1. Bài viết phân tích truyện 'Cô bé bán diêm' của An-đéc-xen số 1
Truyện ngắn Cô bé bán diêm của nhà văn An-đéc-xen đã để lại những ấn tượng sâu sắc, đậm chất nhân văn. Đây không chỉ là câu chuyện về cô bé bán diêm, mà còn là hành trình tìm kiếm hạnh phúc và yêu thương giữa những khó khăn của cuộc sống.
Em bé sống trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn, mất mẹ từ nhỏ và phải chịu sự tàn nhẫn của người cha. Cô bé phải bán diêm trong đêm giá lạnh để kiếm sống. Hình ảnh ngọn lửa diêm không chỉ là nguồn sáng ấm áp mà còn là niềm hi vọng, là hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Qua từng que diêm, cô bé tưởng tượng ra những hình ảnh ấm áp, hạnh phúc. Từ lò sưởi, bàn ăn no, cây thông đến hình ảnh của bà, những ước mơ của cô bé được thể hiện qua những đêm gió lạnh buốt. Đây là câu chuyện về sự trưởng thành, lòng nhân ái và niềm tin vào điều tốt lành.
Khám phá cùng cô bé bán diêm những giây phút lạc quan giữa băng giá cuộc đời. Bài viết sẽ đưa độc giả đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, để lại trong lòng những cảm xúc khó quên.
2. Bài phân tích truyện 'Cô bé bán diêm' của An-đéc-xen số 3
An-đéc-xen, nhà văn đặc sắc với những câu chuyện trẻ thơ, tạo dấu ấn sâu sắc với những bài học ý nghĩa cho các em nhỏ. Trong số các tác phẩm của ông, Cô bé bán diêm là một câu chuyện đầy giá trị nhân văn và tâm linh.
Truyện nói về số phận đau thương của cô bé bán diêm, người từng có một gia đình hạnh phúc với bà nội yêu thương. Tuy nhiên, những mất mát đau lòng đã khiến em phải sống trong cảnh nghèo đói, bán diêm để kiếm sống.
Đêm giao thừa lạnh giá, cô bé lang thang bán diêm, không dám về nhà vì sợ bị cha đánh đập. Anh đọc giả được dẫn dắt qua những hình ảnh đau lòng: ngôi nhà hạnh phúc nay chỉ là ký ức, còn em phải đối mặt với sự lạnh lẽo và cô đơn.
Tác giả thông qua những hình ảnh này thể hiện sự đau khổ của cô bé không chỉ về vật chất mà còn về tinh thần khi bị mọi người hờ hững, trong đó có cả cha mình.
Nghệ thuật tương phản giữa hiện thực và mơ ước hiển nhiên qua việc quẹt diêm. Cô bé quẹt từ lò sưởi đến ngỗng quay, cây thông, bà, và cuối cùng là quẹt hết diêm để níu kéo người bà yêu thương. Tuy nhiên, em hiểu rằng khi diêm tắt, tất cả cũng sẽ kết thúc, nhưng em vẫn ước mình được ở bên bà mãi mãi.
Cái chết của cô bé là một cái kết bi thương, nhưng vẫn mang nét đẹp. Trong giây phút cuối cùng, cô bé vẫn giữ nụ cười, được giải thoát khỏi cuộc sống khó khăn và đến với người bà thân thương. Đây có thể coi là một cái kết bi kịch, khi hạnh phúc chỉ có ở thế giới khác, không phải ở thực tại.
Tác phẩm này không chỉ là một câu chuyện, mà còn là thông điệp sâu sắc về tình yêu thương và lòng nhân đạo. Chúng ta hãy trân trọng và yêu thương trẻ thơ để họ có một cuộc sống đầy đủ và hạnh phúc.
3. Bài văn phân tích truyện 'Cô bé bán diêm' của An-đéc-xen số 2
An-đéc-xen, tác giả danh tiếng của Đan Mạch, để lại ấn tượng sâu sắc với truyện 'Cô bé bán diêm' - một tác phẩm đầy cảm xúc và ý nghĩa. Bức tranh về cô bé bán diêm trong đêm giao thừa mang đến sự đan xen giữa hiện thực và mộng tưởng, gửi gắm đến độc giả nhiều cảm xúc và tâm huyết.
Khởi đầu với hoàn cảnh bất hạnh, cô bé đã mất mẹ sớm và bị bỏ rơi bởi người thân. Sống cùng cha trong nghèo đói, em phải bán diêm để kiếm sống. Hình ảnh cô bé với giỏ diêm lênh đênh trên đường phố, phải đối mặt với sự lạnh lùng của thời tiết và sự đánh đập của cha, khiến người đọc cảm thấy xót xa và thấu hiểu.
Trong đêm giao thừa, nơi mọi gia đình đoàn tụ, cô bé bán diêm lại bị bỏ quên, cô đơn giữa dòng người sum vầy. Trong cái lạnh buốt, đôi chân trần của em lê bước qua từng con phố, bán diêm mà không có mảnh ấm nào chờ đón. Cảm giác cô đơn và thiếu thốn được tác giả diễn đạt tinh tế qua từng dòng văn.
Chúng ta được nhìn nhận sự thiếu thốn của cô bé không chỉ về vật chất mà còn về tinh thần, khi em không nhận được sự quan tâm và yêu thương từ xã hội lạnh lùng xung quanh. Những người xung quanh không để ý, không đoái hoài đến hoàn cảnh khó khăn của cô bé, điều này khiến độc giả cảm nhận sự tàn nhẫn và vô tâm của xã hội.
