1. Bài tham khảo số 1
Vào tháng tư vừa qua, trường tôi đã tổ chức một buổi tham quan nhằm vào Đền Hùng ở Việt Trì - Phú Thọ. Đây là nơi linh thiêng của các vị vua Hùng, là dịp để tôn vinh những người đã có công dựng nước.
Tôi từng nghe nhiều câu chuyện về các vị vua Hùng qua các sự tích nổi tiếng như Bánh chưng, bánh dày, Sơn Tinh - Thủy Tinh... và cảm thấy sự uy nghiêm, trí tuệ của các vị vua. Điều đó khiến tôi càng mong chờ chuyến đi này hơn.
Dưới chân núi Nghĩa Lĩnh, khung cảnh hùng vĩ với rừng cây và sương mù bao phủ. Các đền thờ các vị vua được đặt trên đỉnh núi với ba đền chính là Hạ, Trung và Thượng. Đền Hạ được cho là nơi mẹ Âu Cơ đẻ ra trăm trứng, mỗi trứng đẻ ra một người con. Đền Trung là nơi các vị vua họp bàn, đền Thượng là nơi lăng thờ Hùng Vương thứ sáu.
Lễ hội Đền Hùng hàng năm mang đậm nét văn hóa truyền thống với các hoạt động như rước kiệu vua và lễ dâng hương. Tôi rất ấn tượng khi tham gia lễ dâng hương và nghe diễn thuyết về các vị vua Hùng. Đó thực sự là một trải nghiệm đáng nhớ.
Chuyến đi này đã giúp tôi hiểu thêm về truyền thống, về trách nhiệm của mình đối với đất nước.
Phải biết kính trọng, biết ơn thế hệ đi trước đặc biệt là các vị vua Hùng và phải ghi nhớ:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba.”
2. Tài liệu tham khảo số 3
Vào năm 1945, trong bài phát biểu tại lễ tốt nghiệp khóa V của Trường Huấn luyện Cán bộ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có những lời khuyên rất thẳng thắn: “Giấy mời việc này đã ghi 8 giờ, bây giờ đã 8 giờ 10 phút mà nhiều người vẫn chưa đến. Tôi khuyên các bạn phải chú ý làm việc đúng giờ, vì thời gian rất quý báu”. Cũng về việc giữ gìn thời gian, trong cuộc kháng chiến chống Pháp, một vị đồng chí sĩ quan cấp tướng đến gặp Bác muộn 15 phút, với lý do là mưa lớn, suối lũ, ngựa không vượt qua được.
Bác đã phán:
- Chú làm tướng mà chậm một quá đã lẽ ra không nên thế, bộ đội của chú sẽ hiệu động sai bao nhiêu? Hôm nay chú đã chủ quan khi không chuẩn bị đủ phương án, do đó chú không giành được sự kiểm soát sự vụ”. Điều này chỉ ra rằng giờ giấc rất quan trọng, và Bác đã phải đợi đồng chí một cán bộ đến để bắt đầu cuộc họp khác.
Bác hỏi:
- Chú đến muộn bao nhiêu phút?
- Thưa Bác, chậm mất 10 phút ạ!
- Chú không nên tính như vậy, 10 phút của chú phải nhân với 500 người đang chờ ở đây.
Vào năm 1953, Bác quyết định ghé thăm lớp chỉnh huấn của đồng bào trí thức, trong khi cuộc chiến tư tưởng gay gắt đang diễn ra. Gần đến giờ khởi hành, trời đột nhiên mưa xối xả. Các đồng chí bên cạnh Bác đề nghị hoãn sang một buổi khác. Một số đồng chí thậm chí đề nghị tụ tập lớp học ở một nơi gần nhà của Bác… Tuy nhiên, Bác không đồng ý:
- Đã hẹn thì phải đến đúng giờ, đợi đến khi thời tiết tốt làm sao? Thà là chỉ có mình Bác và một vài người khác chịu ướt còn hơn là để cả lớp phải đợi không cần thiết.
Vì thế, Bác đã tiếp tục đi đến lớp chỉnh huấn đúng thời gian, trong tiếng hoan hô vui mừng của các học viên… Bác Hồ của chúng ta quý trọng thời gian của mình cũng như thời gian của người khác bấy nhiêu, và chính vì điều đó, suốt đời Bác không làm cho bất kỳ ai phải chờ đợi mình. Sự quý trọng thời gian thực sự là một ví dụ sáng để chúng ta học hỏi.
Quỹ thời gian của con người là có hạn. Mọi người có thể xây dựng lại một ngôi nhà, một con đường,… nhưng không thể lấy lại được một chút thời gian đã mất đi. Chính vì vậy, thời gian còn quý hơn vàng bạc. Tiết kiệm thời gian là cách thông minh và văn minh nhất.
