1. Bài viết phân tích tác phẩm 'Độc Tiểu Thanh Kí' xuất sắc nhất
Độc Tiểu Thanh kí, một tác phẩm tuyệt vời của Nguyễn Du, được in trong bộ Thanh Hiên thi tập. Nguyễn Du, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, để lại những tác phẩm quý giá bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Bài thơ 'Đọc Tiểu Thanh kí' là một minh chứng cho tài năng và tâm hồn nhân đạo của ông. Trước khi ông đi sứ sang Trung Quốc, ông đã sáng tác nên kiệt tác này.
Thơ tả về Tây Hồ và câu chuyện của Tiểu Thanh, một người phụ nữ tài sắc vẹn toàn, sống trong xã hội phong kiến. Bị chồng và vợ cả ghen ghét, Tiểu Thanh sống cô độc trên núi Cô Sơn và viết những bài thơ thấu hiểu về cuộc sống đau khổ của mình. Trong lòng Nguyễn Du, Tiểu Thanh trở thành biểu tượng của những giá trị tinh thần bị đàn áp.
Nguyễn Du đưa ra phiên âm chữ Hán, mang đến sự phong phú và sâu sắc cho tác phẩm. Mỗi câu thơ đều chứa đựng tình cảm, triết lý, và sự nhân văn sâu sắc. Thông qua bài thơ, Nguyễn Du không chỉ thể hiện sự thương cảm với Tiểu Thanh mà còn bày tỏ nỗi lo lắng, băn khoăn trước những bi kịch của con người trong xã hội cũ.
Bài thơ không chỉ là hình ảnh hồn thơ của Tiểu Thanh mà còn là lời thanh minh, trách nhiệm của Nguyễn Du đối với những giá trị tinh thần và văn hóa. Bằng cách này, ông để lại dấu ấn sâu sắc trong văn chương Việt Nam, để những thế hệ sau có thể hiểu và trân trọng giá trị của tác phẩm.


3. Phân tích chi tiết về tác phẩm 'Độc Tiểu Thanh kí' số 3
'Đọc Tiểu Thanh ký' là một sáng tác đặc sắc của Nguyễn Du, một câu chuyện đau lòng được gói gọn trong những câu thơ cô đọng và sâu sắc nhất. Đây không chỉ là một bài thơ bằng chữ Hán mà còn là tác phẩm nghệ thuật đi sâu vào tâm hồn người đọc.
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang, sự biến đổi của mảnh giấy tàn nơi nàng Tiểu Thanh sống khiến người đọc cảm nhận được không khí u tối và đau buồn.
Những vần thơ của người con gái bạc mệnh vò võ 'thổn thức' bên song cửa sổ với những mảnh giấy tàn, toát lên sự cô đơn và đau đớn không lối thoát. Nguyễn Du xót xa cho thân phận bạc mệnh, mô tả hình ảnh 'son phấn có thần chôn vẫn hận' để nói lên sự tàn nhẫn của xã hội đối với những người tài hoa.
Trong câu hỏi cuối cùng, Nguyễn Du tự đặt ra một tâm sự chua xót: 'Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa, người đời ai khóc Tố Như chăng?' - một cách nói lên sự quên lãng và cô đơn của những người tài năng bị chôn vùi theo thời gian.
Bài thơ 'Đọc Tiểu Thanh ký' để lại trong lòng người đọc nhiều nỗi niềm thương cảm, lên án sự bất công của xã hội, và là một tác phẩm vĩ đại của văn học Việt Nam.


3. Phân Tích 'Độc Tiểu Thanh Kí' - Bài 2
Nguyễn Du, một tên tuổi nổi tiếng, thường được nhắc đến với Truyện Kiều, nhưng ông còn để lại nhiều tác phẩm khác. Nguyễn Du thấu hiểu và chia sẻ tâm huyết với phụ nữ thời đại, thể hiện qua những bài thơ đau lòng về số phận của những người phụ nữ tài năng nhưng bạc mệnh.
Ngoài Kiều, Nguyễn Du đã gửi lời thương tiếc đến Tiểu Thanh đời nhà Minh qua tác phẩm 'Độc Tiểu Thanh Ký'. Từ những dòng thơ, ông thể hiện lòng thương cảm với những con người tài năng nhưng gặp đủ khó khăn. Đồng thời, ông thể hiện sự lo lắng và trăn trở về số phận của những người tài sắc, trong đó có chính bản thân ông.
Cảnh Hồ Tây, liên quan đến giai thoại về Tiểu Thanh - người tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu thời nhà Minh. Với hoàn cảnh khó khăn, Tiểu Thanh phải làm vợ thứ cho một thương gia giàu có ở Hàng Châu, Chiết Giang. Ghen tuông, vợ cả đày đọa nàng trong ngôi nhà trên núi Cô Sơn. Nàng viết tập thơ để ghi lại nỗi đau của mình. Không lâu sau đó, Tiểu Thanh qua đời, vẫn còn rất trẻ. Vợ cả tiếp tục ghen, đốt bỏ tập thơ của nàng, may mắn vẫn còn lại một số bài được sao chép lại với tên 'Phần Dư' để kể về cuộc đời bi thảm của nàng.