Em bán diêm trong ánh đèn lạnh lẽo, quẹt từng que diêm với hy vọng nhen lên những ngọn lửa ấm áp. Tuy nhiên, ngọn lửa của những que diêm chỉ tạo ra những hình ảnh mơ hồ, nhưng lại đủ để làm đầy lòng cô bé bán diêm hy vọng. Việc em quẹt diêm với mục đích tìm kiếm niềm hạnh phúc và tình thương, qua đó tạo nên những bức tranh ý nghĩa trong tâm trí độc giả.
Bức tranh cuối cùng về cái chết của cô bé bán diêm là một điểm nhấn bi thương. Em chết giữa đám đông đông đúc nhưng không ai để ý, thậm chí là không ai quan tâm. Cô bé rời bỏ thế giới này mà không hề được chú ý, đưa người đọc suy nghĩ về sự lạnh lùng và vô tâm của xã hội đối với những số phận kém may mắn.
'Cô bé bán diêm' không chỉ là một câu chuyện truyền cảm hứng, mà còn là thông điệp về lòng nhân ái và trách nhiệm xã hội. Đồng lòng chúng ta cần quan tâm và giúp đỡ những người yếu đuối, để không còn ai phải chịu đựng cảm giác cô đơn và thiếu thốn trong thế giới lạnh lùng này.
4. Phân tích 'Cô bé bán diêm' của An-đéc-xen số 5
Truyện cô bé bán diêm của An-đéc-xen đã gợi cho em một nỗi cảm thương đến xót xa trước cảnh ngộ nghèo khổ, khốn cùng và cái chết vô cùng thương tâm của cô bé. Cô bé đã cạn kiệt về vật chất và bị tổn thương nặng nề về tinh thần. Trong cuộc đời này còn có gì đau đớn hơn khi là một cô bé bị bỏ rơi, cô đơn, lẻ loi giữa trời. Cô bé bán diêm là truyện đặc sắc dành cho thiếu nhi, gây xúc động người đọc.
Thời điểm xảy ra câu chuyện khá đặc biệt: Đêm giao thừa, mọi người sum họp dưới mái ấm gia đình để cùng nhau tiễn đưa năm cũ và đón chào năm mới trong không khí thiêng liêng, ngập tràn hạnh phúc. Riêng cô bé mồ côi mẹ, đầu trần, chân đất, váy áo phong phanh, bụng đói meo đang dò dẫm trong bóng tối. Suốt ngày hôm nay, cô bé lang thang khắp nơi mà không bán được bao diêm nào.
Đêm Noel, quang cảnh xung quanh đẹp đẽ, ấm áp lạ thường: cửa sổ mọi nhà đều sáng rực đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Những hình ảnh ấy gợi cô bé nhớ lại năm xưa được đón giao thừa bên bà nội hiền hậu trong căn nhà xinh xắn có đầy dây thường xuân bao quanh.
Tác giả đã sử dụng những hình ảnh tương phản làm nổi bật tình cảnh hết sức tội nghiệp của cô bé. Em đang rét có lẽ càng rét hơn khi thấy mọi nhà rực sáng ánh đèn. Em đang đói, có lẽ càng đói hơn khi ngửi thấy mùi ngỗng quay sực nức. Chẳng có điều gì tốt đẹp chờ đợi cô bé ngoài cái xó xỉnh tối tăm, rét mướt đầy tiếng mắng nhiếc, chửi rủa của người cha thô lỗ, cộc cằn.
Những lần đón giao thừa năm xưa vui vẻ cùng bà và cha mẹ giờ đây đã lùi vào dĩ vãng. Tai họa đã làm cho gia đình cô bé tan nát. Mẹ mất, bà nội cũng qua đời, em không còn được ai yêu thương, ấp ủ. Em đi lang thang trong đêm giao thừa... giữa trời đông gió rét... rét dữ dội .. Bông tuyết bám đầy trên mái tóc dài xõa thành từng búp trên lưng em, gia đình nghèo, mẹ mất, người cha nghèo đói và tàn nhẫn.
Em phải bán diêm để kiếm sống, nếu không bán được bao diêm hay không ai bố thí cho một đồng xu nào, đêm về nhất định là cha em sẽ đánh em. Cho nên cô bé ngồi nép trong một góc tường giữa hai ngôi nhà... cho đỡ lạnh. Không bán được diêm, sợ cha đánh nên em chẳng dám về nhà. Vả lại ở nhà cũng đói, cũng rét như ở đây thôi: Cha con em ở trên gác sát mái nhà và mặc dầu đã nhét giẻ rách vào các khe hở lớn trên vách, gió vẫn thổi rít vào trong nhà.
Giữa đêm giao thừa giá buốt, cô bé lủi thủi một mình với chiếc giỏ đựng diêm. Lúc em nép vào một góc tường để tránh cơn gió bấc rét thấu xương cũng là lúc những khao khát cháy bỏng bùng lên trong trái tim nhỏ bé. Đôi bàn tay em cứng đờ vì lạnh, em ao ước được sưởi ấm bằng một que diêm: Chà! Giá quẹt một que diêm mà sưởi cho đỡ rét một chút nhỉ? Giá em có thể rút một que diêm ra quẹt vào tường mà hơ ngón tay nhỉ?
Cuối cùng em đánh liều quẹt một que. Diêm bén lửa thật là nhạy. Ngọn lửa lúc đầu xanh lam, dần dần biến đi, trắng ra, rực hồng lên quanh que gỗ, sáng chói trông đến vui mắt. Những hình ảnh tả cảnh đói rét lang thang của cô bé tương phản với cảnh no đủ, ấm cúng của mọi người, cửa sổ mọi nhà đều sáng rực ánh đèn và trong phố sực nức mùi ngỗng quay. Trước cảnh ngộ nghèo khổ, cơ cực của cô bé, lòng tôi như đau thắt lại. Có lẽ nào ta lại không cảm thấy xót xa khi nghĩ về hình ảnh cô bé một mình bơ vơ, giữa một không gian mênh mông trong đêm tối, rét cắt da, cắt thịt.
