ có giá trị. Trong đó, Cảm xúc mùa thu, một phần của bộ thơ “Thu hứng” gồm tám bài, được đánh giá là tác phẩm hay nhất, bao quát nội dung của bảy bài thơ khác. Tác phẩm này thể hiện lòng nhớ nhà, khắc khoải của tác giả.
Bài thơ được sáng tác vào năm 766, thời điểm mà Trung Quốc vừa trải qua loạn An Lộc Sơn. Hậu quả của loạn này làm suy thoái triều đại nhà Đường. Cả nội chiến và xâm lược từ bên ngoại đều đe dọa bùng nổ. Nhân dân chịu đựng nhiều khổ cực, và Đỗ Phủ cũng trải qua những thử thách khốn khổ trong thời kỳ này.
Đỗ Phủ đến vùng đất Tứ Xuyên, nhờ sự giúp đỡ của một người bạn thân là quan nhưng sau khi bạn ấy qua đời, ông mất đi sự hỗ trợ. Ông đưa gia đình về nhưng đối mặt với đói khổ, bệnh tật, và bế tắc, nơi mà ông bị mắc kẹt ở Quỳ Châu trong hai năm. Trong thời gian này, ông sáng tác nhiều bài thơ bi thảm và buồn bã.
Rừng phong lạc loài sương mỏng,
Non xanh hiu quạnh, khí thu lạnh buốt.
Đầu thơ hiển thị ba biểu tượng mùa thu đặc trưng nhất: rừng phong, hạt sương, nghìn thu. Ba hình ảnh này tạo cảm giác lạnh lẽo, u buồn, đặc biệt khi sương mỏng thường xuất hiện trong mùa thu Trung Quốc, tạo nên không khí lạnh buốt. Tuy nhiên, dịch thuật không thể truyền đạt được cảm nhận của nguyên tác: 'Sương mỏng trắng đặc, phủ kín không gian, cảnh vật.' Màu trắng không chỉ tạo nên sự tinh khôi, thanh khiết mà còn thể hiện sự ảm đạm và lạnh lẽo, kết hợp với sương trắng xóa, tạo nên hình ảnh rừng phong mùa thu thường có màu đỏ, gợi lên sự ấm áp và rực rỡ. Nhưng với lớp sương dày đặc, cảnh rừng trở nên ảm đạm, tiêu điều.
Câu thứ hai mô tả rõ hơn sự ảm đạm và hiu quạnh của thiên nhiên. Vu sơn, Vu giáp là những dãy núi dài, không có khoảng trống. Vùng núi cao này luôn bị tăm tối, u ám, không có ánh sáng mặt trời, kết hợp với sương dày, tạo nên không khí ảm đạm và buồn bã hơn. Ba hình ảnh kết hợp tạo ra cảm giác lạnh lẽo, u tối và đầy nặng nề.
Nếu hai câu đầu mở ra cảnh mùa thu rộng lớn, thì hai câu sau mô tả cảnh mùa thu theo chiều cao: Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng/ Tái thương phong vân tiếp địa âm. Tác giả sử dụng kỹ thuật đối và phóng đại: sóng vỗ đến tận bầu trời; mây rơi xuống gặp mặt đất. Hai sự vận động trái chiều: lên và xuống, các động từ nhấn mạnh sự vận động ngược chiều. Hai sự vật di chuyển ngược chiều, gần nhau, làm tăng cảm giác chật chội, bị kín đáo bởi sự mờ ảo và hoang vu của sông và mây. Bức tranh thể hiện sự hùng vĩ nhưng âm u, dữ dội và ngột ngạt. Bốn câu đầu đưa ta nhìn xa: rừng phong, sông núi, cửa ải,... bốn câu sau mô tả cảnh mùa thu gần, trước mắt tác giả là hình ảnh:
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Với ý nghĩa sâu sắc, bản dịch không thể truyền đạt hết ý nghĩa của nguyên tác. Câu thứ năm mang đến nhiều diễn giải, vì chủ thể của nước mắt chảy đều bị che giấu. Có thể hiểu nước mắt là của khóm cúc vì những bông hoa nở ra giống giọt lệ, nhưng cũng có thể hiểu rằng chủ thể của nước mắt là thi nhân. Mỗi lần nhìn thấy hoa cúc nở là mỗi lần nhận ra thời gian trôi qua, và ôi thôi, mình bị buộc ở đây mãi, khiến lòng tràn đầy niềm nhớ quê trong sự bất lực.