Nguyễn Du mở đầu bài thơ bằng hình ảnh u ám của Hồ Tây, không phải là vẻ đẹp lãng mạn mà mọi người thường nghĩ. Nguyễn Du mô tả Hồ Tây như một gò hoang:
“Tây Hồ hoa uyển tán thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư. ”
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.)
Nhắc đến Tây Hồ, mọi người thường liên tưởng đến cảnh đẹp, nhưng ở đây, Nguyễn Du nói về một gò hoang. Điều này tượng trưng cho sự mất mát khi Tiểu Thanh ra đi, khiến cảnh vật và nàng trở nên hữu tình và đau đớn.
Tây Hồ biến thành gò hoang, giống như cách Tiểu Thanh biến mất và giờ chỉ là một đống xương khô. Hai từ 'thổn thức' như là một biểu hiện của nỗi đau và buồn bã của người con gái ấy. Tiếng lòng của Tiểu Thanh chính là tiếng lòng của Nguyễn Du. Tại đây, có một sự đồng điệu giữa nhân vật và tác giả. Họ chia sẻ cùng một cảm xúc về sự mất mát của một người phụ nữ tài năng.
Những suy nghĩ đau đớn đó, Tiểu Thanh thể hiện qua hai câu thơ tiếp theo, khi linh hồn của cô vẫn còn tồn tại:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.)
Son phấn ở đây là biểu tượng cho Tiểu Thanh, vì nó là một phần của việc trang điểm làm nổi bật vẻ đẹp của phụ nữ. Tác giả nhận thức được sự quý phái của người con gái ấy, dù bị chôn vùi, nhưng hận thù vẫn còn. Tác giả sử dụng tâm hồn đồng điệu của mình để cảm nhận điều này. Cái chết của Tiểu Thanh mang đi sự nghiệp văn chương của cô, nhưng những tác phẩm của cô vẫn còn sống. Văn chương không có số phận, nhưng ở đây, nó vẫn tồn tại.
Nhà thơ tiếp tục thể hiện lòng thương tiếc đối với Tiểu Thanh tài năng thông qua hai câu thơ tiếp theo. Càng thấu hiểu nỗi đau của cô, Nguyễn Du càng nghĩ đến bản thân mình:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Nỗi hận kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.)”
Nỗi hận của Tiểu Thanh trở thành nỗi hận của cả đời, vượt qua cả cái chết. Phong vận ở đây không chỉ là sự phong lưu về vật chất, mà còn là sự phong lưu về tinh thần, là tâm hồn, tài năng của những người tài hoa. Con người tài hoa là bản nguyên của trời đất, nhưng vì sao số phận của họ lại gian truân đến vậy? Câu hỏi này như là một lời nhắc nhở:
“Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần”
Càng thương tiếc Tiểu Thanh, Nguyễn Du càng tự nhìn nhận về bản thân mình:
“Bất tri tam bách dư niên hậu, .
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng ?)
Nhà thơ lo lắng cho tương lai của mình trước sự thay đổi của thời gian. Một ngày nào đó, Nguyễn Du cũng sẽ ra đi, nhưng liệu có ai nhớ đến Tố Như không? Câu hỏi này là một biểu hiện của sự trăn trở về số phận cá nhân.
Qua bài thơ, ta thấy được sự thấu hiểu và tình cảm chia sẻ của Nguyễn Du đối với những người tài hoa, bạc mệnh, cũng như sự lo lắng về tương lai của chính mình.


4. Phân Tích 'Độc Tiểu Thanh Ký' - Phần 5
Nguyễn Du, một tên tuổi lừng danh trong văn học Việt Nam. Truyện Kiều là tác phẩm nổi tiếng nhất, nhưng Đọc Tiểu Thanh Kí cũng là một tác phẩm đầy ẩn ý nhân văn, không kém phần sâu sắc.
Bài thơ này lấy cảm hứng từ câu chuyện thực tế về Tiểu Thanh, một cô gái thời nhà Minh. Cô có vẻ ngoại hình xuất sắc và tài năng thi họa. Nhưng do hoàn cảnh nghèo, cô phải lấy chồng giàu có nhưng lại phải sống xa rời với lòng đố kỵ của vợ cả. Tại đây, Tiểu Thanh bày tỏ tâm tư qua những bài thơ, và cuối cùng, cô qua đời vì quá muộn phiền ở tuổi 18. Bài thơ của cô được đốt cháy hết, nhưng một số bài vẫn được giữ lại và gọi là “Phần dư tập”.
Khi đọc những dòng cuối cùng của Tiểu Thanh, Nguyễn Du thấu hiểu và diễn đạt sự thương cảm của mình qua bài thơ Đọc Tiểu Thanh Kí, như là một lời thương tiếc trước đau thương của số phận:
Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn
Nguyễn Du tài tình khi mở đầu với hai câu thơ chứa đựng nhiều nỗi cô đơn và thương cảm với hình ảnh cô gái trẻ giữa những thách thức của cuộc đời.