Trong khi mọi người được sum vầy vui vẻ trong các căn nhà ấm áp, bên lò sưởi kia, thi em bé phải một mình đi bán những bao diêm, em chẳng được ai quan tâm để ý. Cảnh ngộ đó của cô bé càng làm đau đớn tim ta hơn, vì nó lại xảy ra trong đêm giao thừa, khi tất cả niềm vui và sự đầy đủ ùa vào những căn nhà ấm cúng.
Các mộng tưởng của em bé qua các lần quẹt diêm (mơ lò sưởi, bàn ăn, cây thông Nô-en, người bà, hai bà cháu bay đi) lần lượt diễn ra thật hợp lí, hợp với những điều khao khát của em: được sưởi ấm, được ăn ngon, được đi chơi, được thương yêu, chấm dứt mọi lo lắng, buồn khổ.
Quẹt que diêm thứ nhất: Em tưởng chừng như đang ngồi trước lò sưởi bằng sắt... tỏa ra hơi nóng dịu dàng. Ngọn lửa chắp cánh cho trí tưởng tượng của em bay bổng: Em hơ đôi tay trên que diêm sáng rực như than hồng. Chà! Ánh sáng kì dị làm sao! Em tưởng chừng như đang ngồi trước một lò sưởi bằng sắt có những hình nổi bằng đồng bóng nhoáng.
Trong lò, lửa cháy nom đến vui mắt và tỏa ra hơi nóng dịu dàng. Thật là dễ chịu! Đôi bàn tay em hơ trên ngọn lửa; bên tay cầm diêm, ngón cái nóng bỏng lên. Chà! Khi tuyết phủ kín mặt đất, gió bấc thổi vun vút mà được ngồi hàng giờ như thế, trong đêm đông rét buốt, trước một lò sưởi, thì khoái biết bao!.
Thực tế và mộng tưởng xen kẽ với nhau. Trong ánh lửa bập bùng của que diêm, những hình ảnh của cuộc sống đầy đủ hiện ra rõ ràng trong đầu óc cô bé. Mải mê tưởng tượng nên que diêm cháy gần bén ngón tay mà em không thấy nóng. Em ao ước lúc này mà được ngồi trước lò sưởi để hơ đôi bàn tay đã cứng đơ vì lạnh thì sung sướng biết bao! Que diêm cháy hết, cô bé lại trơ về với hiện thực phũ phàng: Em vừa duỗi chân ra sưởi thì lửa vụt tắt, lò sưởi biến mất.
Em ngồi đó, tay cầm que diêm đã tàn hẳn. Em bần thần cả người và chợt nghĩ ra rằng cha em đã giao cho em đi bán diêm. Đêm nay về nhà thế nào cũng bị cha mắng. Quẹt que thứ hai: Bàn ăn đã dọn... và có cả một con ngỗng quay. Em quẹt que diêm thứ hai, diêm cháy và sáng rực lên. Bức tường như biến thành một tấm rèm bằng vải màu. Em nhìn thấu vào tận trong nhà.
Bàn ăn đã dọn, khăn trải bàn trắng tinh, trên bàn toàn bát đĩa bằng sứ quý giá, và có cả một con ngỗng quay. Nhưng điều ki diệu nhất là ngỗng ta nhảy ra khỏi đĩa và mang cả dao ăn, phuốc-sét, cắm trên lưng, tiến về phía em bé. Rồi... que diêm vụt tắt; trước mặt em chỉ còn là những bức tường dày đặc và lạnh lẽo. Đáng buồn thay!
Những ảo ảnh đó chỉ hiện lên trong chốc lát. Lửa tắt, vây quanh em vẫn là bóng tối mịt mùng, là cái lạnh thấu xương, cái đói rã rời và đáng sợ hơn cả là nỗi cô đơn không ai chia sẻ: Thực tế đã thay thế cho mộng tưởng; chẳng có bàn ăn thịnh soạn nào cả, mà chỉ có phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng xóa, gió bấc vi vu và mấy người khách qua đường quần áo ấm áp vội vã đi đến những nơi hẹn hò, hoàn toàn lãnh đạm với cảnh nghèo khổ của cô bé bán diêm.
Quẹt que diêm thứ ba: Em thấy hiện ra một cây thông Nô-en... hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi... Trí tưởng tượng phong phú đã đem lại cho em những ao ước mới: em muốn đêm Giáng Sinh phải có cây thông Nô-en. Nên quyết định quẹt que diêm thứ ba: Em quẹt que diêm thứ ba. Bỗng em thấy hiện ra một cây thông Nô-en.
Cây này lớn và trang trí lộng lẫy hơn cây mà em được thấy năm ngoái qua cửa kính một nhà buôn giàu có. Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và rất nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như những bức bày trong các tủ hàng, hiện ra trước mắt em bé. Nhưng rồi diêm tắt. Tất cả các ngọn nến bay lên, bay lên mãi rồi biến thành những ngôi sao trên trời.
