1. Bài viết phân tích tác phẩm 'Cố hương' của Lỗ Tấn số 1
Hình ảnh quê hương luôn in sâu trong tâm hồn của nhiều nghệ sĩ, trong đó có Lỗ Tấn - một nhà văn nổi tiếng với nhiều đóng góp quan trọng cho văn chương Trung Quốc và thế giới. Những tác phẩm nổi bật của ông như “AQ chính truyện”, “Thuốc”, “Nhật kí của một người điên”... và không thể không kể đến truyện ngắn “Cố hương”.
Được sáng tác vào năm 1923, trong tập “Gào thét”, “Cố hương” kể về hành trình trở về quê hương của nhân vật “tôi” sau hơn hai mươi năm xa cách. Cảnh làng quê hiện lên tiêu điều, hoang vắng, khác biệt hoàn toàn so với kí ức của nhân vật. Quê hương xưa kia, tươi đẹp và tràn ngập ký ức đẹp đã trở nên xơ xác, ảm đạm.
Nhân vật “tôi” trở về với hy vọng mang theo gia đình để bắt đầu cuộc sống mới. Tuy nhiên, lòng buồn, xót xa và suy tư đầy nặng nề đi kèm. Những hình ảnh quê hương xưa nhưng giờ chỉ còn đọng lại trong kí ức “tôi”. Cảnh người thân chạy ra đón nhưng nét buồn bất chợt hiện lên trên khuôn mặt. Cuộc sống hiện tại đã khiến họ thay đổi, trở nên đần độn, khó khăn và thậm chí là đau lòng.
Nhuận Thổ, một người bạn thân từ thuở nhỏ của nhân vật, đã trải qua sự đổi khác lớn. Tính cách lanh lợi, khỏe mạnh ngày xưa giờ đã chuyển thành một hình ảnh khốn khổ, cơ thể gầy guộc và đau đớn. Chị Hai Dương, người được biết đến như “nàng Tây Thi đậu phụ”, cũng không tránh khỏi sự biến đổi tiêu cực. Vẻ đẹp trẻ trung của ngày xưa giờ chỉ còn là ký ức.
Truyện “Cố hương” không chỉ là câu chuyện về quê hương xưa kia mà còn là sự thay đổi và suy thoái của con người trước những khó khăn cuộc sống. Hình ảnh con đường cuối cùng trong truyện không chỉ là con đường bình thường mà là biểu tượng cho một cuộc sống mới, tươi sáng và hạnh phúc hơn trong tương lai.
Lỗ Tấn đã sử dụng nghệ thuật miêu tả và diễn đạt tinh tế để khắc họa những biến đổi trong tâm hồn và hình ảnh của nhân vật. Qua đó, ông phản ánh một cách sắc nét sự suy thoái của xã hội phong kiến và lối sống lạc hậu của những người nông dân. Cuối cùng, “Cố hương” là tác phẩm đầy tâm huyết, mang thông điệp nhân đạo và hy vọng cho một tương lai tốt đẹp hơn.
3. Bài phân tích về tác phẩm 'Cố hương' của Lỗ Tấn số 2
Lỗ Tấn (1881 - 1936) là nhà tư tưởng lớn, nhà văn hiện thực nổi tiếng của Trung Quốc vào thời kì đầu thế kỉ XX. Sự nghiệp sáng tác mà ông để lại cho đời rất đồ sộ và đa dạng, trong đó có 17 tập tạp văn và hai tập truyện ngắn xuất sắc là Gào thét (1923) và Bàng hoàng (1926). Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của tập Gào thét là truyện ngắn Cố hương.
Thông qua việc kể lại chuyến về quê lần cuối cùng và những suy ngẫm, rung cảm của bản thân trước sự thay đổi của cảnh vật và con người ở quê hương, tác giả đã kín đáo phê phán chế độ phong kiến hủ bại, đồng thời đề cập đến con đường giải phóng nông dân ra khỏi những ràng buộc vô hình nhưng nghiệt ngã của xã hội đương thời.
Sau hai mươi năm sống xa nhà, tác giả về thăm quê cũ giữa mùa đông lạnh giá. Ngồi trên thuyền, thấy khung cảnh ven sông tiêu điều, lòng ông dâng lên cảm xúc buồn thương khó tả. Đây là lần ông về quê để cùng người thân giải quyết chuyện bán nhà, đưa gia đình đến nơi khác làm ăn.
Về đến nơi, ông được mẹ già chạy ra đón. Mọi người đang bận rộn thu dọn đồ đạc. Nghe mẹ nhắc tới Nhuận Thổ, tác giả lập tức nhớ lại những kỉ niệm thần tiên của thời thơ ấu. Nhuận Thổ là con trai người làm mướn cho gia đình tác giả cách đây hơn hai chục năm. Lúc ấy, Nhuận Thổ mới lên mười. Mỗi lần theo cha đến nhà cụ chủ, Nhuận Thổ thường kể cho “cậu ấm” nghe cách bẫy chim sẻ, cách bắt con tra hay ăn trộm dưa và nhiều chuyện khác, khiến cho “cậu ấm” say mê, thán phục.
Tác giả gặp lại mấy người hàng xóm cũ, trong đó có Nhuận Thổ. Cuộc sống vất vả lam lũ đã khiến Nhuận Thổ thành một người hoàn toàn khác. Hình dáng tiều tụy, thảm hại, mặt mũi ngơ ngác, đần độn. Không còn chút dấu vết nào của Nhuận Thổ khi xưa. Mấy ngày sau, cả gia đình tác giả rời quê. Khi con thuyền đã xa làng, tác giả vẫn trĩu nặng nỗi suy tư về cảnh vật và con người ở Cố hương. Ông cố gắng tìm ra nguyên nhân của sự thay đổi đáng buồn ấy và cầu mong cho con cháu của Nhuận Thổ sau này sẽ tìm ra cách sống mới để không còn phải khổ cực như ông cha nữa. Cốt truyện có thể chia làm ba phần:
Phần một: Từ đầu đến… đang làm ăn sinh sống: Tác giả trên đường về quê. Phần hai: Từ Tinh mơ sáng hôm sau… đến… mang đi sạch trơn như quét: Những ngày tác giả ở quê. Phần còn lại: Tác giả cùng gia đình trên đường rời quê. Truyện được kể ở ngôi thứ nhất. Nhân vật chính xưng là tôi. Quá khứ và hiện tại đan xen vào nhau. Nghệ thuật miêu tả vừa hiện thực vừa trữ tình.
Chất trữ tình đậm đà của tác phẩm thể hiện ở diễn biến tâm trạng của nhân vật. Từ phảng phất buồn đến đau xót (trên đường về quê). Từ đau xót đến bi quan (những ngày ở quê). Cuối cùng, lại nhen nhóm hi vọng (trên đường rời quê). Tuy vậy, dù buồn bã, đau xót hay hi vọng cũng đều là biểu hiện của tình cảm yêu mến quê hương sâu nặng. Cái hay của tác phẩm là thể hiện diễn biến tâm trạng ấy một cách sinh động, chân thật và hợp lí.
Mở đầu bài văn, tác giả bộc bạch tâm trạng của mình trong chuyến trở về cố hương: Tôi không quản trời lạnh giá, về thăm làng cũ, xa những hai ngàn dặm mà tôi đã từ biệt hơn hai mươi năm nay. Chuyến đi này có tầm quan trọng và ý nghĩa rất lớn nên tác giả không thể không về, dẫu phải đi qua hai ngàn dặm đường, trong thời tiết mùa đông giá lạnh.