Tuy nhiên, tiếc thay, Tiểu Thanh không biết cách chia sẻ nỗi lòng của mình ngoại trừ làm thơ, nơi duy nhất cô có thể giãi bày tâm hồn. Nhưng cuối cùng, những tâm tư ấy cũng trở thành “mảnh giấy tàn”. Từ “thổn thức” như một xoáy sâu vào tâm can người đọc, tạo cảm giác đau đớn với số phận của Tiểu Thanh. Khi Nguyễn Du đọc lại những dòng thơ trăn trở ấy, ông cảm nhận như là hồn cô gái vẫn còn đâu đó, mặc dù đã mất:
Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương
Bằng biện pháp ẩn dụ về nhan sắc của Tiểu Thanh, Nguyễn Du dùng từ “son phấn”. Nhưng cái đẹp ấy lại bị vùi dập không thương tiếc, do xã hội phong kiến thối nát. Họ đã cướp đi tuổi thanh xuân của cô, mang đến biết bao đau thương và hờn trách. Đến những bút tích cuối cùng của cô cũng bị đốt cháy, bởi lòng đố kỵ ghen tuông của người vợ cả.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang
Không ai thấu hiểu được lý do số phận cay đắng của Tiểu Thanh, chỉ có trời mới hiểu. Đó là án đời, khi cô phải mang trên mình “tài hoa bạc mệnh”. Có tài, có sắc, nhưng không thể hưởng an vui. Khi đọc đến đây, người đọc chắc chắn sẽ phải suy ngẫm và bị ám ảnh bởi câu chuyện này.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?
Một câu hỏi đầy xót xa, ngậm ngùi. Ba trăm năm sau, những bài thơ của Tiểu Thanh vẫn khiến Nguyễn Du cảm thấy thương cảm. Nhưng liệu ba trăm năm sau có “ai khóc Tố Như chăng?”. Câu hỏi đó xoáy sâu vào tâm trí độc giả, liệu họ có nhớ những số phận tài hoa bạc mệnh đầy đau thương như vậy không?
Nhưng có lẽ Nguyễn Du may mắn hơn nhiều, vì đến thời điểm này, danh tiếng của ông vẫn nguyên vẹn, vẫn là một tượng đài bất tử trong văn học Việt Nam, nhờ những tác phẩm ông để lại.
“Đọc Tiểu Thanh Kí” là một bài thơ đậm chất thương cảm với số phận bất hạnh của những con người tài hoa nhưng lại bị đẩy vào bước đường cùng oan trái. Tác giả đã phản ánh thực trạng xã hội phong kiến tàn ác, chà đạp lên nhân phẩm và lãng quên những giá trị mà họ để lại cho thế hệ sau.


5. Phân Tích Tác Phẩm 'Độc Tiểu Thanh Kí' số 4
Nhắc đến Nguyễn Du người ta thường nghĩ ngay đến thiên cổ tình thư: Truyện Kiều của ông. Điều ấy có lí do của nó. Truyện Kiều là một thành công kiệt xuất của thơ ca tiếng Việt. Nhưng bên cạnh Đoạn Trường Tân Thanh, Nguyễn Du còn làm rất nhiều thơ chữ Hán có giá trị – cũng vò xé, cũng nhức nhối lòng người không khác gì khúc nam âm tuyệt xướng ấy.
Độc Tiểu Thanh Kí là bài thơ chữ Hán trác tuyệt, sinh hoa diệu bút của đại thi hào Nguyễn Du, được xếp trong Thanh Hiên Thi Tập. Bài thơ đã bộc lộ một cách sâu sắc cái nhìn cảm thông của tác giả trước những thân phận tài hoa mà bạc mệnh trong xã hội cũ và dường như đó còn là bức thông điệp tình thương, nỗi nhói buốt can tràng của muôn đời.
Ôi Tiểu Thanh, nàng là ai vậy? Con tạo hoá vốn yêu thương tài sắc, nàng đã biết thế hay chưa? Người khôn thì hay gặp gian truân, chuyện đời khéo làm trò quanh quẩn. Chuyện của đời nàng sao nhiều uẩn khúc phải chăng cũng là chuyện của bao người tài tình chi lắm cho trời đất ghen trong xã hội phong kiến kéo đài hàng mấy trăm, mấy nghìn năm xưa. Xã hội ấy đâu có dung nổi những người tài sắc, đa cảm khiến những người như Đỗ Thập Nương phải làm kĩ nữ, những Thuý kiều phải bán mình.
Truân chuyên lận đận… hay những Lâm Đại Ngọc của Tào Tuyết Cần – than ôi cái đẹp thì mong manh và yểu mệnh, tài sắc thì dễ bị dập vùi. Chắc nàng Tiểu Thanh phải có nét mặt sầu rầu như Bao tự. Nàng sống vào đầu đời Minh – Tức là từ năm 1368 đến năm 1644. Nàng là người tài sắc, có chồng nhưng hẩm hiu thay chỉ là vợ lẽ. Tài sắc của nàng, bị vợ cả ghen tuông đọa đày cho hả dạ. Nàng bị bắt phải sống một mình trên núi Cô Sơn cạnh Tây Hồ, chẳng bao lâu đau buồn mà chết, bấy giờ mới mười tám tuổi.