Xung quanh em vẫn là hai bức tường và đêm tối rồi em nghĩ tới bà em vì bà em, người hiền hậu độc nhất đối với em, đã chết từ lâu, trước đây thường nói rằng: “Khi có một vì sao đổi ngôi là có một linh hồn bay lên trời với Thượng đế”. Quẹt que diêm thứ tư: Em nhìn thấy rõ ràng là bà em đang mỉm cười với em. Em quẹt que diêm nữa vào tường, một ánh sáng xanh tỏa ra xung quanh và em bé nhìn thấy rõ ràng bà em đang mỉm cười với em.
Bà ơi! Em bé reo lên, cho cháu đi với! Cháu biết rằng diêm tắt thì bà cũng biến đi mất nhự lò sưởi, ngỗng quay và cây Nô-en ban nãy, nhưng xin bà đừng bỏ cháu ở nơi này. Trước kia khi bà chưa về với Thượng đế chí nhân, bà cháu ta đã từng sung sướng biết bao! Dạo ấy bà đã từng nhủ cháu rằng nếu cháu ngoan ngoãn, cháu sẽ được gặp lại bà, bà ơi!
Cháu van bà, bà xin Thượng đế chí nhân cho cháu về với bà. Chắc Người không từ chối đâu. Quẹt tất cả nhũng que diêm còn lại: Em thấy hai bà cháu bay vụt lên cao, cao mãi... Chính lúc đó cô bé đầu trần, chân đi đất, run rẩy vì lạnh và đói. Sự đầm ấm của các gia đình hiện ra qua khung cửa sổ kia càng làm chúng ta xót xa cho cô bé khốn khổ tội nghiệp, không có lấy một chút hạnh phúc nào trong đêm giao thừa.
Nhất là hình ảnh cô bé chỉ biết ngồi thu chân vào hốc tường mà hồi tưởng, mà ước mơ. Một que diêm bật sáng lên là cuộc sống quá khứ lại hiện về. Đó là những ngày sống vui vẻ, tràn đầy hạnh phúc bên bà nội hiền từ, nhàn hậu như một bà tiên, trong ngôi nhà nhỏ xinh xắn có dây thường xuân bao quanh. Nhung que diêm tắt là một thực tại vô cùng nghiệt ngã, phũ phàng lại ập đến.
Em đang phải sống trong trăm đường cơ cực, khổ sở. Cả ngày phải đi bán diêm, nêu không bán được, đến tối về lại bị bố đánh đập. Và trong đêm giao thừa rét căm căm này em không dám về vì chẳng bán được một que diêm nào. Các mộng tưởng của em bé diễn ra lần lượt theo thứ tự như trên rất hợp lí.
Vì trời rất rét nên trước hết em mơ tưởng đến lò sưởi; tiếp đó vì đang đói em mơ tưởng đến bàn ăn đầy thức ăn ngon mà sau các bức tường kia, mọi nhà đang đón giao thừa; vì là đêm giao thừa nên ngay sau đó “cây thông Nô-en” hiện ra; đến đây tất nhiên gợi cho em nhớ đến đã có một thời em cũng được đón giao thừa như thế, khi bà em còn sống và hình ảnh bà em xuất hiện.
Kết thúc câu chuyện là sự đối lập giữa cảnh đời vui vẻ và cái chết bi thảm của em bé bán diêm: Sáng hôm sau, tuyết vẫn phủ kín mặt đất, nhưng mặt trời lên, trong sáng, chói chang trên bầu trời xanh nhợt. Mọi người vui vẻ ra khỏi nhà. Trong buổi sáng lạnh lẽo ấy, ở một xó tường, người ta thấy một em bé gái có đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười. Em đã chết vì giá rét trong đêm giao thừa.
Ngày mồng một đầu năm hiện lên trên thi thể em bé ngồi giữa những bao diêm, trong đó có một bao đã đốt hết nhẵn. Mọi người bảo nhau: “Chắc nó muốn sưởi cho ấm!”, nhưng chẳng ai biết những cái kì diệu em đã trông thấy, nhất là cảnh huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón những niềm vui đầu năm. Ngay cả những ước mơ nhỏ bé của em mà cũng chỉ thấy được qua mộng ảo.
Mỗi một que diêm sáng lên sáng lên ước mơ ở đây không phải là ánh sáng của một cây đèn hay của một nguồn ánh sáng gì to lớn. Nó chỉ là một ánh lửa diêm nhỏ bé, dễ dàng tắt lụi trong đêm băng tuyết. Bởi vậy mỗi que diêm bật lên sao có thể sưởi ấm được tấm thân và tâm hồn đã đông lạnh của cô bé. Nó chẳng qua chỉ là chỗ bấu víu cực kì mong manh của cô bé mà thôi.
Em bé quẹt cả số diêm còn lại chính là để cố bám lấy những ước mơ đó. Trong khi chúng ta có đầy đủ những thứ đó thì cô bé bán diêm của An-đéc-xen lại thiếu tất cả. Ngay cả giấc mơ đẹp nhất em cũng chỉ được thấy khi đã hấp hối. Những mộng tưởng của em bé qua các lần quẹt diêm về lò sưởi, bàn ăn, cây thông là sát với thực tế, vì đó là những nhu cầu thiết thực cho cuộc sống của em.
Còn mộng tưởng được gặp lại bà, và em thấy bà em to lớn và đẹp lão, rồi hai bà cháu bay vụt lên cao... thuần túy chỉ là nỗi khát khao tha thiết của em bé vốn thiếu hẳn tình thương yêu chăm sóc của người thân. Trong phần kết của truyện, cái chết của cô bé nghèo khổ, đói rét làm ta xót xa. Em bé thật đáng thương! Chỉ có mẹ và bà thương yêu em, nhưng họ đều đã qua đời.