Cố hương là quê cũ, là những gì gắn bó tha thiết, thiêng liêng đối với mỗi người. Sau hai mươi năm phiêu bạt nơi đất khách, nay tác giả mới về quê nhà, mà về lần này là để đón cả gia đình đến nơi mình đang làm ăn sinh sống. Trở về không phải để sum họp mà là để biệt li, có thể là biệt li mãi mãi, bỏ lại tất cả mồ mả tổ tiên, ông bà, bỏ lại mảnh đất cắt rốn chôn nhau,.. Cho nên tâm trạng tác giả trĩu nặng một nỗi buồn và nỗi buồn ấy lan sang cả cảnh vật:
Đang độ giữa đông. Gần về đến làng, trời lại càng u ám. Gió lạnh lùa vào khoang thuyền. Nhìn qua các khe hở mui thuyền, thấy xa gần thấp thoáng mấy thôn xóm tiêu điều, hoang vắng, nằm im lìm dưới vòm trời màu vàng úa. Không nén được, lòng tôi se lại.
Trải qua thời gian dài đằng đẵng, biết bao vật đổi sao dời. Nhà văn bâng khuâng tự hỏi lòng: A, đây thật có phải là làng cũ mà hai mươi năm trời nay tôi hằng ghi lấy hình ảnh trong kí ức không? Cảnh quê vốn tiêu điều, hoang vắng, nay hiện lên trước mắt người xa xứ đã lâu, lại càng nhuốm sắc thê lương, ảm đạm. Tác giả không tin vào kí ức của mình và cho rằng vì tâm trạng mình đang buồn nên nhìn cảnh mới ra như thế:
Hình ảnh làng cũ trong kí ức tôi không giống hẳn như thế này. Làng cũ tôi đẹp hơn kia. Nhưng nếu phải nhớ rõ đẹp như thế nào, nói rõ đẹp ở chỗ nào thì thật không có hình ảnh ngôn ngữ nào diễn tả ra cho được. Phảng phất thì cũng có hơi giống đấy. Tôi nghĩ bụng: Hẳn làng cũ mình vốn chỉ như thế kia thôi, tuy chưa tiến bộ hơn xưa, nhưng cũng vì tắt đèn nên thê lương như mình tượng. Chẳng qua là tâm tình mình đã đổi khác, bởi vì về thăm chuyển này, lòng mình đang không vui. Về thăm quê chuyến này, ý định là để từ giã nó lần cuối cùng.
Ngôi nhà cũ nơi cả đại gia đình chúng tôi đời đời ở chung với nhau, mà chúng tôi đã phải đồng tình bán cho người ta rồi, nội năm nay, phải giao cho họ. Vì thế, tôi cần phải về trước Tết, vĩnh biệt ngôi nhà yêu dấu và từ giã làng cũ thân yêu, đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn, sinh sống.
Đoạn văn phản ánh sự thay đổi theo chiều hướng đáng buồn của cố hương và những cảm xúc bâng khuâng khó tả trong tâm trạng nhân vật. Đặt chân lên bờ, tác giả thấy quang cảnh trong làng cũng giống như quang cảnh Ven sông: Tinh mơ sáng hôm sau, tôi về tới cổng nhà. Trên mái ngói, mấy cọng tranh khô phất phơ trước gió, đủ rõ nhà không đổi chủ không được. Những gia đình khác có lẽ đã dọn đi rồi, cho nên cảnh tượng càng hiu quạnh.
Về đến nhà, bàn chuyện dọn nhà xong xuôi, bà mẹ kể rằng có anh Nhuận Thổ lần nào đến chơi cũng nhắc đến con và rất mong có ngày được gặp con. Mẹ đã nhắn tin cho anh ấy biết chừng ngày nào con về. Có lẽ anh ấy cũng sắp đến thôi. Nghe mẹ nói, bất chợt trong kí ức nhà văn, hình ảnh làng quê với những cảnh vật và con người năm xưa- hiện lên rõ ràng từng chi tiết:
Lúc bấy giờ, trong kí ức tôi bỗng hiện ra một cảnh tượng thần tiên, kì dị: Một vầng trăng tròn vàng thắm treo lửng lơ trên nền trời xanh đậm, dưới là một bãi cát bên bờ biển, trồng toàn dưa hấu, bát ngát một màu xanh rờn. Giữa ruộng dưa, một đứa bé trạc mười một, mười hai tuổi, cổ đeo vòng bạc, tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba, đang cố sức đâm theo một con tra. Con vật bỗng quay lại, luồn qua háng đứa bé, chạy mất.
Tác giả nhớ như in hình ảnh của người bạn nhỏ cách đây hai chục năm. Bắt đầu là cảnh Nhuận Thồ xuất hiện vào ngày giỗ lớn cua gia đình tác giả. Đó là cậu bé xinh xắn, khỏe mạnh, khuôn mật tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng,., Tiếp sau đó là những kỉ niệm về người bạn đáng yêu thuở thiếu thời.
Nhuận Thổ hay kể chuyện bảy chim: Làng em toàn đất cát, hễ tuyết xuống là em quét lấy một khoảng đất trống, dùng một cây que ngắn chống một cái nong lớn, rắc ít lúa lép, thấy chim tước xuống ăn, đứng đằng xa giật mạnh sợi dây buộc vào cái que, thế là chim bị chụp vào nong hết. Thứ nào cũng có: sẻ đồng, chào mào, “bột cô”, sẻ xanh lưng. Hết chuyện bẫy chim đến chuyện rủ “cậu ấm” đi chơi bờ biển: Đến mùa hè, anh xuống nhà em chơi. Ban ngày, chúng mình ra biển nhặt vỏ sò, màu đỏ có, màu xanh có, đủ cả. Có cả sò “mặt quỷ”, sò “tay phật”.
Rồi chuyện về con tra kì lạ như trong cổ tích : Ở làng em, người đi qua đường khát nước hái một quả dưa ăn, không kề là lấy trộm. Canh là canh lợn rừng, nhím, tra. Này nhé ! Sáng trăng. Có tiếng sột soạt. Tra đang ngốn dưa đấy Ị Thế là cầm đinh ba khe khẽ tiến lên…
Thời ấy, trước con mắt của “cậu ấm” con chủ nhà thì Nhuận Thổ là tiểu anh hùng, là người từng trải : Trời ! Nhuận Thổ hẳn biết nhiều chuyện lạ lùng lắm, kể không xiết! Những chuyện đó, bạn bè tôi từ trước đến nay, không ai biết cả. Chúng nó không biết là vì trong khi Nhuận Thổ sống bên bờ biển thì chứng nó, cũng như tôi, chỉ nhìn một mảnh trời vuông trên bốn bức tường cao bao bọc lấy cái sân mà thôi!
Tình bạn tuổi thơ giữa tác giả và Nhuận Thổ thật trong sáng và đằm thắm. Nhưng tiếc thay, đã hết tháng giêng. Nhuận Thổ phải về quê hắn. Lòng tôi xốn xang, tôi khóc to lên. Hắn lẩn trong bếp, cũng khóc mà không chịu về. Nhưng rồi bố hắn cũng lôi hắn đi. Sau đó, hắn có nhờ bố hắn mang lên cho tôi một bọc vỏ sò và mấy thứ lông chim rất đẹp. Tôi căng cổ vài lần gửi cho hắn ít quà. Nhưng từ đấy chúng tôi không hề gặp mặt nhau nữa.