Nửa chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương, câu thơ viết về Đạm Tiên ấy không chỉ vận vào nàng Kiều mà còn là chuyện của những người con gái có tài sắc mà bị ghen ghét, đến nỗi văn chương cũng bị vạ lây như nàng Tiểu Thanh nước Trung Hoa. Khi Tiểu Thanh còn sống, nàng làm rất nhiều thơ bộc bạch những lởi gan ruột – chắc thơ cũng như người, hay nhưng thấm đẫm nỗi buồn, uất hận – nhưng khi nàng chết người vợ cả chưa tắt lửa hờn ghen nên tìm lục đất thơ nàng hòng xoá sạch dấu vết.
Sau khi nàng vĩnh viễn không còn làm thơ trên cõi trần này nữa, nhiều người thương tiếc bới trong đống tro tàn chỉ còn sót lại vài bài làm thành một tập thơ mà người đời gọi là phần dư cảo.
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh củng là lời chung
(Truyện Kiều)
Phải chăng đó là giọt nước mắt xót thương của thi nhân nhỏ xuống số phận bi thảm của Đạm Tiên, của Kiều, của Long Thành cầm giả ca, của Ngô Gia đệ cựu ca cơ và bây giờ là Tiểu Thanh? Giọt nước mắt ấy là giọt nước mắt của mối đồng cảm đặc biệt mang những nỗi ám ảnh, ngậm ngùi về thân phận con người. Bài thơ thất ngôn bát cú xinh xắn Độc Tiểu Thanh ký đã bộc lộ những cảm xúc rất trần gian, rất con người tức là Tất nhân văn của một nhà thơ lớn Việt Nam sau khi đọc phần dư cảo ấy.
Bài thơ là cả một biển trời tình thương và nếu muốn lấy dẫn chứng về cách viết thơ hàm súc dư ba thì không thể không coi bài thơ này là một mẫu mực. Đọc xong bài thơ rồi, cảm xúc trong lòng ta như vẫn con vang ngân, khắc khoải, day dứt. Sống ở trên đời có được thứ tình cảm cao thượng ấy thật quý vậy thay!
Từ đầu đời Minh, cái lúc nàng tiểu Thanh sống và chết, cái lúc nàng quằn quại trong cái ghen kiểu Hoạn Thư tàn nhẫn đến lúc này, Nguyễn Du không phải đứng trước mộ nàng mà chỉ viếng nàng qua một tập sách đọc trước cửa sổ. Theo nghiên cứu của nhà phê bình Tương Chính, khi đi sứ ở Trung Quốc năm 1838, Nguyễn Du không vượt sông Trường Giang, không đến Tây Hồ nơi có núi Cô Sơn, mộ nàng Tiểu Thanh, mà xuôi thuyền theo dòng Trường Giang về Võ Xương – khi Nguyễn Du viếng di chỉ của một người mệnh bạc, thời gian đã hơn ba trăm năm.
Ba trăm năm thật quá đủ để một người bị lãng quên, đủ để nương dâu thành bãi biển. Nhưng đối với cả hai con người ấy lại khác, họ có mối đồng bệnh tương lân. Một người con gái như Tiểu Thanh lẽ nào lại không lưu lại trong lòng hậu thế những nỗi day dứt dằn vặt khổ đau? Một người có trái tim lớn như Nguyễn Du lẽ nào lại dửng dưng, thờ ơ trước lời xưa của một hồn đau vọng về? Và Nguyễn Du đã viết Độc Tiểu Thanh ký với tất cả tấm lòng. Phải trên hết là tấm lòng, sau đó mới là dụng công nghệ thuật. Bởi lấy tấm lòng để hiểu tấm lòng, mới thấu được những lòng đau. Mở đầu bài thơ Nguyễn Du viết:
Tây Hồ hoa uyển tận thành thư
Độc điếu song tiền nhất chi thư.
Dich giả Vũ Tam Tâp dịch là:
Hồ Tây cảnh đẹp hoá gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí đã cho thấy tấm lòng nhân hậu, cảm thông của Nguyễn Du mênh mông sâu nặng biết nhường nào. Nếu Thuý Kiều đến với Đạm Tiên trước nấm đất sét sè sè bên đường, thì ở bài thơ này, nhà thơ đến với Tiểu Thanh đáng thương trước hái di vật: cái gò hoang tức núi Cô Sơn, nơi trước đây nàng bị vợ cả hắt hủi và mảnh giấy tàn tức những bài thơ não nùng tâm can sót lại. Từ hai di vật này, Nguyễn Du đã phi lộ và tạo cho mình nguồn cảm hứng sâu xa. Xưa viếng Đạm Tiên, nay viếng Tiểu Thanh – cùng một lứa bên trời thân cận Mộng Liên Đường chủ nhân đã nói đúng:
Trong trời đất đã có người tài tình tuyệt thế, tất thế nào cũng có việc khảm kha bất bình. Tài mà không được gặp gỡ, tình mà không được hả hê, đó là cái căn nguyên của hai chữ đoạn trường vậy. Tài thơ của Tiểu Thanh thời ấy có ai biết đến, có ai ngưỡng mộ ngợi khen, hay phải chịu lụi tàn bởi ngọn lửa bất nhân tình: tình của Tiểu Thanh thời ấy, có được đền đáp trọn vẹn hay không, hay là phải gánh chịu cái ghen ngút trời. Cái căn nguyên ấy thật xót xa. Hồ Tây đẹp là như vậy, giờ Tiểu Thanh chết rồi, bên cạnh mồ của nàng, núi Cô Sơn trở nên lạnh lẽo, hoang vắng và tàn tro.