Cha em có lẽ vì quá nghèo khổ nên cũng đối xử với em tàn nhẫn. Người qua đường nhìn thấy thi thể em vào buổi sáng đầu năm với thái độ dừng dưng, vô cảm. Trong xã hội tư bản thiếu sự đồng cảm và tình thương yêu giữa người với người, nhà văn An-đéc-xen đã viết truyện này với niềm xót thương vô hạn đối với em bé bán diêm bất hạnh nói riêng và cả tầng lớp người nghèo khổ nói chung.
Nhưng mặt khác, cái chết đó thật thanh thản qua hình ảnh đôi má hồng và đôi môi đang mỉm cười và em đang đi vào giấc mơ huy hoàng lúc hai bà cháu bay lên để đón lấy những niềm vui đầu năm. Chúng ta càng trân trọng những ước mơ đó của em bao nhiêu lại càng đau đớn bấy nhiêu trước cái chết vô cùng thương tâm của em. Truyện Cô bé bán diêm kể về kiếp đời của một em gái nhỏ bất hạnh, chết trong đói rét mà lòng vẫn ôm áp những mộng tưởng đẹp.
Truyện mang giá trị nhân văn cao quý, gợi nỗi cảm thương sâu sắc cho người đọc. Cần xây dựng cuộc sống ấm no cho tất cả mọi người, nhất là cho những em bé đáng thương trên đời. Để làm dịu bớt nỗi đau đang nhức nhối trong tim và cũng để an ủi những linh hồn tội nghiệp, nhà văn đã miêu tả em bé chết nhưng đôi má vẫn hồng và đôi môi đang mỉm cười. Tuy vậy, nội dung câu chuyện cô bé bán diêm và kết thúc thương tâm của nó vẫn khiến người đọc rơi nước mắt.
Dẫu tác giả có tả em bé chết nhưng đôi má vẫn ửng hồng, đôi môi đang mỉm cười, đồng thời hình dung ra cảnh huy hoàng hai bà cháu bay lên trời để đón lấy những niềm vui đầu năm thì nỗi đau trong ta vẫn không thuyên giảm, mà thậm chí cứ nhắm mắt lại thì hình ảnh ấy lại càng day dứt ta hơn.
Hình ảnh cô bé bán diêm mãi mãi để lại trong lòng bao người đọc trên khắp thế gian này niềm đau thương vô hạn, nhự luôn nhắc nhở chúng ta hãy yêu thương giúp đỡ lẫn nhau. Và đó cũng chính là tấm lòng nhân hậu tràn đầy của An-đéc-xen.
5. Bài phân tích văn 'Cô bé bán diêm' của An-đéc-xen số 4
Những người đã đọc truyện Cô bé bán diêm của nhà văn Đan Mạch An-đéc-xen nhất định sẽ không thể nào quên những đám lửa diêm nhỏ nhoi bùng lên giữa đêm giao thừa lạnh buốt, kết nối với thế giới mơ tưởng tuyệt vời của cô bé nghèo. Mặc dù kết cục của câu chuyện buồn, nhưng sức mạnh hấp dẫn của những giấc mơ tuyệt vời vẫn chi phối tâm trí người đọc thông qua cách An-đéc-xen mô tả cuốn hút.
Trong bóng tối và cái rét cắt da thịt của xứ sở Đan Mạch, chúng ta như thấy một cô bé với đôi môi tím tái, bụng đói kêu cứu, lang thang trên con phố lạnh giá. Cô bé mồ côi, sợ phải trở về nhà mà không bán được diêm nào, vì sẽ bị cha đánh đập. Nhà văn đã tạo ra cảm giác sống động bằng cách thể hiện tâm trạng của cô bé.
Ấn tượng mạnh đầu tiên là hình ảnh cô bé như một bóng ma giữa vùng tối, vào lúc đêm giao thừa. Khi 'mọi người đều sáng đèn, và trong phố đang phát sóng mùi của ngỗng quay,' cô bé hồi tưởng lại những ký ức hạnh phúc khi bà nội còn sống.
Ngôi nhà nhỏ với những dải nến xuân tươi trong những ngày ấm áp tạo ra sự tương phản với thực tế khốn khổ của cha con sống trong bóng tối, gặp phải sự nghèo đói và lời mắng chửi của cha khi tài sản gia đình tan rã. Để tránh lạnh, cô bé 'nằm nép vào góc tường,' 'đặt chân vào người,' nhưng nỗi sợ hãi lớn hơn cả là cảm giác lạnh buốt từ trái tim khiến 'đôi bàn tay cô bé đóng cứng.'
Cô bé không thể trở về nhà vì biết 'cha cô bé sẽ đánh cô.' 'Ở nhà cũng không khác,' điều đáng sợ không chỉ là lạnh, mà là sự thiếu thốn tình thương. Thân hình bé nhỏ của cô bé phải đối mặt với cảm giác lạnh buốt bên ngoài và tình cảm lạnh lùng từ trái tim khiến 'đôi bàn tay cô bé cứng đờ.'
Lúc đó, cô bé chỉ mong mỏi một điều nhỏ nhoi: 'Chẳng lẽ chỉ cần quẹt một que diêm để ấm một chút sao?' nhưng cô bé cũng không đủ can đảm vì đó làm hỏng một que diêm không bán được. Nhưng rồi cô bé 'quyết định quẹt một que,' bắt đầu hành trình mơ ước vượt lên trên thực tế khắc nghiệt.
Giấc mơ bắt đầu khi cô bé nhìn vào ngọn lửa: 'ban đầu xanh lam, dần dần biến mất, trắng tinh, rực hồng quanh que diêm, sáng chói đến mức làm cô bé vui mừng.' Ánh sáng đó lấn át cảm giác bóng tối, hiện ra 'một lò sưởi bằng sắt có các hình nổi bằng đồng lung linh.'