Dù hiểu theo cách nào, câu thứ năm chứa đựng nỗi buồn của tác giả mỗi khi hoa cúc nở. Khóm cúc nở hoa nhấn mạnh con số hai, hai năm - thời gian gia đình tác giả lưu lạc và mắc kẹt ở Quỳ Châu. 'Lưỡng khai' là biểu tượng của sự thống khổ - số nhiều - làm nổi bật nỗi đau vô tận và kéo dài. Không chỉ năm nay, hoa cúc nở mới làm thức tỉnh nỗi đau, mà nỗi đau đó từ năm ngoái, cho thấy nó đã tồn tại lâu dài, liên tục. Nỗi đau trong bế tắc - nỗi đau của thời đại, niềm nhớ quê mà không thể trở về.
Cảnh ngộ lẻ loi của tác giả được thể hiện rõ trong hình ảnh 'cô chu' - chiếc thuyền đơn độc, cô độc. Đồng thời, nó gợi lên cảnh ngộ của sự cô đơn, lẻ loi, trôi nổi nơi đất xa lạ. Câu thứ năm đầu tiên là hình ảnh thực tế: chiếc thuyền mang gia đình của nhà thơ về quê đã bị mắc kẹt ở Quỳ Châu. Đằng sau sự thật là một ý nghĩa sâu sắc: gửi nỗi nhớ quê buộc chặt trên chiếc thuyền đơn độc nơi đất xa lạ. Từ 'buộc' trở thành từ khóa của câu thơ, không chỉ là sợi dây trói chiếc thuyền, mà còn là sợi dây trói con tim của người viết.
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Với ngôn từ sắc sảo, ý tưởng tận dụng, bằng phương pháp mô tả tình cảnh tinh tế, Đỗ Phủ đã tái tạo bức tranh mùa thu xơ xác, u tối và lạnh lẽo. Đằng sau bức tranh đó là tâm trạng của bài thơ: lo lắng cho đất nước, nhớ quê hương và đau lòng vì số phận của chính mình.


Đỗ Phủ, nhà thơ lỗi lạc với đóng góp lớn cho thi ca Trung Quốc, là một thi sĩ tiêu biểu với nhiều tác phẩm ấn tượng. Tâm hồn lương thiện và nhạy cảm của ông thể hiện qua những bài thơ đầy tình yêu nước, hay còn gọi là 'yêu nước thương đời', phản ánh chân thực thời đại.
Thu Hứng, hay 'Cảm hứng mùa thu', là một tác phẩm nổi bật, là biểu tượng của hồn thơ Đỗ Phủ.
Thiên nhiên, đặc biệt là sự thay đổi của không gian, khiến những cây cúc, lá cây, và cảnh vật xung quanh trở nên đặc sắc. Mùa thu là thời điểm khi tâm hồn con người trở nên lãng mạn, thả hồn theo gió, và cũng là lúc ta cảm nhận mùi vị đất trời. Cảm hứng mùa thu là bức tranh màu sắc, với tâm trạng tu sầu của tác giả khi đất nước lâm vào cảnh rối ren, nỗi thương nhớ quê hương nghẹn ngào, và lòng buồn thương cho thân phận nơi đất khách quê người.
Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thồi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Sau khi được phiên âm, bài thơ 'Cảm hứng mùa thu' lại dễ dàng đi sâu vào lòng người đọc. Những cảnh vật hiện ra trong bài thơ nối tiếp nhau, nhưng bị bao phủ bởi một nỗi buồn khôn tả. Với những vần thơ mềm mại, Nguyễn Công Trứ đã mang 'cảm hứng mùa thu' gần hơn, thể hiện những điều mà Đỗ Phủ đã gửi gắm.
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
(Nguyễn Công Trứ dịch)
Bốn câu đầu là 'câu đề' miêu tả bức tranh thiên nhiên buồn hiu ở vùng rừng núi Trường Giang. Những hình ảnh như rừng phong, sương móc trên lá cây tạo nên cảnh tượng buồn, thể hiện sự li biệt khi mùa thu đến.
Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
(Lưng trời sông rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa).