Cảnh đẹp thì lộng lẫy, sinh động, cổ sức sống, nay trở thành gò hoang tức là cùng với con người chôn sâu vào huyệt lộ – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Thế là cuộc sống đã đến hồi tàn tạ, thảm khốc, héo hon, trớ trêu và nghịch cảnh. Thế đấy, sự thay đổi vẫn diễn ra trong cuộc sống, cái gì rồi cũng lụi tàn cùng với bụi thời gian sắc úa màu phai Đọc di cảo của Tiểu Thanh, nhà thơ càng nhận ra cái quy luật biến thiên ấy của đời sống. Nhà thơ trước đó đã nhận ra cái quy luật phũ phàng ấy rồi, từ sự chiêm nghiệm của chính bản thân và đời mình, bởi vậy mà tác giả đã viết một cách đầy thương tâm:
Trải qua một cuộc bể dâu,
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng.
Ba trăm năm sau, cùng với biết bao dâu bể, tất cả những gì gợi nhớ về con người ấy hầu như bị huỷ diệt tàn phá. Đến hôm nay con người tài sắc một thời ấy chỉ lại có một tập thơ nhỏ. Nguyễn Du chỉ còn được biết về nàng, được viếng hồn nàng, thổn thức tỏ lòng thương cảm vô bờ qua việc đọc tập thơ trước cửa sổ. Trong những câu thơ vào đề, Nguyễn Du đã tỏ rõ tấm lòng đồng cảm của minh về một đời người, về cả cuộc đời chung. Cho nên nói về Tiểu Thanh kí thật ra là Nguyễn Du nói về Tiểu Thanh, nói về con người chứ không phải nói về nghệ thuật, hai câu thực, nhà thơ tiếp tục suy tưởng, thổn thức về thân phận và tài hoa của nàng Tiểu Thanh:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh luỵ phần dư.
Nói đến son phấn là nói đến nhan sắc nói văn chương là nói đến cái tài. Son phấn thì làm gì có thần nhưng Nguyễn Du đã tạo hồn, tạo thần cho nó để rồi cũng biết hận biết đau nỗi đau bị vùi dập. Nói son phấn có thần hẳn Nguyễn Du muốn nói đến giá trị cao quý, bất tử của nhan sắc người đẹp. Phải, nhan sắc – cái đẹp chính là giá trị quý báu của cuộc sống, nó có sức sống bất tử vì thế mà ba trăm năm sau cho dù hoa uyển có tàn tạ, hồ Tây có hoang phế, núi Cô Sơn có trở thành gò đống xấu xí thì nhan sắc của Tiểu Thanh vẫn không bị lãng quên, ít nhất là nó gây niềm thương cảm ngậm ngùi trong lòng người.
Chi phấn hữu thần riêng một ý thơ này đủ để khẳng định con người nhân đạo chủ nghĩa đáng quý trong tâm hồn, trái tim Nguyễn Du. Trong xã hội phong kiến với hệ tư tưởng phong kiến, mấy ai dám nghĩ như vậy về chi phấn, về vẻ đẹp của người phụ nữ. Son phấn là sắc đẹp giai nhân. Còn văn chương là nói đến văn tài. Sắc tài là vậy nhưng làm sao tránh khỏi tài mệnh tương đối, tạo hoá trêu ngươi, thậm chí chính tài sắc lại là nguyên nhân của tai hoạ. Cho nên con người bị vùi dập, chà đạp một cách tàn nhẫn:
Có tài mà cậy chi tài
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Văn chương là vật vô tri, làm gì có số mệnh, định mệnh. Ấy vậy mà đối với Nguyễn Du văn chương cũng có mệnh, cũng biết vương vấn, cũng biết luỵ trước nhưng nỗi oan khuất của kẻ tài hoa. Vợ cả đốt thơ Tiểu Thanh. Thế là văn chương cũng cùng với con người bị nguyền rủa, bị căm thù, bị tàn phá, tiêu huỷ. Vậy thì văn chương cũng hữu mệnh như con người – thật là một buổi chiều thu tê tái – buổi chiều của xã hội phong kiến ở Việt Nam, ở Trung Quốc phản ánh trong tâm hồn Nguyễn Du khi tất cả những cái gì đẹp đẽ cao khiết đều bị dập vùi.