Mỗi người đều có thể tiết kiệm thời gian của mình. Tuy nhiên, để thực hiện điều đó, chúng ta cần có kế hoạch cụ thể, chi tiết; làm việc ngăn nắp, sắp xếp gọn gàng; giáo viên cần chuẩn bị bài giảng kỹ lưỡng trước khi vào lớp, đến lớp đúng giờ, và sử dụng thời gian học tập hiệu quả; cán bộ cần chuẩn bị nội dung tốt trước khi tổ chức hội nghị, tiếp dân,... Đó chính là cách tiết kiệm thời gian của bản thân và của mọi người
3. Tài liệu tham khảo số 2
Nhân dịp Tết năm Nhâm Dần, tôi đã có dịp ghé thăm Hội xuân Yên Tử ở thành phố Uông Bí (Quảng Ninh) để tham gia lễ dâng hương cầu nguyện cho sự an lành của đất nước Xuân Yên Tử 2022. Đây là một trong những lễ hội mùa xuân truyền thống lớn và kéo dài nhất cả nước. Lễ hội Xuân Yên Tử được tổ chức hàng năm, bắt đầu từ ngày mùng 10 Tết âm lịch và kéo dài khoảng 3 tháng. Vào dịp này, hàng nghìn người dân từ khắp mọi nơi đến dâng hương, tưởng nhớ Phật Hoàng Trần Nhân Tông và tham gia hành hương lên Yên Tử.
Tôi biết, Yên Tử là nơi mà Phật hoàng Trần Nhân Tông đã đến tu hành và sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm, mang đậm nét văn hóa dân tộc Việt Nam. Ông là một vị vua hiền minh, đức độ và vô cùng yêu thương dân chúng.
Cảm xúc của tôi trong buổi lễ dâng hương Xuân Yên Tử rất khó diễn tả. Lễ dâng hương bắt đầu từ vườn tháp Huệ Quang lên đến chùa Hoa Yên. Vườn tháp Huệ Quang có 64 gian tháp và mộ với lịch sử lâu đời. Sân tháp được bao quanh bởi những bức tường cao và rộng. Tâm trung tâm của tháp là tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông được làm từ cẩm thạch, trong tư thế một nhà sư ngồi thiền định, mặc áo cà sa hở ngực phải, những nếp áo tràn ra mặt bệ tượng. Hình ảnh này vô cùng trang nghiêm và cổ kính. Trong không khí trang nghiêm ấy, các sư thầy cùng rước lễ lên đến chùa Hoa Yên, nơi có những kiến trúc mang phong cách cổ điển và rêu phong. Các người dân xung quanh buổi lễ, các sư thầy và lãnh đạo tỉnh bắt đầu chủ trì lễ hội.
Trong không khí trang nghiêm ấy, buổi diễn văn cầu bình an được diễn ra. Mọi người đều cầm một nén hương để dâng lên Phật Hoàng Trần Nhân Tông, hy vọng cho một năm mới an khang thịnh vượng, quốc thái dân an.
Sau khi dâng hương xong, mọi người bắt đầu lan tỏa ra khắp nơi để ngắm nhìn cảnh đẹp xung quanh, một số người bắt đầu hành hương lên Yên Tử. Họ háo hức kéo nhau lên đỉnh chùa Đồng, nơi có bức tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông vĩ đại.
Công lao của Trần Nhân Tông vẫn được tôn vinh và ghi nhận qua hàng nghìn năm. Do đó, lễ hội Xuân Yên Tử không chỉ là dịp để tưởng nhớ công lao của ông mà còn là một trong những lễ hội truyền thống không thể thiếu đối với người dân Quảng Ninh cũng như cả nước. Lễ hội này luôn thu hút sự tham gia đông đảo của người dân và du khách.
4. Tài liệu tham khảo số 5
Vào thời Nguyên, quân đội của chúng đã sai một sứ thần sang đây giả vờ mượn đường để xâm chiếm nước ta. Khi nhận thấy sứ giặc cứ đến quanh co, Trần Quốc Toản đã vô cùng tức giận.
Trong buổi sáng hôm nay, hoàng đế đã tổ chức họp để bàn về việc nước nhà dưới thuyền rồng. Quốc Toản đã biết điều này nên quyết định chờ đợi để gặp vua và chỉ nói hai chữ 'xin đánh'. Sau khi đợi từ sáng đến trưa mà vẫn không thấy gặp được vua, cậu đã liều chết xô mấy người lính gác ngã xuống, đi về bờ. Khi họ đã nhìn thấy điều này, quân lính đã kéo đến. Quốc Toản đã đỏ mặt, rút gươm và lớn tiếng nói:
- Tôi sẽ xuống diện kiến vua, không ai dám ngăn cản.
Đúng lúc đó, cuộc họp dưới thuyền rồng tạm dừng, vua và các quan ra ngoài mui thuyền.
Quốc Toản đã chạy đến và quỳ gối xuống, cầu xin:
- Nếu giặc được mượn đường, nước ta sẽ mất. Vậy nên, xin vua hãy cho đánh!