Niềm vui của cô bé xuất hiện trong ảo giác 'lửa cháy hạnh phúc, tỏa ra hơi nóng nhẹ nhàng.' Đó là một ước mơ đơn giản trong khi thực tế lại khắc nghiệt 'tuyết phủ đất, gió lạnh thổi, trong đêm đông lạnh buốt.' Ước mơ ngồi trước 'lò sưởi' biến mất khi 'lửa tắt, lò sưởi biến mất.' Cảm giác 'cô bé run lạnh' khi nghĩ về lời mắng chửi của cha làm ta xúc động. Bóng tối trở lại che phủ tâm hồn cô bé
.
Có lẽ vì thế, nhà văn để cô bé thắp lên que diêm thứ hai, thắp lên niềm vui nhỏ nhoi, dù chỉ trong giấc mơ. Không chỉ phải chống chọi với cái rét, cô bé còn phải đối mặt với sự đói khi cả ngày không có miếng nào vào bụng. Ánh sáng từ que diêm biến tường xám thành 'bức rèm vải màu.'
Hạnh phúc trong ngôi nhà ấm áp xuất hiện khi cô bé thấy: 'Bàn ăn sẵn sàng, bàn trải chiếc khăn trắng tinh, trên bàn toàn là đĩa sứ quý giá, và cả một con ngỗng quay.' Giá như tất cả hình ảnh tưởng tượng trở thành hiện thực, cô bé sẽ vui mừng khi 'ngỗng nhảy ra khỏi đĩa' mang theo bữa ăn phong phú để vượt qua giây phút đói đói.
Nhưng một lần nữa, ảo ảnh biến mất, cô bé phải đối mặt với 'phố xá vắng teo, lạnh buốt, tuyết phủ trắng, gió bấc vi vu.' Không chỉ vậy, cô bé còn thấy sự lạnh lùng của những người đi ngang qua, hình ảnh đau lòng khiếm nhã được nhà văn mô tả.
Và một lần nữa, que diêm tiếp theo sáng lên, để cô bé sống trong những giấc mơ tuyệt vời nhất của một đứa trẻ. Trong cuộc sống mưu sinh từng phút từng giây, cô bé phải từ bỏ niềm vui của tuổi thơ. Ánh sáng từ que diêm tạo ra vầng sáng huy hoàng, mang lại 'cây thông Nô-en,' đưa cô bé đến thiên đường của tuổi thơ: 'Hàng ngàn ngọn nến sáng rực, lấp lánh trên cành lá xanh tươi và nhiều bức tranh màu sắc rực rỡ như trong tủ hàng.'
Điều đau lòng là tất cả những hình ảnh đẹp này, cô bé chỉ có thể nhìn, không thể chạm, vì tất cả chỉ là hư ảo, như những ngôi sao trên trời mà cô bé không thể đến gần. Trái tim ta như bị nghẹn lại khi nghe nhà văn kể, vì đứa trẻ đang mất sức và sắp phải đối mặt với cảm giác lạnh buốt của xứ sở Tuyết.
6. Phân tích truyện 'Cô bé bán diêm' của An-đéc-xen số 7
Những ai mang sách đến trường đều biết về An-đéc-xen, nhà văn nổi tiếng Đan Mạch. Câu chuyện 'Cô bé bán diêm' của ông đầy cảm động, nói về số phận đau buồn của cô bé nghèo trong xã hội tư bản. Tình yêu thương và niềm tin vào điều thiện là tâm điểm của sáng tác.
Câu chuyện chia thành ba phần: giới thiệu hoàn cảnh cơ cực của cô bé, những lần quẹt diêm và những hình ảnh đẹp trong trí tưởng tượng, và phần miêu tả cái chết bi thảm của cô bé trong đêm đông lạnh.
Truyện diễn ra vào đêm giao thừa, khi mọi người vui mừng đón năm mới. Nhưng cô bé mồ côi, đói meo, lang thang mà không bán được diêm. Xung quanh tràn ngập ấm áp, nhưng đối với cô, chỉ còn rét mướt và lời mắng chửi của cha.
Cô bé ngồi lạnh giữa hai ngôi nhà, không dám về vì sợ cha. Lúc đó, trong tâm trí cô bé, nảy lên khao khát ấm áp, và cô quyết định quẹt một que diêm. Ngọn lửa xanh lam biến thành ánh sáng hồng, tạo ra ảo giác ấm áp với lò sưởi. Nhưng niềm vui thoáng qua khi lửa tắt, và cô bé phải đối mặt với hình ảnh đau lòng của cuộc sống.
Que diêm thứ hai đem đến ảo giác bàn ăn trang trí, ngon lành. Nhưng nhanh chóng biến mất, và cô bé lại trải qua cảm giác đói đói và cô đơn. Thế nhưng, cô không tuyệt vọng, tiếp tục quẹt que diêm thứ ba với ước mơ về một cây thông Nô-en. Ánh sáng xanh và hình ảnh bà cười mỉm xuất hiện, nhưng cũng chẳng kéo dài được. Kết thúc truyện là sự đối lập giữa niềm vui giao thừa và cái chết thương tâm của cô bé.
Sáng hôm sau, tuyết phủ đất, nhưng mọi người vẫn hạnh phúc. Gần tường, một đứa bé cười mỉm, nhưng đó là cười mãi mãi, vì cô bé đã rời bỏ cuộc sống đau khổ.