Tác giả đã lấy hình ảnh tươi đẹp trong quá khứ đối chiếu với hình ảnh Nhuận Thổ trong hiện tại để nêu bật chủ đề tác phẩm. Sau hai mươi năm cách biệt, nay hai người mới gặp lại nhau: Người đi vào là Nhuận Thổ. Tuy tôi nhận ra ngay là Nhuận Thổ, nhưng lại không phải là Nhuận Thổ trong kí ức tôi. Anh cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đã đổi thành sạm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm.
Cặp mắt giống hệt cặp mái anh ngày trước, mi mắt viền đỏ húp mộng lên. Tôi không lấy làm lạ, ở miền biển, gió thổi suốt ngày, đại để ai cũng thế cả. Anh đội một cái mủ lông chiên rách tươm, mặc một chiếc áo bông mỏng dính, người co ro cúm rúm, tay cầm một bọc giấy và một tẩu thuốc lá dài. Bàn tay này cũng không phải là bàn tay tôi còn nhớ, hồng hào, lanh lẹ, mập mạp, cứng rắn, mà vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông…
Nhuận Thổ đứng dừng lại, nét mặt vừa hớn hở vừa thê lương, môi mấp máy, nhưng cũng nói không ra tiếng. Rồi bỗng anh lấy một dáng điệu cung kính, chào rất rành mạch: Bẩm ông! Sau đó, anh ta rón rén đưa ra một gói giấy và ấp úng: – Ngày đông tháng giá chẳng có gì, chỉ có ít đậu xanh của nhà phơi khô, xin ông…
Nghệ thuật tả thực của tác giả thật sắc sảo. Ông đã khắc họa sinh động chân dung một nông dân lam lũ, nghèo khó và đầy mặc cảm tự ti. Qua đó, ta có thể hình dung ra cảnh sống cơ cực, điêu đứng của Nhuận Thổ nói riêng và nông dân nói chung lúc bấy giờ. Người bạn nhỏ khỏe mạnh, đáng yêu thuở nào giờ đây là một nông xơ xác, da mặt vàng xám vì nghèo đói. Ngày xưa, Nhuận Thổ là một cậu bé có khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên, cổ đeo vòng bạc sáng loáng, được bố cưng chiều.
Về hình thức, Nhuận Thổ giờ đây đã hoàn toàn thay đổi, nhưng tận đáy lòng, Nhuận Thổ vẫn giữ nguyên tình bạn sâu nặng với “cậu chủ” ngày xưa. Nghe nói “cậu chủ” đã về nên Nhuận Thổ đến ngay và dù rất nghèo nhưng cũng không quên mang chút quà “cây nhà lá vườn” đến tặng “cậu chủ”. Chính điều đó làm cho những thay đổi trong quan hệ giữa hai người giờ đây trở nên phi lí.
Hai biện pháp nghệ thuật chính được tác giả sử dụng trong truyện là hồi ức và đối chiếu được kết hợp một cách nhuần nhuyễn, khéo léo để làm nổi bật sự thay đổi của con người và cảnh vật. Đồng thời, tác giả đặt ra cho người đọc câu hỏi tại sao lại có sự thay đổi ghê gớm vậy?
Qua truyện, tác giả muốn nói đến tình cảnh đói nghèo của nông dân du nạn áp bức, tham nhũng nặng nề ở nông thôn, song điều ông quan tâm hơn cả là sự thay đổi tinh thần theo chiều hướng xấu của họ, thể hiện qua tính cách của thím Hai Dương, của những người khách mượn cớ đưa tiễn để lấy đồ đạc, đặc biệt là qua tính cách của Nhuận Thổ. Trong mọi thay đổi, điều làm cho tác giả ngạc nhiên, đau xót đến “điếng người đi” chính là mối quan hệ giữa Nhuận Thổ và mình.
Bằng thủ pháp đối chiếu và tương phản, tác giả đã phản ánh tình cảnh suy thoái về mọi mặt của xã hội phong kiến Trung Quốc đầu thế kỉ XX. Ông phân tích nguyên nhân và lên án các thế lực hủ bại đã đẩy xã hội vào thực trạng đáng buồn. Bên cạnh đó, Lỗ Tấn cũng chỉ ra những mặt tiêu cực nằm ngay trong tâm hồn, tính cách của người lao động.
Những nông dân như Nhuận Thổ không chỉ khổ vì con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thăn hào mà còn khổ sở đau đớn hơn nhiều bởi những quan niệm cũ kĩ về đẳng cấp, bởi sự đè nén, áp bức của giai cấp thống trị, bởi mê tín dị đoan… Nhuận Thổ xin bằng được đồ thờ của gia đình chủ cũ chắc là để mong cho đời mình đỡ khổ: Khi Nhuận Thổ xin chiếc lư hương và đôi đèn nến, tôi cười thầm, cho rằng anh ta lúc nào cũng không quên sùng bái tượng gỗ.
Để làm nổi bật sự thay đổi ghê gớm đó, tác giả không chỉ đối chiếu tính cách của từng nhân vật trong quá khứ với hiện tại mà còn đối chiếu nhân vật này với nhân vật kia, đặc biệt là đối chiếu giữa Nhuận Thổ ngày xưa với Thủy Sinh, con trai anh ta bây giờ. Cậu bé Nhuận Thổ cách đây hơn hai mươi năm hồng hào, khỏe mạnh, cổ đeo vòng bạc. Còn Thủy Sinh bây giờ ốm yếu vàng vọt, cổ không đeo vòng bạc…
Hình ảnh cố hương trong tác phẩm không chỉ mang ý nghĩa là nơi chôn nhau cắt rốn mà còn là bức tranh thu nhỏ của xã hội. Những thay đổi mà Lỗ Tấn đã miêu tả trong Có hương là những thay đổi có tính điển hình của xã hội Trung Quốc thời cận đại. Bởi vậy, qua việc miêu tả sự thay đổi cụ thể của một làng quê, Lỗ Tấn đã đặt ra vấn đề vô cùng bức thiết là phải xây dựng một cuộc đời mới tốt đẹp:
Tôi đang mơ màng thì trước mắt tôi hiện ra cảnh đồng cát, màu xanh biếc, cạnh bờ biển, trên vòm trời xanh đậm lơ lửng một vầng trăng tròn vàng thắm. Tôi nghĩ bụng: Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực, đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất; kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi.
Trên mặt đất vốn dĩ không có đường. Đường là do con người giẫm nát cỏ ở chỗ chưa có đường mà tạo ra, là khai phá chỗ gai góc mà có... Trong cuộc sống, bất kể là gặp bao nhiêu gian nan trắc trở, chúng ta cần kiên định, bền gan vững chí để mở đường đi tới tương lai tươi sáng. Đó là thông điệp tâm huyết mà nhà văn Lỗ Tấn muốn gửi đến tất cả chúng ta.
3. Phân Tích Tác Phẩm 'Cố Hương' của Lỗ Tấn Số 2
Nhà văn Lỗ Tấn nổi tiếng là nhà văn cách mạng tài năng của Trung Quốc. Trong số các tác phẩm của ông, không thể không kể đến truyện ngắn “Cố hương”. Tác phẩm này thành công rực rỡ, mang đến cho độc giả những cảm xúc dịu dàng và sâu sắc về tình yêu quê hương. Có thể nói, nó như một bức tranh sống động về kí ức ngọt ngào của những người quê hương, với những niềm vui, nỗi buồn và những hy vọng.