Ở cặp câu thứ nhất, tác giả quan sát từ trên cao, thể hiện toàn cảnh ở nơi đây. Hình ảnh rừng phong với sương móc trên lá phong chuyển sang màu đỏ khi mùa thu đến.
Cảnh sắc trời mây non nước, rừng núi hiện ra vừa tráng lệ lại bí hiểm âm u. Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Với nghệ thuật sử dụng ở câu năm câu sáu, tác giả thể hiện lòng mong ngóng quê nhà, nỗi khát khao trở về, tình yêu và buồn bã khi xa xứ.
'Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
(Khóm cúc tuồn thêm dòng lệ củ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà).
Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà).
Ở cuối, tiếng chày đập vải trên bến sông, trong hoàng hôn, âm thanh dồn dập nhưng không đủ để xua đi áng mây buồn trong tâm hồn thi sĩ. Với những nét chấm phá mạnh mẽ, tác phẩm trở nên sống động và làm rung động tâm trạng của độc giả.
Qua bài thơ 'Cảm hứng mùa thu', ta thấy một tâm hồn nhạy cảm và mãnh liệt trước cảnh sắc. Trái tim Đỗ Phủ dành trọn cho quê hương, cũng qua bài thơ, tư tưởng 'yêu nước thương đời' rõ nét.
Những vần thơ của ông lay động mãnh liệt, đặc biệt những vần thơ như bật lên khỏi trang giấy, mở ra một khung cảnh rất rõ.. 'cảm xúc mùa thu' đã đóng góp một phần quan trọng trong việc khẳng định tài năng của ông, cũng như là một bài thơ tiêu biểu về mùa thu của thi ca Trung Quốc.


Thơ Đường thường chú trọng đến niêm luật, luật lệ, và bố cục. Tuy nhiên, những quy tắc nghiêm ngặt đó không hề làm ôn hòa tài năng sáng tạo của Đỗ Phủ. Dưới bút của nhà thơ, bài thơ không chỉ tuân thủ niêm luật một cách chặt chẽ mà còn tỏa sáng tự do, tạo nên vẻ đẹp đa dạng giống như viên ngọc lung linh được ánh sáng soi bóng từ nhiều góc độ khác nhau. Bài thơ Thu hứng không chỉ đáp ứng được những đặc điểm trên mà còn vượt lên trên sự sáng tạo.
Nếu nhìn vào nội dung tổng quan, bài Thu hứng được phân chia rõ ràng thành hai phần: bốn câu đầu tập trung mô tả cảnh, cảnh núi sông ở vùng Quỳ Châu, thượng nguồn sông Trường Giang - nơi Đỗ Phủ đến khi tránh giặc An Lộc Sơn. Bốn câu sau tập trung mô tả tình, tình cảm của kẻ lữ thứ tha hương. Cảnh vật và tình cảm này tạo nên sự nhất quán trong bài thơ.
Cảnh mùa thu được mô tả chi tiết, từ rừng phong trắng sương móc, kẽm Vu trườn dựa núi khi trời mù mịt, đến núi Vu cao vút hiểm trở. Bức tranh hùng vĩ này không chỉ có sự liên kết chặt chẽ mà còn mở ra theo bước chân người. Ngòi bút của Đỗ Phủ tạo ra không gian đa dạng, tương đối chi tiết, chứng tỏ sự linh hoạt và tài năng điêu luyện.
Thần của bức tranh là cảm xúc, được truyền đạt qua từng nét vẽ. Câu thơ mở đầu gợi lên nỗi buồn, từ màu trắng sương móc che phủ khắp nơi, đến tang thương của rừng phong tiêu điều. Cảnh vật hùng vĩ nhưng buồn bã, u hoài tạo nên sự nhất quán và đa dạng của cảm xúc.
Đứng trước cảnh sắc ấy, một người giàu tình cảm như Đỗ Phủ không thể không nhớ về quê hương. Từ động lực nội tại đó, bốn câu thơ tiếp theo xuất hiện một cách tự nhiên, hợp lý. Bốn câu thơ này mô tả tình cảm mà không rời xa cảnh, tình và cảnh gắn bó với nhau. Hai câu thơ 5, 6 thể hiện lòng nhớ quê một cách sinh động với nhiều biểu hiện đặc sắc. Trong bảy chữ của câu 5, tình và cảnh như hòa quyện: hoa cúc nở như cành hoa làm từ nước mắt ảo, chập chờn, hiện tại và quá khứ nối liền: 'giọt lệ ngày trước' bỗng rơi cùng giọt lệ hôm nay.