7. Phân tích truyện 'Cô bé bán diêm' của An-đéc-xen số 6
Câu chuyện của cô bé bán diêm mở ra những cảm xúc sâu sắc về đau khổ và ao ước trong đêm giao thừa lạnh buốt. Trải qua cảnh bán diêm đêm đêm, cô bé đối mặt với sự lạc quan và ảo mộng, từ lò sưởi ấm áp đến mảnh đất xa xôi với bóng tối đến cùng. Mỗi que diêm là một giấc mơ, từ mùi thơm của ngỗng quay đến hình ảnh của cây thông Nô-en lung linh. Cuối cùng, trong cơn đói và lạnh, cô bé tìm thấy hòa bình với hình ảnh bà nội thân yêu, và chọn cách ra đi với nụ cười nhẹ nhàng.
8. Phân Tích Truyện 'Cô Bé Bán Diêm' của An-đéc-xen Số 9
An-đéc-xen, một nhà văn có đẳng cấp không còn xa lạ với nhiều độc giả, đặc biệt là những người yêu thích văn chương Đan Mạch. Ông là một tác giả tài năng với những sáng tác ngắn và truyện thiếu nhi, làm say đắm tuổi thơ của mọi người. Sinh ra trong gia đình nghèo khó, An-đéc-xen đã vươn lên từ những thách thức đó và với khả năng viết văn, ông đã tạo ra những tác phẩm không thể phai mờ.
Một trong những tác phẩm nổi bật nhất của ông chính là truyện ngắn “Cô bé bán diêm” - một kiệt tác đầy cảm xúc về số phận đau thương của cô bé nghèo trong xã hội tư bản. Không chỉ là một câu chuyện, tác phẩm còn chứa đựng những giá trị nhân văn sâu sắc.
Cấu trúc của truyện được phân chia rõ ràng thành ba phần. Phần đầu tiên mô tả về hoàn cảnh khó khăn và đau buồn của cô bé bán diêm. Phần thứ hai tái hiện những trải nghiệm khi quẹt diêm, với hình ảnh đẹp mê hồn trong tưởng tượng của cô bé. Phần thứ ba đề cập đến cái chết thương tâm của cô bé trong đêm lạnh giá.
Vào đêm giao thừa, thời điểm mà mọi gia đình sum họp, hạnh phúc bên cha mẹ, thì cô bé bán diêm lại trải qua một đêm đen tối, một mình, không có cha, không có mẹ, bước chân trần, váy rách, bụng đói nơi bóng tối.
Mọi nơi xung quanh ánh sáng ấm áp từ cửa sổ mỗi ngôi nhà và hương thơm của ngỗng quay. Những hình ảnh này như làm tái hiện ký ức về những ngày hạnh phúc trong quá khứ, khi được đón giao thừa bên bà nội trong căn nhà ấm cúng với cây thường xuân nở khắp. Tác giả tận dụng sự đối lập để làm nổi bật sự thảm thiết của tình huống của cô bé.
Cô bé trải qua cảm giác lạnh giá, nhưng càng lạnh khi thấy sự ấm áp từ những căn nhà sáng bừng đèn. Những lời mắng chửi thô lỗ của cha vẫn còn vang vọng. Những khoảnh khắc hạnh phúc của những đêm giao thừa bên bà và mẹ chỉ còn là ký ức hồn nhiên. Thảm họa đã làm tan nát gia đình cô.
Giữa đêm lạnh buốt, cô bé lẻ loi mang theo giỏ diêm. Khi cô ngồi nép vào bờ tường, khao khát nảy lên trong trái tim nhỏ bé của cô. Bàn tay cứng đơ vì lạnh, mong muốn có một ngọn lửa diêm để sưởi ấm đã đẩy cô bé đến hành động. Cô quẹt một que diêm, lửa từ xanh chuyển sang trắng, rồi rực hồng quanh que gỗ, tạo nên khoảnh khắc đẹp đẽ và vui mắt. Bàn tay nâng cao trước ngọn lửa, cầm que diêm bằng ngón cái nóng bỏng.
Cô duỗi chân ra, lửa tắt, lò sưởi biến mất, cảm giác lạnh lẽo trở lại. Cô ngồi đó, tận hưởng khoảnh khắc lúc que diêm sáng rực. Cô quẹt diêm thứ hai, lửa cháy rực, bức tường biến thành tấm vải màu.
Em nhìn thấu qua bức tường, bàn ăn đã được dọn sạch, bàn trải khăn trắng. Trên đĩa là đồ sứ quý giá và con ngỗng quay, nhưng con ngỗng nhảy khỏi đĩa, mang theo con dao, tiến về phía cô bé. Tuy nhiên, hình ảnh đó chỉ xuất hiện trong một khoảnh khắc, khi lửa tắt, xung quanh cô là bóng tối đen đầy sương lạnh, nỗi đau đói và nỗi cô đơn.
Không bán được diêm nào, trời vẫn lạnh lẽo. Nhưng tâm hồn lạc quan vẫn tồn tại, và trí tưởng tượng phong phú của đứa trẻ lại hiện hình. Cô ước ao có một cây thông Nô-en. Cô quẹt que diêm thứ ba, cây thông Nô-en trang trí lộng lẫy với hàng nghìn ngọn nến sáng rực hiện lên trong trí tưởng tượng.
Cô quẹt thêm một que diêm, ánh sáng xanh ấm áp tỏa ra xung quanh, bà cô hiện ra với nụ cười, mời cô bé đi cùng. Khi que diêm tắt, mọi thứ trở lại bóng tối lạnh lẽo.