Trong truyện “Cố hương”, các nhân vật như tôi, mẹ tôi, cháu Hoàng, Nhuận Thổ, Thủy Sinh, chị Hải Dương là những người gắn bó với quê hương và là nguồn cảm hứng cho nhiều kí ức đẹp và đau buồn về quê hương. Trong hành trình 20 năm xa cách, nhân vật “tôi” trở về quê hương, trải qua 2000 dặm với cái lạnh buốt, nhưng lòng ông tràn ngập kí ức. Những cơn gió lạnh buốt thổi về, làm hồi sinh bao kí ức trong tâm trí nhân vật. Lần trở về này có vẻ đặc biệt vì ông trở lại để giải quyết công việc và để lại ngôi nhà thân yêu, nơi đầy ắp kí ức thơ ấu sau 20 năm xa cách.
Tác giả Lỗ Tấn không chỉ nói về quê hương như một biểu tượng của tổ tiên và sự tôn kính cha mẹ, mà còn tập trung vào ký ức cá nhân của ông trong thời thơ ấu cách đây ba chục năm.
Trong tác phẩm, có sự xuất hiện đẹp đẽ của tình bạn với Nhuận Thổ, con của gia đình làm thuê cho nhà của nhân vật “tôi”. Nhờ Nhuận Thổ, nhân vật “tôi” biết được nhiều điều kỳ lạ, và nhờ anh ta, ông lại cảm nhận được vẻ đẹp của quê hương, với những khung cảnh tuyệt vời nơi giữa thế gian.
Quê hương không chỉ là ký ức tuổi thơ, mà còn là nguồn cảm hứng cho tình bạn đẹp qua con người Nhuận Thổ. Tuổi thơ có lẽ là hình ảnh của quê hương, một mảnh trăng non trên bầu trời xanh của thời niên thiếu.
Hình ảnh Nhuận Thổ ngày nay trong tác phẩm mang đến nỗi đau và buồn bã về quê hương. Sau 30 năm xa cách, Nhuận Thổ trở thành biểu tượng của một xứ sở nghèo khó, bị áp bức và hành hạ bởi chế độ phong kiến. Những hình ảnh này chính là lời lẽ lên án sự thống trị của quyền lực đối với nhân dân.
Không thể không nhắc đến hình ảnh chị Hải Dương, người trước đây nổi tiếng và xinh đẹp, giờ đã trở thành một hình bóng u tối và lạnh lùng.
“Cố hương” của Lỗ Tấn giữ lại hình ảnh tươi đẹp của quê hương từ thời thơ ấu của tôi. Dù có đi xa đến đâu, hình ảnh quê hương sẽ luôn hiện hữu, là điểm hồn cho những bước chân trở về.
5. Đánh giá văn bản 'Cố hương' của Lỗ Tấn số 5
Đọc Cố hương, ta bắt gặp một giai điệu buồn, một nỗi buồn xuyên suốt, sâu xa từ hiện thực mang chất trữ tình thâm trầm, thấm thìa. Một câu chuyện dường như không có cốt truyện – chỉ như một bút kí sơ sài nhưng lại có sức đọng ở tầng sâu cảm nghĩ. Chủ đề của tác phẩm cứ toả rộng ra, nâng cao dần lên từ những vỉa quặng nổi, chìm, từ những mạch ngang dọc. Đề tài là cố hương, tất nhiên phải có hình ảnh về chính cố hương, nhưng ấn tượng đọng lại của truyện lại là những nỗi niềm buồn vui về mảnh đất nghìn đời của nhà văn, và sau đó là những day dứt băn khoăn: làm thế nào để thay đổi nó.
Dấu hiệu đầu tiên của sự tàn tạ làm "lòng tôi se lại" là những "thôn xóm tiêu điều, hoang vắng nằm im lìm dưới vòm trời màu vàng úa" mà tác giả (nhân vật tôi) quan sát được ở ven sông. Đó không phải là hình ảnh về quê hương mà người viết mong chờ và hồi hộp biết bao sau hơn hai mươi năm trở lại. Quê hương trong thực tế khác xa cái quê hương mà "tôi" có trong lòng, có trong kí ức. Cái hôm nay không giống cái hôm qua "Làng cũ tôi đẹp hơn kia!".
Vậy phải chăng cảm giác đầu tiên khi trở về làng này là một ngộ nhận, một cảm tính chủ quan vì "lòng mình vốn dã không vui", hoặc sự thê lương cũng không đến nỗi như mình lầm tưởng? Cảnh hiu quạnh khi bước chân đặt đến cổng nhà gieo thêm cái lạnh, cái buồn về sự tan hoang, thưa vắng. Nhà cửa, chòm xóm chắc hai chục năm về trước còn ấm áp đông vui, nhưng giờ thì nhiều gia đình đã dời đi, nay đã thành trống trải.
Nhiều nhà khác dã ra đi, gia đình "tôi" cũng sắp sửa ra đi. Nhìn mấy cọng tranh khô phất phơ trên mái ngói nhà mình giống như một ngôi nhà vô chủ từ lâu, vậy nên "khống đổi chủ không được", điều ấy tất nhiên, không khác gì những ngôi nhà trước đó. Đồ đạc trong ngôi nhà của "tôi" gần như bị quên lãng và nào có gì nhiều. Ấy thế mà biết tin, xóm giềng họ tộc đến "hỏi thăm" không ít.
Động cơ không hoàn toàn chỉ là trong sáng, thể hiện ở cái không khí xô bồ không phân biệt được người ngay, kẻ gian vì khách khứa thì nhiều, trong đó có kẻ đến đưa chân, người đến lấy đồ đạc, cũng "có kẻ vừa đưa chân vừa lấy đồ đạc". Vì vậy khi con thuyền của gia đình "tôi" rời bến lên đường thì tất cả đồ đạc trong ngôi nhà "hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt" đều đã được mang đi "sạch trơn như quét".
Nguyên nhân dẫn đến sự nghèo đói không gì khác là mất mùa, thuế má… Một gia đình như gia đình Nhuận Thổ đông con, tuy đứa bé nhất có thể lao đọng cũng đã "giúp được việc" rồi vẫn chẳng đủ ăn vì tai hoạ, vì sự sách nhiễu của bộ máy tham ô "chỗ nào cũng hỏi tiền, chẳng có luật lệ gì cả".
Có lẽ sự thay đổi nhiều nhất, ấy là sự biến dạng ở chính con người. Một Nhuận Thổ hôm nay hoàn toàn không giống với Nhuận Thổ năm xưa. Còn đâu khuôn mặt ngày nào tròn trĩnh, "nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tí tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng". Thay cho gương mặt rạng rỡ, hăm hở vào đời ngày đó là một cái gì thật tàn héo xác xơ "Anh cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đổi thành vàng sạm", chiếc mũ trên đầu rách bươm, chiếc áo bông mặc mùa lạnh trên người thì "mỏng dính".
Đặc biệt là hai bàn tay trước kia hồng hào, lanh lẹn, mập mạp nay chỉ còn hai bàn tay "vừa thô kệch vừa nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông". Nếu chỉ là dấu vết của tuổi già, một cái gì vô cảm thì tại sao khuôn mặt Nhuận Thổ khi gặp người mà chính anh mong nhớ, đợi chờ lại "vừa hớn hở vừa thê lương". Cái gì đó nhấn con người đói nghèo nhưng lương thiện ấy xuống tận bùn đen, đổ gương mặt vui tươi ngày trước trở thành mụ mẫm "đần độn" đi nếu không phải là do bao nhiêu tệ nạn: con đông, mùa mất, thuế nặng, lính tráng, trộm cướp, quan lại, thân hào đày đoạ.