Hai câu thực đã khẳng định lòng cảm thương sâu sắc và nỗi oán hận, nỗi uất ức của ông đối với thời đại. Bản chất ấy là bản chất nghệ sĩ nhưng không phải là nghệ sĩ nào cũng có được. Son phấn có thần chôn vẫn hận – Văn chương không mệnh đốt còn vương – một ý nghĩ như thế thật là táo bạo, ngay cả đến thời đại chúng ta. Hai câu luận tiếp tục khai triển niềm thương cảm của Nguyễn Du đối với thân phận bé nhỏ của con người. Một câu hỏi khắc khoải, quan hoài vang lên đầy xót xa:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Vẫn là cái hờn, cái hận của Tiểu Thanh nhưng đã nằm trong cái hận của muôn đời, muôn người – một cái hận triền miên dài đến nghìn năm day dứt mãi khôn nguôi. Cái nỗi đau nhân tình thế thái, cái nỗi hận cổ kim từ xưa đến nay ấy thật khó mà hỏi trời. Trời thăm thẳm, trời cao xa quá, tận trên chín tầng mây làm sao hỏi được đây. Nhà thơ đã từ cái hận của muôn đời mà thấu hiểu cái hận của Tiểu Thanh, đã dồn cái hận cửa cổ kim vào cái hận của nàng bởi thế cái hận trở nên có sức mạnh, có sức lay động lòng người.
Và không hỏi được, không lí giải được lại càng thêm hận khiến cái hận trở nên thấm thía. Với những thanh trắc (cổ, hận, sự,vấn), Nguyễn Du đã diễn tả một cách đầy bi phẫn nỗi đau của những con người tài hoa bạc mệnh. Tác giả đau đớn, căm giận trước sự thất bại của cái đẹp, cái thiện, trước sự thắng thế của cái ác và do đó lời thơ đã tố cáo mạnh mẽ cải chế độ phong kiến hà khắc với những khuôn phép bất nhân (chữ dùng của Xuân Diệu) chà đạp con người, đặc biệt là con người tài sắc, yếu đuối. Phong vận kỳ oan ngã tự cư – cái án phong lưu khách tự mang.
Cái án phong lưu là án gì? Phải chăng đó là cái án của con người tài sắc. Là con người tài sắc mà phải chịu cái án ấy – cái án bị đọa đầy, bị hắt hủi, bị hành hạ cho đến chết thì thật thương tâm. Khách ở đây là ai? Sao cái án ấy khách lại tự mang vào mình? Khách tự mang là do lòng cảm cựu ai xui thương mướn hay là do một nguyên do nào khác. Không, đó là cách tự vận vào mình một cách cáo cả đó là cái thông luỵ của bọn tài tử trong gầm trời và suốt cả xưa nay vậy.
Nguyễn Du cũng là một trong những người cố tình hữu ái nhất phiến tài tình tiên cổ luỵ bởi đó tự coi mình là đồng hội đồng thuyền với kẻ mang nỗi oan lạ lùng vì nết phong nhã. Nhà thơ thông cảm với Tiểu Thanh, bênh vực Tiểu Thanh, uất ức mà khóc cho Tiểu Thanh. Đau đớn trước nỗi oan lạ kì của Tiểu Thanh, xót xa trước sự quên lảng của người đời, Nguyễn Du khóc cho Tiểu Thanh một người con gái hồng nhan đa truân của hơn ba trăm năm về trước và đặt câu hỏi lớn cho ba trăm năm sau:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khốc Tố Như chăng?)
Hai câu kết, Nguyễn Du chuyển mách cảm xúc khóc mình, ấy vậy mà không hề lạc điệu, rời rạc mà vẫn phù hợp, vẫn đảm bảo bài thơ là một chỉnh thể. Từ sự xót thương kiếp tài hoa mệnh bạc của Tiểu Thanh, từ tâm sự cùng hội cùng thuyền tự đặt mình vào nỗi oan khiên đó, tác giả liên hệ đến bản thân mình, nghĩ đến thân phận mình cũng giếng nàng cho nên nối người hoá ra nói mình, thương người hoá ra tự thương mình và băn khoăn không biết sau này ba trăm năm lẻ nữa có ai còn nhớ đến mình, khóc cho mình như khóc cho Tiểu Thanh không? Vì thế khóc cho người rồi khóc cho mình là phù hợp với mạch cảm xúc của Nguyễn Du. Ba trăm năm không hoàn toàn là một con số chuẩn xác.
Hai câu kết đã hé mở một thế giới riêng của một con người mà từ trước ta ít để ý: Đó là con người Tố Như với những băn khoăn, trăn trở, riêng tây. Nguyễn Du không hề nói đến Tố Như, bỗng nhiên nhân câu chuyện Tiểu Thanh, lại tự hỏi một câu vớ vẩn… Một tấm lòng vẫn dấu che, bỗng lộ trong một phút giây, chệch nhẹ bức mành, mà ta trông được cả một thế giới còn chưa nói.
Dường như Nguyễn Du muốn đưa ra một lời dự cảm, một lời tiên tri: Hơn ba trăm năm sau chắc còn có người khóc mình cố nghĩa là phải khóc thương cho số phận chịu nhiều đau khổ, nhân loại vẫn còn những con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Đó là một nỗi buồn sâu lắng về cuộc đời cũng là một triết lý sâu sắc về thuyết tài mệnh tương đồ. Ông thương cho người xưa, thương cho chính mình và thương cho cả người sau phải khóc mình nữa. Con mắt trông thấy sáu cõi, hay tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du là như vậy đó.