Kết thúc câu chuyện là sự đối lập giữa niềm vui của cuộc sống và cái chết bi thảm của cô bé bán diêm. Sáng hôm sau, tuyết phủ trắng khắp. Nhưng mặt trời mọc, tươi sáng trên bầu trời xanh, mọi người vui vẻ rời khỏi nhà. Trong bóng sáng lạnh lẽo đó, ở gần một tường, mọi người thấy một đứa bé gái với đôi má hồng và đôi môi mỉm cười, đứa bé đã ra đi vì lạnh trong đêm giao thừa.
Trong xã hội tư bản lạnh lùng, không có chỗ cho tình thương giữa những người xa lạ. Xã hội dường như thờ ơ trước những số phận bi thương. Cô bé bán diêm là một trong những đứa trẻ bất hạnh của xã hội đó. Chỉ khi cái chết đến, mọi người mới để ý đến cô bé bán diêm, người đã ra đi trong đêm lạnh lẽo với những nỗi đau không lời. Đọc truyện, người đọc không thể không rơi nước mắt.
9. Phân Tích Truyện 'Cô Bé Bán Diêm' của An-đéc-xen - Số 8
An-đéc-xen, nhà kể chuyện cổ tích nổi tiếng, sáng tạo không ngừng. Trong tác phẩm 'Cô Bé Bán Diêm', ông tài năng kể chuyện bậc thầy, phản ánh xã hội hiện đại với hình ảnh cô bé nghèo khổ bán diêm. Bối cảnh rét buốt của đêm giao thừa, cùng với cây thông Nô-en lấp lánh, tạo nên bức tranh đầy nghệ thuật. Cô bé bán diêm, đeo bát diêm, dạo chơi trong tuyết, tìm sự ấm áp trong tình cảnh khó khăn. Que diêm biến thành những hình ảnh ấm lòng, nhưng cũng là nguồn đau thương khi em bé quẹt diêm cuối cùng để đoái hoài gia đình và chết trong đêm giao thừa. Đây là một câu chuyện bi thương, là lời phê phán sâu sắc về xã hội đương đại.
10. Phân Tích Truyện 'Cô Bé Bán Diêm' của An-đéc-xen Số 10
Trong đám đông, ai ai cũng biết đến H.C. An-đéc-xen, nhà văn nổi tiếng của Đan Mạch thế kỉ XIX (1805 - 1875), người đã tạo ra những câu chuyện truyền cảm hứng cho trẻ em trên khắp thế giới. Tác phẩm của ông như Nàng tiên cá, Bầy chim thiên nga, Bộ quần áo mới của hoàng đế, Cô bé bán diêm,... đã trở thành những tác phẩm kinh điển với sự nhẹ nhàng, tinh tế, và ấm áp, nói lên lòng nhân ái và niềm tin vào những điều tốt đẹp trong cuộc sống.
Câu chuyện Cô bé bán diêm đưa chúng ta trở lại một đêm giao thừa giá rét ở Đan Mạch cách đây hơn một trăm năm. Câu chuyện xoay quanh một em bé gái mồ côi, đói khổ, ngồi trong góc tường của một tòa nhà lớn để ước ao và mơ tưởng. Những tưởng tượng và khao khát của em bé được nhà văn mô tả một cách chân thực và đẹp đẽ.
Từ cảnh đêm lạnh giá với tuyết rơi và em bé đau đớn, đối lập với ánh sáng từ cửa sổ mọi nhà, câu chuyện nổi bật những khác biệt giữa thế giới thực tế và thế giới mơ tưởng. Cô bé bán diêm không chỉ phải đối mặt với lạnh buốt và đói khổ mà còn là những ảo tưởng hạnh phúc của tuổi thơ bị cuốn vào cuộc sống khó khăn.
Phần mở đầu với cảnh em bé đói đầu trần bước qua đêm tối, trong khi những ngôi nhà sáng đèn và mùi ngỗng quay nức nở xung quanh, tạo nên một bức tranh đan xen giữa nỗi đau và hi vọng. Những chi tiết này khiến độc giả cảm nhận được tình cảnh đau thương của cô bé, khiến cho câu chuyện trở nên gần gũi và cảm động.
Chuyện tiếp theo mô tả những lần em bé quẹt diêm để tạo nên ánh sáng và những giấc mơ. Từ lửa đầu tiên sáng rực nhưng chói lòa, đến hình ảnh ngỗng quay trên bàn ăn sang trọng nhưng chỉ là ảo ảnh. Mỗi lần em bé quẹt diêm là một lần khám phá thêm về khát vọng và ước mơ của mình, tạo nên những khoảnh khắc tưởng chừng như có thật giữa thế giới thực và thế giới tưởng tượng.
Đến phần kết, câu chuyện đưa độc giả đến cái chết của cô bé bán diêm. Sự chết của em không phải là bi kịch u tối mà ngược lại, nó là một cái chết đẹp và lạc quan. Đôi má hồng và đôi môi mỉm cười khiến người ta liên tưởng đến một giấc mơ hạnh phúc, nơi em bé được đón những niềm vui mới. An-đéc-xen thông qua câu chuyện này không chỉ mô tả về sự khốn khổ và đau đớn mà còn tôn vinh sự đẹp đẽ của tâm hồn và khát vọng vươn lên trên mọi khó khăn.
Truyện Cô bé bán diêm không chỉ là một câu chuyện buồn về đêm giao thừa lạnh giá mà còn là hành trình tìm kiếm ánh sáng và niềm hy vọng trong cuộc sống. Đây là một tác phẩm nhân văn, truyền cảm hứng và làm cho độc giả suy ngẫm về ý nghĩa của sự sống và khả năng vượt qua khó khăn bằng niềm tin và tình thương.