Nói đến tệ nạn và các thế lực áp bức này thông qua một nạn nhân của nó, sức tố cáo của ngòi bút hiện thực mạnh mẽ, dữ dội biết chừng nào? Nhân vật thím Hai Dương, "nàng Tây Thi đậu phụ" có lẽ là đại diện cho số đông có những biểu hiện lưu manh hoá. Ra vẻ tức giận "tôi" giàu mà keo kiệt vì không chịu cho không những thứ "đồ gỗ hư hỏng", mụ quay gót thong thả đi ra rồi "tiện tay giật luôn đôi bít tất tay của mẹ tôi giắt vào lưng quần, cút thẳng".
Hoặc một lần khác mụ "đứng cạnh đống tro, moi ra hơn mười chiếc, cả bát lẫn đĩa" rồi đổ cho Nhuận Thổ có ý gian lén lút vùi vào. Đứa trẻ nhỏ nhất bây giờ, đứa con thứ năm của Nhuận Thổ cũng không giống bố nó hai chục năm về trước, hoặc chỉ như một phiên bản đáng buồn vì gương mặt thì nó giống hệt anh "chỉ có điều vàng vọt, gày còm hơn một tí, và cổ không đeo vòng bạc mà thôi".
Rõ ràng bằng óc quan sát có sự đối chiếu làm nổi bật sự đổi thay, nhất là bằng phương thức miêu tả nói ít mà gợi nhiều, phác hoạ cái bên ngoài mà nói được bao điều sâu sắc bên trong hoặc điển hình hoá một chân dung, một tính cách nhân vật.
Khi quan sát, miêu tả cảnh và người nơi chôn rau cắt rốn, nhà văn vốn không có cái nhìn dửng dưng của người ngoài cuộc. Vì cảnh ấy, người ấy đối với nhà văn rất đỗi thân yêu, gần gũi. Có thể nào nhà văn "vô cảm", dửng dưng? Nhưng dù sao, những chi tiết phác hoạ trên đây vẫn là ngoại canh, đối với người viết, nó vẫn chỉ là khách thể, cái bên ngoài. Còn nỗi buồn vô hạn của nhà văn, nó lặn vào chiều sâu, vào tầng hai của hiện thực nhìn thấy. Ở đây, các phương tiện biểu cảm được tận lực phát huy và tỏ ra vô cùng hiệu quả.
Trước hết, ấy là cảm nhận về sự tù túng, quẩn quanh, ngưng đọng của một làng quê nói riêng, cũng là một đất nước Trung Quốc nói chung. Một gia đình như gia đình Nhuận Thổ tính đến ba đời: từ cha Nhuận Thổ đến Thuý Sinh (con Nhuận Thổ) trước sao sau vậy, không "mọc mũi sủi tăm" lên được dù thời gian có đến một thế kỉ trôi qua. Ông là người "ở tháng", cha là người được chủ gọi thêm, để coi giữ đồ thờ (trong những ngày giỗ tết), còn đứa con biết trôi dạt về đâu khi điểm tựa là gia đình, một gia đình đông con làm không đủ sống. Nếu theo quan điểm "con hơn cha là nhà có phúc" thì gia đình Nhuận Thổ đúng là "vô phúc".
Một Thuỷ Sinh bây giờ đâu có bằng cha nó của hai mươi năm vể trước? Một thím Hai Dương cũng khác trước nhiều. Cái lương thiện, hiền hậu của cô gái ngồi bán đậu phụ năm xưa đã thay thế bằng những gì không được đáng yêu như thế: tự cao, tự đại, tâng bốc lấy lòng, tham lam tinh quái, cái dáng điệu com-pa thay bằng tên gọi "mụ com-pa"…
Cùng với sự trói buộc vô hình của xã hội, những nạn nhân đáng thương này còn tự trói mình bằng một sợi dây truyền kiếp. Ấy là sự mặc cảm, những ngộ nhận về thân phận tôi đòi. Điều này làm cho nhà văn bất ngờ và đau đớn nhất. Vì đó là căn bệnh nan y về mặt tinh thần của những người áp bức do chính họ tạo ra. Nó phổ biến lan tràn trở thành một thứ "quốc dân tính" kìm hãm con người ngu muội trong một không gian khép kín tối tăm.
Tình cảm giữa Nhuận Thổ với nhân vật "tôi" thật thân thiết, chân thành, cởi mở hồi còn là hai đứa trẻ ngày nào. Với nhân vật "tôi" sau hai chục năm dường như nó vẫn còn trọn vẹn, còn tươi nguyên như thế. Vì kỉ niệm giữa chúng gần giống như một thiên đường trên mặt đất. Nhuận Thổ khi ấy "lên tỉnh" thì lần đầu tiên mới trông thấy "những điều hắn chưa bao giờ trông thấy cả".
Còn về vùng biển quê Nhuận Thổ, nhân vật "tôi" tung tăng bay nhảy như một con chim sẻ sổ lồng. Mùa tuyết xuống thì đi bẫy chim, mùa dưa hấu thì đi canh lợn rừng, con tra, con nhím. Ra biển thì đi nhặt vỏ sò màu đỏ, màu xanh… cảm giác của nhân vật "tói", cũng giống Nhuận Thổ là "chưa hể biết trên đời này lại có những chuyện mới lạ như vậy". Với nhân vật "tôi", những phát hiện mới này không chỉ là ngày hội, niềm vui, nó còn là sự kiêu hãnh so với bạn bè trên tỉnh vì "chúng nó cũng như tôi, chỉ nhìn một mảnh trời vuông trên bốn bức tường cao bao bọc lấy cái sân mà thôi!".
Trong thế giới tuổi thơ hồn nhiên ấy, chúng đã từng là bạn bè, anh em dù hai gia đình không cùng một hoàn cảnh sống. Không có gì để phân chia kẻ nông thôn người thành phố. Những giọt nước mắt khi phải chia tay đều rất chân thành chia đều cho hai đứa trẻ ngây thơ. Nó là vô giá. Với nhân vật "tôi", đó là vùng sáng của quê hương, hồn vía của quê hương. Hai chục năm xa cách, tuổi thơ đã đi qua nhưng có cái không thể đi qua, kí ức của "tôi" giống như "bừng sáng lên" khi bà mẹ nhắc đến "có anh Nhuận Thổ đến chơi" sau bao chuyện vật đổi sao dời xa lơ xa lắc.
Còn Nhuận Thổ khi gặp lại "tôi" tại sao nét mặt "vừa hớn hớ vừa thê lương"? Hớn hở vì vui mừng, đó là những tình cảm hồn nhiên chưa mất. "Tôi" đi xa, anh thường đến hỏi thăm. Nhận tin "tôi" trớ về, anh vội đến gặp mặt, lại còn cho quà dù quà quê chỉ là một gói đỗ xanh phơi kĩ. Tình cảm như thế là chân thật. Nhưng cái hiển nhiên thì đã không còn. Nhuận Thổ đã biết tiết chế sự hồ hởi thể hiện ở những hành vi ứng xử rất chừng mực.
Anh đã tạo ra một thứ hàng rào ngăn cách. Thay cho cách nói suồng sã anh anh em em ngày nào là một thái độ khác: một dáng điệu "cung kính", một cách chào "rành mạch" dường như anh đã tự dặn mình, đã luyện tập kĩ để không một mảy may vụng về, lúng túng: "Bẩm ông". Cái cách thưa gửi lạ tai ấy thật bất ngờ vì lần đầu "tôi" nghe thấy trong quan hộ bạn bè, tri âm thân thiết. Nó ráo hoảnh trong sự ngăn cách phân chia.