Chữ lưỡng khai tạo ra một sự đồng nhất, làm cho hình ảnh của cúc và lệ trở nên phong phú. Hình ảnh con thuyền trong câu 6 cũng tái hiện cảnh như ở câu 5. Chữ cố cũng mang ý nghĩa ẩn: làm thuyền lẻ loi giữa nơi nhà thơ đang sống và thắt lại, gói lại nỗi lòng nhớ quê.
Những cảm xúc dồn dập được mô tả trong câu 5, 6 có vẻ sẽ được tả trực tiếp và tăng cường ở hai câu kết. Nhưng bài thơ chuyển từ tả tình sang tả cảnh sinh hoạt đời thường. Cảnh mọi người rộn ràng may áo, giặt giũ áo cũ. Dù có vẻ hai cảnh này không liên quan đến tình cảm, nhưng thực tế, đây là một thủ pháp để dồn nén tình cảm vào hình ảnh, làm cho lời thơ thêm sâu sắc và rung động mạnh mẽ ở người đọc.
Âm thanh đập áo, một âm thanh mang đầy cảm xúc trong thơ cổ Trung Quốc, gợi nhớ về người thân ở xa, diễn tả niềm nhớ thương và mong chờ. Bạch Cư Dị đã miêu tả nỗi lòng của người phụ nữ, đêm tháng tám, tháng chín, nghe tiếng chày đập lụa khiến 'sáng ra e bạc cả đầu'. Vì thế, sự xuất hiện của tiếng chày trong bóng chiều tà làm cho bài thơ trở nên sống động và đầy cảm xúc hơn.
Nỗi nhớ quê thương của Đỗ Phủ trong mùa thu rối bời không chỉ là cảm xúc cá nhân, mà còn là cảm xúc của nhiều người phải lẫn lộn trong cuộc chiến tranh, đối mặt với kẻ thù, và sống sót sau loạn An Lộc Sơn.


Đời sống của Đỗ Phủ trải qua nhiều giai đoạn khác nhau: những năm trẻ trung vui vẻ, những thời kỳ khó khăn sau những thất bại ở Trường An, những năm chịu đựng trong cơn lụt lội của thời chiến loạn An-Sử (755 - 763), và những năm cuối đời lang thang ở các tỉnh phía tây nam.
Sau khi chiến tranh kết thúc, Đỗ Phủ quyết định lên sông Trường Giang để tìm đường về quê hương ở phía bắc.
Năm 765, ông rời Thành Đô - thủ phủ tỉnh Tứ Xuyên, dẫn theo gia đình và phiêu bạt qua nhiều nơi trước khi tạm trú tại Quỳ Châu. Chính tại đây, vào năm 766, ông sáng tác bộ thơ nổi tiếng 'Cảm xúc mùa thu', gồm tám bài, chỉ bốn năm trước khi ông qua đời.
Bộ thơ này tập trung vào bài 'Cảm xúc mùa thu số 1' làm đề cương sáng tác, với nhận xét cao của nhà phê bình Kim Thánh Thán về sự chặt chẽ và vị trí quan trọng của bài thơ trong chùm thơ: 'Bài thứ nhất đóng vai trò như một cương lĩnh, đưa ra cảnh tượng của bậc quan tài sống ở thời điểm đó. Đó chính là mùa thu tại Quỳ Châu, nơi làm nảy mầm cảm hứng. Mỗi câu đầu bảy tiên đều xuất phát từ đó như chiếc áo có cổ, bông hoa có cuống, như lệnh về từ nơi binh lính mỗi ngàn binh lính.'
Để hiểu đầy đủ ý nghĩa và vẻ đẹp của 'Cảm xúc mùa thu số 1', bài thơ cần được đặt trong ngữ cảnh của toàn bộ bộ thơ. Dù vậy, bài thơ vẫn giữ tính độc lập đối với các bài khác, và nhiều người đã phân tích nó như một tác phẩm riêng lẻ.
Người đọc chỉ có thể hiểu rõ được bài 'Cảm xúc mùa thu số 1' khi chia tác phẩm thành hai phần: phần trên tả cảnh ở Quỳ Châu và phần dưới làm chủ yếu về tâm trạng - cảm xúc của nhà thơ trước cảnh mùa thu ở Quỳ Châu.