Bài thơ Độc Tiểu Thanh kí đã cho thấy tấm lòng nhân hậu, cảm thông của Nguyễn Du mênh mông sâu nặng biết nhường nào. Ông có tình thương bao la với những kiếp người tài hoa, bạc mệnh dù là người Việt Nam hay Trung Quốc. Rồi ông lại tự vận vào mình cái án phong lưu để mà tự đau, tự thương cho mình bơ vơ, không tri âm, tri kỷ trước cõi đời. Trong văn chương thời trung đại, quan niệm vô ngã, phi ngã chi phối dễ gì có nhiều người biết thương mình, thương một cách cực độ như Nguyễn Du. Nguyễn Du luôn sống mãi trong lòng người với tinh thần nhân đạo cao cả, xứng đáng là nhà nhân đạo lớn.


6. Phân tích 'Độc Tiểu Thanh Kí' - Bài văn số 7


7. Phân tích 'Độc Tiểu Thanh kí' số 6
Bài thơ 'Độc Tiểu Thanh kí' của Nguyễn Du là một tác phẩm vô cùng đặc sắc, với tâm huyết tràn đầy từ đại thi hào. Trong những câu thơ chữ Hán, ông diễn đạt một cách tinh tế sự đau đớn và thương tiếc trước số phận đầy đau thương của người phụ nữ tài sắc bạc mệnh. Nét đẹp của bài thơ không chỉ là ở ngôn ngữ trang trọng mà còn ẩn sau đó là tình cảm sâu sắc của Nguyễn Du đối với nhân sinh và tài năng tàn bạo của thời đại.


8. Phân tích tác phẩm 'Độc Tiểu Thanh kí' số 9
Nguyễn Du, đại thi hào vĩ đại của dân tộc, là biểu tượng văn hóa toàn cầu và nhà thơ xuất sắc trong nền thơ ca cách mạng Việt Nam. Tác phẩm của ông, đặc biệt là bài thơ 'Độc Tiểu Thanh kí', là những kiệt tác cổ điển và mẫu mực.
Tiểu Thanh, nguồn cảm hứng cho bài thơ, là hình ảnh của một người con gái tài năng và bạc mệnh sống trong xã hội phong kiến Trung Quốc thời đầu đời Minh. Bị ghen ghét, cô sống cô đơn trên Cô Sơn, cạnh Tây Hồ, và kết thúc cuộc đời buồn tủi khi mới 18 tuổi. Nguyễn Du viết bài thơ này để thể hiện lòng thương cảm sâu sắc đối với số phận đau buồn của người phụ nữ tài hoa bị đẩy vào cảnh đơn độc và bạc mệnh.
Bài thơ mở đầu với hai câu đề thể hiện niềm tiếc thương của Nguyễn Du:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)
Câu thơ không chỉ miêu tả cảnh đẹp của Tây Hồ mà còn chứa đựng ý nghĩa sâu sắc về sự biến đổi trong cuộc sống. Cô đơn dưới gò hoang, Tiểu Thanh được biểu hiện qua từ ngữ 'độc điếu'. Hai hình ảnh của 'gò hoang' và 'mảnh giấy tàn' làm cho người đọc cảm nhận được sự thổn thức và buồn tủi.
Nhà thơ tiếp tục thể hiện tâm trạng xót xa với hai câu thơ:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)
Bằng hình ảnh của 'son phấn' và 'văn chương', Nguyễn Du nhắc đến Tiểu Thanh. Nhan sắc của nàng bị vùi dập, và tài năng cũng bị chôn vùi. 'Hận' vì sự ghen tuông vô lý của vợ cả đã đẩy nàng vào cái chết khi mới 18 tuổi. Bài thơ là sự phản ánh về bất công trong xã hội phong kiến đối với những người tài hoa như Tiểu Thanh.
Nguyễn Du thể hiện niềm hối tiếc với cuộc sống của những người tài sắc vẹn toàn trong hai câu thơ:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)
Nỗi oan ức của Tiểu Thanh không chỉ là của riêng nàng mà là của những người tài hoa từ thời cổ đến kim cổ. Bài thơ làm nổi bật tình cảnh đau đớn của họ, nơi họ có tài có sắc nhưng không được hưởng cuộc sống hạnh phúc và an yên. Nguyễn Du nhắc nhở về sự bất công và khó khăn của những con người này.
Bài thơ kết thúc với hai câu hỏi:
Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng)
Những dòng này đặt ra câu hỏi về tình cảm và nhớ đến những người tài hoa bị đày vào cảnh đau đớn. Nguyễn Du tỏ vẻ lo lắng liệu ba trăm năm sau, ai sẽ còn nhớ đến họ, liệu có người sẽ khóc thương cho họ hay không. Câu hỏi làm nổi bật nỗi lo lắng và tình cảm của Nguyễn Du với những người đã đi trước và sự bi quan về tương lai.
Bài thơ 'Độc Tiểu Thanh kí' không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là một cảnh báo về bất công xã hội và những đau thương của những người tài hoa bị bạc mệnh. Nguyễn Du để lại dấu ấn lâu dài trong lòng người đọc với sự nhìn nhận sâu sắc về cuộc sống và con người.