"Tôi như điếng người đi" chính là vì vậy. Sự đau đớn của "tôi" không nói được nên lời vì đó là nỗi đau quá lớn ngoài sức tưởng tượng của người kể chuyện. Hơn thế nữa, một cái gì còn lớn hơn, giống như một định mệnh: người đi ở vẫn là đi ở, người hèn hạ vẫn là người hèn hạ. Thế giới phẳng lặng này không dành chỗ cho sự thay bậc đổi ngôi. Trái tự nhiên, luật lộ vô hình vẫn ngang nhiên tồn tại, tồn tại trong ý thức con người, kể cả con người bị áp bức khổ đau.
Quan hệ thân mật đã trở nên xa cách, "tôi" không nói được gì hơn vì cái không khí ngột ngạt bao trùm. Cuộc trò chuyện giữa khách và chủ tớ nên rời rạc "toàn là những chuyện chẳng quan trọng gì", bởi nó vô hồn nhạt nhẽo. Kể lể về nỗi buồn của bản thân Nhuận Thổ mà những nếp nhăn trên mặt anh không hề động đậy như anh là người kể còn nội dung câu chuyện là của một ai đó mà thôi.
Gương mặt ấy "phảng phất như một pho tượng đá" thật phẳng lặng đến thản nhiên nhằm vĩnh viễn hoá những đau thương mà mình nếm trải nhọc lòng, không còn biết cái buồn vui hồn nhiên là gì nữa.
Như thế là con đường phía sau đã rõ: một con đường rất hẹp mà cũng rất dài vắt ngang bao nhiêu thế kỉ. Vấn đề đặt ra là có nên tiếp tục giẫm chân lên những bước chân của người khác hay thay đổi nó đi, mở ra một con đường mới. Hình ảnh về con đường cũ như tự nó hình thành: con đường tâm tưởng ấy song song với con đường có thực mà quy trình của nó dễ thấy biết bao: Từ thành phố trở vé rồi từ đó lại ra đi, trở về trong đêm và ra đi trong buổi hoàng hôn.
Hai khoảnh khắc thời gian đánh dấu một con đường ảm đạm. Phải chăng là rời bỏ cố hương cũng là chia tay với quá khứ, một quá khứ đáng buồn? Câu văn bỗng trở nên đa nghĩa. Đó là "những núi xanh hai bên bờ sông đen sẫm lại, nối tiếp chạy về phía sau lái" có ý nghĩa về cuộc biệt li, biệt li mà "không chút lưu luyến" cảm thương. Trong bối cảnh đó, một cảm nhận mới, không phải không dính líu đến cuộc chia tay ập đến "tôi chỉ cảm thấy chung quanh tôi là bốn bức tường vô hình, nhưng rất cao, làm cho tôi vô cùng lẻ loi, ngột ngạt".
Tuy vậy, tuy quá khứ thì có thể quên đi nhưng câu hỏi của thằng bé Hoàng còn đó "nhưng mà thằng Thuý Sinh nó hẹn cháu đến nhà chơi cơ mà!". Quan hệ giữa "tôi" với Nhuận Thổ cứ cho là đã thuộc về quá khứ, còn tình bạn của hai đứa trẻ, nghĩa là một thế hệ tiếp nối thì sao? "tôi mong ước chúng nó sẽ không giống chúng tôi, không bao giờ phải cách bức nhau cả…".
Trong tương lai số phận của chúng sẽ không thể nào còn giống chúng tôi, hoặc vất vả chạy vạy như tôi, hoặc "khốn khổ mà đần độn" như Nhuận Thổ, cũng không giống những người dưng "vì khốn khổ mà tàn nhẫn như bao nhiêu người khác". Cuộc sống của chúng tôi, thời chúng tôi, thời của quá khứ không xứng đáng với con người. Nhà văn nghĩ đến một cuộc sống khác, một cuộc đời mới mà "chúng tôi chưa từng được sống", nghĩa là một xã hội phải thay đổi hẳn đi trong no đủ và nhất là một quan hệ mới giữa con người.
Nhưng hi vọng của người ta có ba, bảy đường. Ở đây lại xuất hiện một thứ ngã ba, có hi vọng hướng vé phía sau, có hi vọng hướng về phía trước. Trong Nhuận Thổ có cái ước mơ thứ nhất. Nó tự nhiên như một quán tính, một thói quen khi anh xin gia đình "tôi" chiếc lư hương và đôi nến. Dù cuộc sống có khốn khổ thế nào anh không bỏ được thói quen là "sùng bái tượng gỗ" của anh, tự nguyện trở lại cái quá khứ đáng hàng trăm lần nguyền rủa.
Nhưng ngay ở hi vọng thứ hai, hi vọng một xã hội trong đó con người được giải phóng, được tự do cũng có thể không phải không hão huyền, và xét cho cùng, nó cũng là một loại "tượng gỗ" vô hồn, vô tri kiểu mới "thứ tượng gỗ tự tay tôi chế tạo ra". Trở về với quá khứ thì quá giản đơn vì gần gũi, còn đánh cược cuộc đời mình về phía trước thì dường như lại quá "xa vời" gần với sự hư vô như nhìn vào ảo ảnh. Hình ảnh con đường và thái độ chọn đường đến phần kết câu chuyện mới thực sự được xác định.
Biến mơ ước thành quyết tâm khi nhà văn tự nêu lên một định nghĩa về tương lai, cũng là về con đường mới: "kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì thành đường thôi". Đặt ý nghĩ trên đây vào những năm hai mươi của thế kỉ trước, ta mới nhận ra một dự cảm tiên tri, một táo bạo và dũng cảm tìm đường của Lỗ Tấn.
Phương thức lập luận với nhiều thao tác tư duy như: So sánh, loại trừ, phủ định để tìm ra chân lí phù hợp với giọng văn độc thoại ở đây. Giá trị nhân văn của Cố hương vì vậy không chỉ ở sự cảm thông (với nỗi khổ của kiếp người – như kiếp người Nhuận Thổ) mà còn là, và chính xác là xoá bỏ. Phê phán một xã hội đang tàn hay khát khao thiết kế một mô hình mới, một xã hội tốt đẹp cho con người, ngòi bút "trong nóng ngoài lạnh" của nhà văn có một sức lan toả sâu xa.
6. Phân tích tác phẩm 'Cố hương' của Lỗ Tấn số 7
Cố hương là một trong những truyện ngắn đặc sắc của Lỗ Tấn nói về đề tài nông thôn. Mỗi từ, mỗi câu đều toát lên hơi thở của quê hương, đậm đà và sâu sắc. Qua những kí ức của thời thơ ấu, tác giả khám phá nỗi buồn trước những thay đổi của con người và cảnh quê - đồng thời truyền tải niềm tin vào một tương lai tươi sáng. Trước mắt nhân vật 'tôi' là hình ảnh của quê hương hiện tại và quê hương xưa.
Quay trở về quê hương, lòng 'tôi' tràn đầy xúc động. Mọi người khi về quê thường hồi hộp và vui mừng, nhưng với 'tôi' thì khác. Nhìn quê hương, lòng 'tôi' như co ro, tự hỏi: 'Liệu đây có phải là làng quê yêu dấu?', việc về để bán nhà, chuyển giao đất, và đối mặt với cảnh nghèo, tất cả làm tăng thêm nỗi buồn. Trong nhiều tác phẩm, quê hương thường được liên kết với tổ tiên. Lỗ Tấn đưa ra một góc nhìn khác - ông tập trung vào việc tái hiện kí ức của tuổi thơ. Đó là mối quan hệ bạn bè với Nhuận Thổ.