Ở cặp câu đầu tiên (hay còn gọi là 'liên đầu'), dịch thơ tái tạo thành công cảnh mùa thu buồn bã. Trong nguyên tác, sương mỏng không chỉ 'phủ lạc lõng' mà thậm chí còn đặc đến mức có thể làm tan chảy và thương tổn rừng phong. Tại câu thứ hai, từ 'loà' kết hợp với 'hiu hắt' giúp bắt lấy bản chất tối tăm và ảm đạm của phong cảnh ở Quỳ Châu. 'Ngàn non' thay thế cho hai danh từ riêng, nhưng cũng làm mất đi tính chất độc đáo của phong cảnh Quỳ Châu. Trong khi đó, một đoạn từ Sông ngòi của Lịch Đạo Nguyên mô tả hình ảnh đáng sợ của khu vực này.
Câu tiếp theo tái hiện cảnh vật hùng vĩ với sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Tuy nhiên, vẫn giữ nguyên không khí u ám và đau thương của bức tranh mà Đỗ Phủ muốn truyền đạt. Các từ 'rợn' và 'đùn' trong bản dịch thành công truyền đạt không khí kinh hoàng của cảnh đêm và cảnh mây giữa núi rừng.
Ở cặp câu thứ năm và thứ sáu (gọi là 'liên cổ'), 'Cố viên tâm' trở thành điểm nhấn của bài thơ, là biểu tượng của niềm nhớ về quê hương và đất nước. Bài thơ tiếp tục nhắc đến niềm nhớ về Trường An, thời kỳ yên bình và thịnh trị, nhưng cũng nói đến những biến động của thành phố trong chiến loạn An-Sử, nơi đang trải qua sự thay đổi không ngừng như một ván cờ. Tất cả những tưởng tượng này kết hợp lại tạo nên một bức tranh sâu sắc về tình cảnh và tâm trạng của người thơ.
Hai câu thơ cuối cùng của bài (hay gọi là 'liên đuôi') đột ngột chuyển sang mô tả cảnh đời thực bên ngoài, với sự nhộn nhịp của mọi người chuẩn bị cho mùa đông sắp đến. Sự đan xen giữa âm thanh của chiếc chày và mây mù mịt tạo nên một không khí đặc biệt. Mô thức tả pha kể được sử dụng một cách khéo léo, tô điểm thêm cho những cảm xúc và niềm vui trong sự tình cảnh phức tạp của cuộc sống.
Bài thơ kết thúc bằng một sự bất ngờ, không tập trung vào cảm xúc cá nhân mà quay lại mô tả thực tế bên ngoài, với sự hối hả của mọi người chuẩn bị cho mùa đông. Cách tiếp cận này làm tăng thêm chiều sâu và độ phong phú của bài thơ, khiến cho người đọc cảm nhận được cảm xúc và hình ảnh đồng thời.
Như cuối bài 'Đăng cao', ở cuối bài 'Cảm xúc mùa thu số 1', Đỗ Phủ sử dụng phương thức tả pha kể để truyền đạt cảm xúc đau thương chứ không nêu rõ một cách chủ quan, tạo nên một bức tranh phong phú về cuộc sống và tâm trạng của một con người trong hoàn cảnh khó khăn.
Bài thơ 'Cảm xúc mùa thu số 1' là một tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu cho sự thành công nghệ thuật của Đỗ Phủ trong giai đoạn cuối đời.


8. Phân tích tác phẩm 'Cảm xúc mùa thu' số 9
Mùa thu là chủ đề được nhiều nhà thơ lựa chọn để tô điểm cho tác phẩm của mình. Điển hình như nhà thơ Trung Quốc nổi tiếng Đỗ Phủ, người đã sáng tác bài thơ “Thu hứng”. Đỗ Phủ (712-770), tên thật là Tử Mĩ, hiệu là Thiếu Lăng, quê ở tỉnh Hà Nam, Trung Quốc. Ông có nguồn gốc từ một gia đình truyền thống Nho học và thơ ca lâu dài. Mặc dù ông đã trượt đỗ kỳ thi năm lần bảy lượt, cuộc sống của ông dường như luôn gắn liền với nghèo đói và bệnh tật.