9. Phân Tích Tác Phẩm 'Độc Tiểu Thanh Ký' Số 8
Nguyễn Du, danh nhân văn hóa, là đại thi hào dân tộc Việt Nam. Ông để lại dấu ấn vĩ đại trong nền văn hóa với những tác phẩm như Truyện Kiều và Độc Tiểu Thanh Ký. Bài thơ Độc Tiểu Thanh Ký thể hiện lòng nhân ái của ông đối với số phận bi thảm của nàng Tiểu Thanh, một người phụ nữ tài sắc gặp nhiều bất hạnh trong cuộc đời. Cuộc sống nàng được diễn đạt qua những dòng thơ sâu lắng:
Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chí thư.
Nguyễn Du mô tả cảnh đẹp của Tây Hồ ngày xưa, nơi gặp gỡ của Tiểu Thanh và biến đổi đau thương sau này. 'Độc điếu' biểu hiện sự cô đơn của Tiểu Thanh và 'nhất chỉ thư' là tài phẩm duy nhất còn lại của nàng, là niềm than vãn của một cuộc đời không công bằng.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Nguyễn Du dùng hình ảnh 'son phấn' và 'văn chương' để diễn đạt sự đau đớn và tàn phế của nàng Tiểu Thanh. Những dòng thơ này là lời thương cảm, xót xa cho số phận không công bằng của người phụ nữ tài năng.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Nguyễn Du cảm thấy nỗi oan trái tim của những con người tài sắc bị đẩy vào hoàn cảnh khó khăn, không công bằng. 'Cổ kim hận' là âm thanh của nỗi oan trái tim, và 'phong vận kỳ oan' là sự bất công trong số phận.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Nguyễn Du tự đặt câu hỏi liệu sau này có ai nhớ đến ông như ông nhớ đến Tiểu Thanh. Bài thơ là sự thể hiện của lòng đồng cảm và bất an về tương lai của một tài năng vượt thời gian.
'Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân
Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều...'
(Kính gửi cụ Nguyễn Du – Tố Hữu)
Nguyễn Du là biểu tượng văn hóa, còn nhớ đến và trân trọng tác phẩm của ông là duyên phận may mắn của người Việt Nam.


10. Phân Tích Tác Phẩm 'Độc Tiểu Thanh Kí' số 10
Vẻ đẹp và tài năng luôn là tiêu chí sống và mong muốn của con người. Tuy nhiên, đối với Nguyễn Du, ông hiểu rõ và thương cảm những người tài sắc bị đau khổ trong mọi thời đại. Điều này được thể hiện rõ qua tác phẩm Độc Tiểu Thanh Kí, miêu tả về nàng Tiểu Thanh, tài sắc vẹn toàn nhưng sống một cuộc sống đau buồn, không trọn vẹn.
Nguyễn Du, đại thi hào Việt Nam thế kỷ XVIII – XIX, đã trải qua thời kỳ khó khăn của xã hội. Sự ảnh hưởng từ gia đình và nền văn hóa quê hương giúp ông tổng hợp nghệ thuật một cách tinh tế. Thời đại khó khăn và cuộc khởi nghĩa nông dân tạo nên bối cảnh cho các sáng tác của Nguyễn Du.
Độc Tiểu Thanh Kí, một trong những tác phẩm nổi tiếng của ông, lấy cảm hứng từ Phần dư, rõ ràng mô tả về cuộc sống đau buồn, nỗi uất ức của nàng Tiểu Thanh. Số phận của cô ấy làm Nguyễn Du đồng cảm và thấu hiểu vô hạn, thể hiện qua những dòng thơ cảm động.
Thân phận của Tiểu Thanh, tài sắc vẹn toàn nhưng đầy đau thương, là điểm chính khi phân tích Độc Tiểu Thanh Kí. Cuộc đời đau khổ của nàng làm Nguyễn Du nảy sinh mối đồng cảm vô hạn và tâm huyết của ông thể hiện rõ qua những câu thơ:
“Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư”
(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)
Những dòng thơ này không chỉ là cảm xúc của Tiểu Thanh mà còn là lời bức xúc của Nguyễn Du về xã hội phong kiến tàn ác, không công bằng đối với những người tài năng. Cuối cùng, Nguyễn Du đặt ra câu hỏi thương tâm về tương lai:
“Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
(Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)
Nguyễn Du để lại những dấu ấn đau lòng về số phận bất hạnh của người phụ nữ tài sắc trong xã hội phong kiến. Bài thơ không chỉ là tác phẩm nghệ thuật, mà còn là lời kêu gọi sự nhân đạo và công bằng trong xã hội.
Người đọc không chỉ cảm nhận được nỗi đau buồn của Tiểu Thanh mà còn nhìn thấy sự thấu hiểu và đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du đối với những người tài năng bị số phận che mờ. Cuộc sống của họ giống như một bức tranh bi thương, để lại những dấu vết khó quên trong lòng độc giả.
Những câu thơ của Nguyễn Du không chỉ làm rung động trái tim người đọc mà còn là nguồn động viên và sự hiểu biết sâu sắc về nhân quả và tâm linh. Như một đường vòng xoay vần, những tác phẩm của Nguyễn Du vẫn còn sống mãi và chạm đến trái tim mỗi người.