Nhờ vào Nhuận Thổ mà 'tôi' biết được nhiều điều kỳ thú, từ cách làm bẫy chim, nhận diện các loại sò cho đến công việc canh dưa. Nhuận Thổ mở ra trong 'tôi' một bức tranh quê hương như một câu chuyện cổ tích, với 'vầng trăng tròn treo lửng lơ trên bức nền trời xanh, dưới chân là một bãi cát... mênh mông màu xanh rờn...'. Khi nói về quê, trước hết phải nói đến những con người, đặc biệt là mẹ thân yêu. 'Tôi' vừa bước vào nhà, mẹ đã chạy ra đón.
Mặc dù vui mừng, trong lòng mẹ vẫn ẩn chứa nỗi buồn - buồn về tình cảnh gia đình, nhớ những người đã khuất, đặc biệt là sắp phải xa. Nhưng mẹ vẫn hiền hậu, chăm sóc 'tôi', nhắc nhở 'tôi' ghé thăm hàng xóm. Nhờ mẹ, 'tôi' nhớ đến Nhuận Thổ và có dịp gặp lại người bạn cũ. Đối mặt với kẻ ăn người, mẹ tỏ ra thân thiện, chia sẻ cảm thông với cuộc sống khó khăn của một nông dân nghèo có sáu đứa con. Tình ái, lòng nhân ái là điểm đặc biệt của mẹ.
Quê hương còn là tình bạn thơ ấu. Nhuận Thổ và 'tôi' chỉ gặp nhau trong một tháng giêng, nhưng suốt cả cuộc đời, 'tôi' không thể quên. Sau 30 năm, hình ảnh của Nhuận Thổ thuở nhỏ vẫn hiện hữu rõ ràng 'khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội chiếc mũ lông nhỏ xinh, cổ đeo vòng bạc sáng loáng'. Nhuận Thổ thổ lộ mọi điều chưa từng được 'tôi' biết.
Với 'tôi', bẫy chim, canh dưa, vỏ sò, vỏ ốc còn hấp dẫn hơn cả câu chuyện cổ tích. Thông qua nhân vật Nhuận Thể, Lỗ Tấn khẳng định: Không có tuổi thơ thì không có quê hương. Tình bạn làm cho tình quê không bao giờ nhạt nhòa. Mẹ nhắc nhở 'tôi' về Nhuận Thổ, 'tôi' nhận ra vẻ đẹp của quê hương ở đâu. Nhuận Thể thời thơ ấu là hình ảnh của quê hương xưa tươi đẹp. Đó là một phần của 'Cố hương'. Ngược lại, Nhuận Thổ hiện tại là nỗi đau của quê hương.
Thời gian đã làm tổn thương con người, tổn thương quê hương ngày càng nghèo đói. Xã hội cũ đã phá hủy cả vẻ ngoại hình và tâm hồn của con người. Từ thần đồng như cổ tích, Nhuận Thổ trở thành một người đàn ông già yếu, đôi bàn tay thô kệch nặng nề, nứt nẻ như vỏ cây thông. Gặp lại 'tôi', Nhuận Thổ vừa hồn nhiên vừa buồn bã, môi mấp máy nói lên hai từ 'Bẩm ông'. Lễ giáo phong kiến đã 'đánh chết' tình bạn thơ ấu, tạo ra một bức tường ngăn cách giữa họ. Nhuận Thổ trở thành một tượng đá vô cảm, không hồn.
Đồng hành với Nhuận Thổ là chị Hai Dương - người phụ nữ đẹp như Tây Thi ngày nào. Trước kia, nhân vật này làm mê đắm bao người... Nhưng giờ đây trở nên bình dị và xấu xí - lúc thì lười biếng giật đôi tất lên lưng quần, lúc thì tự thưởng cho bản thân bằng cách sử dụng cái cẩu khí sắc, rồi bỏ chạy...
Hình ảnh của cháu Hoàng và Thủy Sinh khiến chúng ta lo lắng, không biết tương lai của tình bạn hai đứa trẻ sẽ ra sao? Qua chuyến về quê, đối diện với sự thay đổi kinh hoàng của Nhuận Thổ và nơi chôn rau cắt rốn, tác giả lên án chế độ phong kiến; từ đó đặt ra vấn đề về quyền sống và hạnh phúc trên con đường của tương lai.
Hình ảnh con đường xuất hiện ở cuối truyện để lại nhiều ấn tượng. Ban đầu, trên mặt đất không có con đường. Chân lý ấy quá đơn giản! Nhưng lại không có ai thốt lên thành lời. Không ai biết con đường mưu sinh, con đường tình cảm, con đường khó khăn, hạnh phúc... bắt đầu từ khi nào? Trong 'Cố hương,' hình ảnh con đường xuất hiện đến chín lần.
Đó là con đường đưa 'tôi' trở về quê hương, đối mặt với thực tại, quay về với kí ức êm đềm và tươi đẹp; đó là con đường mưu sinh của những người dân nghèo, mê muội như Nhuận Thổ; đó là con đường mưu sinh, con đường công danh của 'tôi'... Nhưng ở cuối tác phẩm, từ con đường thực, con đường hiện tại, con đường đời, tác giả khao khát một con đường cho tương lai của thế hệ trẻ.
Do đó, 'con đường' không chỉ là không gian hiện thực mà còn là không gian tâm lý, không gian trừu tượng. Con đường là chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa con người và con người, giữa cái cũ và cái mới, giữa cái ác và cái thiện; có con đường cay đắng, có con đường hạnh phúc, tương lai, và con đường khao khát. Không gian 'con đường' trong tâm lý của nhà văn mở rộng đến vô tận.
Lỗ Tấn thường nói: 'Người ta có quyền buồn bã nhưng không nên trở nên bi quan.' Cố hương là minh chứng cho tâm hồn lạc quan, tràn đầy niềm tin và hi vọng sâu sắc của nhà văn Lỗ Tấn, người con ưu tú của dân tộc Trung Hoa.
Qua việc kể về chuyến về quê lần cuối cùng của 'tôi', thông qua những cảm xúc của 'tôi' trước sự biến đổi kinh khủng của làng quê, đặc biệt là của Nhuận Thổ, tác giả lên án tội ác của chế độ thực dân phong kiến và từ đó đặt ra câu hỏi về con đường của nhân dân, của xã hội để mọi người cùng suy ngẫm. Đọc tác phẩm, chúng ta trân trọng nhận ra tình yêu quê hương và nỗi lo lắng về con đường giải phóng người lao động của nhà văn Lỗ Tấn.
7. Phân tích tác phẩm 'Cố hương' của Lỗ Tấn số 6
Quê hương xa xôi, nhiều thập kỷ chia cách
Trong tâm tư ta luôn ghi nhớ miền quê thân thương
Cánh đồng xanh, bò trâu, tiếng sáo êm đềm
Nhìn quê hương, lòng ta xao xuyến, gọi mình về.
Đó là trạng thái tâm hồn của người sau bao năm chia xa quê hương, những hình ảnh, kỷ niệm thơ ấu không bao giờ phai nhòa. Và điều này, tâm trạng ấy, nó đã lan tỏa vào những tác phẩm văn học. Một trong những tác phẩm mà tôi không thể quên là 'Cố Hương' của Lỗ Tấn. Trong câu chuyện, hình ảnh 'con đường' có lẽ là điều tác giả muốn nhấn mạnh, để lại nhiều cảm xúc sâu sắc, sự hoang mang và suy nghĩ sâu sắc.