Tuy nhiên, ngọn lửa sáng tác trong Đỗ Phủ luôn bùng cháy, không ngừng. Ông để lại hàng ngàn bài thơ xuất sắc, đa dạng về nội dung, sâu sắc, nói về lịch sử và tình yêu quê hương, không chỉ làm thế, mà còn truyền đạt tình thương người. Ông được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới.
Ngoài những bài thơ “thi sử”, Đỗ Phủ còn sáng tác những bài thơ trữ tình, thể hiện tình cảm chân thành đối với thiên nhiên. “Thu hứng” là một trong những tác phẩm xuất sắc, tả đầy cảm xúc về mùa thu. Đây là bức tranh đầu tiên trong tám bài thơ được viết vào năm 766, khi ông đang phiêu bạt ở Quý Châu. Tứ Xuyên là vùng đất có cảnh đẹp hùng vĩ, núi non hiểm trở, xa xôi hàng ngàn dặm với quê hương của nhà thơ.
“Thu hứng” được sáng tác trong bối cảnh sau mười một năm từ khi kết thúc cuộc nổi loạn An Lộc Sơn. Mặc dù loạn đã chấm dứt, đất nước vẫn đang chịu ảnh hưởng của chiến tranh, và nhà thơ vẫn phải lưu lạc xa quê hương. Điều này đã khơi nguồn cảm xúc bi thương, là nguồn động viên cho ông sáng tác “Thu hứng” với tâm trạng bi thương.
“Thu hứng” không chỉ là bức tranh của mùa thu buồn bã, lạnh giá, mà còn là lá thư biểu đạt tâm trạng của nhà thơ. Ông lo lắng cho tình hình đất nước đang chìm trong hỗn loạn, nhớ về quê hương xa xôi và tự thương cho số phận bất hạnh của mình ở đất khách.
Phiên âm:
“Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.
Giang gian ba làng kiêm thiên dũng,
Tái thượng phong vân tiếp địa âm.
Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ
Cô chu nhất hệ cố viên tâm.
Hàn y xứ xứ thồi đao xích,
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Dịch thơ:
Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa.
Lưng trời song rợn lòng sông thẳm,
Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Khóm cúc tuồn thêm dòng lệ cũ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.
Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chày vang bóng ác tà.
Trong bài thơ này, chúng ta thấy rõ tác giả phân chia rõ ràng thành hai ý: ý đầu tiên là mô tả về cảnh thiên nhiên mùa thu ở vùng núi Trường Giang. Ý thứ hai là cảm nhận của nhà thơ trước cảnh mùa thu ở đất khách. Ở hai câu thơ đầu, tác giả đã thể hiện tinh tế nét đẹp của chiều thu ở Quý Châu chỉ với vài nét chấm phá:
“Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,
Vu Sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.”
(Lác đác rừng phong hạt móc sa,
Ngàn non hiu hắt, khi thu lòa.)
Câu thơ thể hiện rõ tác giả đứng ở vị trí cao, ngắm nhìn toàn cảnh, tầm nhìn xa rộng. Sự quan sát tinh tế của Đỗ Phủ thể hiện ngay trong câu thơ đầu tiên mô tả cảnh rừng phong: “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm” - hình ảnh rừng phong liên kết với mùa thu, khiến cho cảnh tượng trở nên rực rỡ. Sương móc sa dày đặc làm mờ ảo, xơ xác, tạo nên cảm giác bí ẩn cho rừng phong.
Tiếp theo, câu thứ hai: “Vu Sơn, Vu giáp khí tiêu sâm” - Vu Sơn, Vu giáp làm cho người đọc liên tưởng đến đất Ba Thục xưa. Toàn cảnh hiu hắt, đậm chất ảm đạm. Trong bản dịch, từ “lòa” và “hiu hắt” chưa thể thể hiện đầy đủ ý nghĩa của cụm từ “khí tiêu sâm” (tối tăm, ảm đạm).
Vu Sơn là nơi nổi tiếng với những ngọn núi hiểm trở, hùng vĩ, thường được nhắc đến trong truyền thuyết và thơ ca Trung Quốc. Vách núi cao đứng, che mặt trời, làm cho ánh sáng mặt trời khó tiếp cận sông. Mùa thu, ánh sáng mặt trời yếu ớt tạo nên một không khí ảm đạm, lạnh lẽo, qua bút pháp của tác giả, thì cảm giác này càng trở nên tối tăm, ảm đạm. Sự hiểu biết sâu sắc về cảnh vật của Đỗ Phủ được thể hiện rõ trong câu thơ đầu tiên miêu tả cảnh rừng phong: “Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm”.