Câu chuyện ngắn kể về một cuộc trở về quê hương của nhân vật 'Tôi' sau hơn 20 năm xa cách, trong không gian và thời gian đặc biệt. Có thể đây sẽ là chuyến về cuối cùng anh trở lại thăm quê. Lần này, nhân vật tôi quay về để dẫn gia đình rời khỏi và định cư nơi khác. Trên chiếc thuyền dưới ánh hoàng hôn, bầu trời vàng như lớp mỡ gà. Con đường về quê lần này đã không như mong đợi, những ngôi làng hiu quạnh, tịch biệt cùng với không khí yên tĩnh và hoang vắng khiến tâm trạng của 'Tôi' càng trở nên buồn bã hơn. Khi đến nhà, gặp mẹ và những người từng làm nên tuổi thơ của 'Tôi'.
Mẹ kể về 'Nhuận Thổ' - người bạn thời thơ ấu. Trước đây, Nhuận Thổ là một đứa trẻ thông minh, lanh lợi, nhưng bây giờ gặp lại, anh ta là một người yếu đuối với làn da tối màu, nhà đông con. 'Tôi' cảm thấy thương cho anh ấy. Còn chị Hải Dương trước kia được biết đến như nàng Tây Thi đậu phụ, hàng đậu bán đắt vì có chị ta. Chị ấy nói: 'Lúc cậu nhỏ, tôi thường ôm cậu mà cậu không nhớ à?' Có lẽ vì chị ấy thay đổi quá nhiều, những ký ức đẹp đẽ đó đã bị che mờ hết. Trước đây dịu dàng và nền nã, bây giờ ngược lại hoàn toàn: cay đắng, thô lỗ, gian xảo,... thấy nhà tôi có điều gì lạ là tìm mọi cách để đạt được.
Xã hội phong kiến đã đẩy những người nông dân nghèo khó vào đường cùng. Họ là những con người đáng thương, bị xã hội đẩy xuống đáy, tận cùng, nhưng họ thiếu can đảm để tìm con đường mới, để thay đổi số mệnh. Giờ đây, 'Tôi' phải dẫn gia đình đi nơi khác, để cháu Hoàng và Thủy Sinh không phải sống cuộc sống như 'Tôi' từng trải qua ở đây.
Ngay trên chiếc thuyền, dòng sông và hoàng hôn đã mở ra một hành trình mới, bắt đầu cho một cuộc sống mới, tốt đẹp hơn. Cháu Hoàng và Thủy Sinh hỏi về việc quay lại nơi này, nhưng sao mà 'Tôi' không còn mảnh liệt, không muốn ở lại và sẽ không quay lại. Quê hương 'Tôi' sinh ra, những người ở đây ai cũng đã thay đổi, mọi thứ đều thay đổi theo một hướng tiêu cực. 'Tôi' suy nghĩ lại: 'Trên mặt đất này, làm sao có con đường, mọi người đi mãi cũng chỉ làm cho nó trở thành con đường thôi'.
Có lẽ để mong muốn một xã hội phát triển, phải có một người dũng cảm đứng lên, mở đường trước, đi trước mới có thể thay đổi. Con đường của cách mạng, con đường của lý tưởng, con đường của tình yêu nước. Đọc tác phẩm 'Cố Hương', những người Việt Nam có thể rút ra nhiều bài học.
Bác Hồ đã mở ra con đường mới cho dân tộc, truyền tư tưởng Mac-Lê-Nin cho mọi thế hệ, vậy nên người Việt phải làm gì bây giờ? Để tiếp tục công việc mà Bác đã bắt đầu. Có lẽ từ giờ trở đi, mỗi người phải xác định con đường riêng cho mình và cố gắng theo đuổi mục tiêu đó. Con đường mà tác giả nhắc đến cuối bài còn là con đường của niềm tin, hy vọng, không chỉ của một người mà là của cả một dân tộc, một thế hệ cùng nhau đóng góp vào xây dựng.
Mọi thứ như là quả xuất phát từ tận đáy lòng yêu quê hương. Hình ảnh làng quê thơ ấu sẽ không bao giờ phai nhòa. Người luôn mong muốn cho người khác sự ấm áp, hạnh phúc. Dù có những con đường xa xôi, đường gần, con đường khó khăn, con đường gập ghềnh, nhưng hãy dũng cảm đi, và mọi con đường sẽ trở nên tốt đẹp và hạnh phúc.
8. Phân tích tác phẩm 'Cố hương' của Lỗ Tấn số 9
Lỗ Tấn (1881 - 1936) là một nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc, lớn lên trong một gia đình quan lại sa sút. Từ khi còn trẻ, ông đã rời xa gia đình để theo đuổi đam mê văn học, vì ông tin rằng văn học có thể thay đổi tâm hồn của nhân dân. Cả cuộc đời ông là một sự nghiệp văn học đa dạng và sâu sắc. Tác phẩm 'Cố hương' của Lỗ Tấn là một minh chứng xuất sắc cho khả năng thể hiện đời sống khó khăn và tâm trạng của nhân vật chính dưới thời kỳ phong kiến và thực dân.
Truyện kể về cuộc hành trình quay lại làng quê của nhân vật 'tôi' sau nhiều năm xa cách. Bức tranh buồn của cảnh quê tiêu điều, hòa mình trong nỗi nhớ thương, đã được tô điểm bằng những nhân vật như Nhuận Thổ, Thủy Sinh, thím Hai Dương, thể hiện sự đau đớn và thê lương của cuộc sống nông dân dưới chế độ áp bức. Tác giả thông qua những hình ảnh này muốn chỉ ra sự thay đổi bi thảm của xã hội Trung Quốc, đồng thời lên án những thực thể phong kiến và tư tưởng lỗi thời đã làm nên cảnh đau khổ này.
Lỗ Tấn không chỉ là một nhà văn tài năng mà còn là một nhà triết học, người đặt câu hỏi về quyền sống và hạnh phúc của người dân, đồng thời tìm kiếm con đường đổi mới cho xã hội Trung Quốc. Cuộc hành trình của nhân vật 'tôi' trở thành biểu tượng cho sự hy sinh và đấu tranh, đồng thời khơi gợi lòng tự hào về quê hương và niềm tin vào sự đổi thay.
Đọc lại 'Cố hương' trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cảm nhận được giá trị vô song của tác phẩm, như một bức tranh chân thực về đời sống và tâm trạng của nhân dân Trung Quốc thời kỳ phong kiến. Từ việc lên án thực tế khó khăn đến việc tìm kiếm con đường đổi mới, Lỗ Tấn đã để lại một di sản văn hóa tinh thần sâu sắc và ý nghĩa cho độc giả.
Truyện 'Cố hương' là một hành trình tri thức và nhân văn, là lời kêu gọi đầy tình yêu thương và hy sinh cho đất nước, là bức tranh đẹp về quê hương, là tác phẩm vĩ đại của một tâm hồn văn nghệ lớn, là tình ca ca ngợi lòng yêu nước và lòng nhân ái. 'Cố hương' của Lỗ Tấn không chỉ là một truyện ngắn, mà là một kiệt tác văn hóa kinh điển, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc và là nguồn cảm hứng vô tận cho những người yêu văn hóa Trung Quốc.