Ở bốn câu thơ tiếp theo, Đỗ Phủ thể hiện tâm trạng của mình trước cảnh sắc mùa thu ở đất khách. Câu năm và sáu sử dụng một cách khéo léo để mô tả mùa thu, giống như những bức tranh về rừng phong, hình ảnh hoa cúc được kết hợp với cảnh mùa thu:
“Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,
Cô thu nhất hệ cố viên tâm.”
(Khóm cúc tuồn thêm dòng lệ củ,
Con thuyền buộc chặt mối tình nhà.)
Câu thơ thể hiện mỗi khi ông nhìn thấy hoa cúc, ông rơi lệ, khiến người đọc cảm nhận được nỗi đau, sự cô đơn của nhà thơ sau nhiều năm xa quê hương. Hoa cúc không chỉ là nguồn gợi nhớ, mà hình ảnh con thuyền còn làm tăng lên cảm giác nhớ nhà. Con thuyền là phương tiện duy nhất để nhà thơ trở về quê hương trong tâm trí.
Hai câu cuối đột ngột xuất hiện âm thanh dồn dập của tiếng chảy nước tại bến sông, trong bóng hoàng hôn. Âm thanh này tạo nên một bức tranh sống động hơn, nhưng không đủ để xua đi nỗi buồn trong tâm trạng của nhà thơ:
“Hàn y xứ xứ thôi đao xích,
Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.”
(Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước,
Thành Bạch, chảy vang bóng ác tà.)
Hình ảnh của mùa thu qua đi, chuyển sang mùa đông, nhắc nhở mọi người chuẩn bị cho thời tiết lạnh. Điều này cũng là lúc loạn An Lộc Sơn đã kết thúc, nhưng đất nước vẫn chưa hoàn toàn yên bình, nhà thơ vẫn còn ở xa quê hương.
Bài thơ “Thu hứng” giúp chúng ta nhìn thấy Đỗ Phủ là một thi sĩ xuất sắc không chỉ trong phạm vi Trung Quốc mà còn được biết đến trên toàn thế giới. Bài thơ không chỉ mô tả về cảnh đẹp mùa thu mà còn thể hiện nỗi lòng bi thương và nhớ nhà của nhà thơ.


9. Bài viết phân tích tác phẩm 'Cảm xúc mùa thu' số 8
Nguyễn Du, đại thi hào của dòng thơ Việt, từng nói 'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'. Đỗ Phủ, thánh thơ nước ta, đã lấy nỗi đau của đất nước làm chủ đề, biến mùa thu thành bức tranh u sầu trong bài thơ 'Thu Hứng'. Bức tranh mà ông vẽ, không chỉ có vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng, mà còn chứa đựng những xúc cảm, tâm trạng sâu sắc.
Đỗ Phủ, con người đã trải qua nhiều khó khăn, nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh. Nhưng tâm hồn ông vẫn luôn gắn bó với thơ ca. Khi sáng tác 'Thu Hứng', ông đang lưu lạc tại Quý Châu, Tứ Xuyên. Nơi này, núi non hiểm trở, nhưng cũng là nguồn cảm hứng bất tận cho bài thơ.
Bài thơ chia thành bốn phần, mỗi phần là một khía cạnh của mùa thu. Đầu tiên là vẻ đẹp của cảnh núi rừng, sau đó là nỗi niềm u sầu khi đối diện với mùa thu, nhưng thực chất là đối diện với chính tâm trạng lưu lạc. Đỗ Phủ vô cùng tinh tế khi chọn từ ngữ để mô tả:
'Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm
Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.'
Ở câu thứ hai, ông nhìn nhận về sự u ám, tăm tối của không gian Quý Châu:
'Hàn y xứ xứ thôi đao xích
Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.'
Đây không chỉ là cảnh đẹp tự nhiên, mà còn là tâm trạng, linh hồn của người thơ. Mỗi chi tiết trong bài thơ đều được Đỗ Phủ chạm khắc một cách tinh tế, tạo nên một kiệt tác về cảm xúc mùa thu.