Sau khi nói điều này, cậu đã đặt gươm lên gáy và sẵn sàng chịu trách nhiệm. Vua đã cho Quốc Toản đứng dậy và ôn hòa nói:
- Quốc Toản đã phạm tội, xứng đáng bị trừng phạt. Nhưng khi xem xét thì em vẫn còn nhỏ tuổi nhưng lại đã biết lo việc nên, ta có lời khen ngợi.
Sau khi nói điều này, vua đã sai người ban cho Quốc Toản một quả cam. Cậu cảm ơn vua rồi bước lên bờ với nỗi buồn trong lòng. Cậu nghĩ trong lòng: 'Vua đã ban cho một quả cam quý giá, nhưng lại xem tôi như là một đứa trẻ con, không cho phép thảo luận về vấn đề của đất nước'.
Quốc Toản nghĩ về những người quân giặc đang áp bức dân ta, mà trong lòng đầy bực tức. Cậu nắm chặt trái cam trong tay mà không hề để ý. Đến khi mọi người đến hỏi thăm, cậu mới nhận ra rằng trái cam đã nát.
5. Tham khảo số 4
Bác Hồ là lãnh tụ yêu mến của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Người là một bài học sáng rõ cho mỗi công dân Việt Nam theo đuổi. Câu chuyện về Bác luôn để lại những bài học quý giá cho chúng ta.
Kể rằng trong những năm sống tại Việt Bắc, mỗi khi đi công tác, Bác luôn có hai đồng chí đi cùng. Lo sợ Bác mệt, hai đồng chí muốn chia sẻ gánh nặng. Nhưng Bác từ chối. Bác nói:
- Đi đường rừng, leo núi ai mà không mệt, tập trung đồ vật cho một người mang sẽ càng mệt. Hãy chia đều cho ba người.
Hai đồng chí tuân theo lời Bác, chia đồ đạc vào ba chiếc ba lô. Bác hỏi lại:
- Các chú đã chia đều chưa?
Hai đồng chí trả lời:
- Vâng, Bác ạ!
Sau đó, họ cùng nhau tiếp tục hành trình. Sau một đoạn đường, khi nghỉ ngơi, Bác kiểm tra ba lô của họ và cầm lên. Bác hỏi:
- Tại sao ba lô của các chú nặng mà của Bác lại nhẹ?
Bác mở ra và thấy ba lô của mình chỉ có chăn màn.
Bác tỏ ra không hài lòng và nói:
- Chỉ có lao động thực sự mới mang lại hạnh phúc cho con người.
Bác yêu cầu hai đồng chí chia lại đồ đạc vào ba chiếc ba lô mới trước khi tiếp tục hành trình.
Câu chuyện nhỏ nhưng chứa đựng bài học lớn. Bác là người tôn trọng lao động. Bác suốt đời lao động, từ những công việc lớn như cứu nước đến những công việc nhỏ như trồng cây trong vườn. Mọi việc có thể tự làm, Bác đều làm được. Cách sống của Bác giúp mọi người nhận ra giá trị của lao động và tự giác hơn trong học tập cũng như lao động.
Chân thật, những câu chuyện về cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh mang ý nghĩa sâu sắc. Từ đó, chúng ta luôn nhận thấy nhiều bài học quý báu cho bản thân.
Kể về một sự kiện liên quan đến một nhân vật hoặc sự kiện lịch sử mà em yêu thích
6. Tham khảo số 7
Bài hát quốc ca của Việt Nam là Tiến quân ca, do nhạc sĩ Văn Cao sáng tác. Đây là một bài hát mang ý nghĩa quan trọng với đất nước và là một cột mốc quan trọng trong cuộc đời của tôi.
Tiến quân ca ra đời vào một thời điểm đặc biệt trong lịch sử, có ý nghĩa to lớn với đất nước. Với tôi, đó là một tác phẩm tinh thần quan trọng, ghi dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp của mình.
Trước khi sáng tác Tiến quân ca, tôi đã trải qua những thăng trầm trong cuộc sống và mất đi những khát vọng của tuổi trẻ. Một ngày nọ, anh Ph. D. - một người bạn thân của tôi xuất hiện và thay đổi hoàn toàn cuộc đời tôi.
Qua anh Ph.D., tôi được giới thiệu với Vũ Quý, người đã theo dõi và động viên sự nghiệp nghệ thuật của tôi. Sau cuộc gặp gỡ này, tôi đã tìm ra con đường của mình - con đường cách mạng.
Vào thời điểm đó, khối quân chính kháng Nhật sắp khởi nghĩa, và cần một bài hát để khích lệ tinh thần cho quân đội cách mạng. Tôi đã có rất nhiều sáng tác về tình yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc, Tiếng rừng… nhưng chưa có bài nào về cách mạng. Vì vậy, tôi quyết định sáng tác Tiến quân ca.
Anh Ph.D. đã chứng kiến toàn bộ quá trình sáng tác, Vũ Quý là người đầu tiên biết đến bài hát và Nguyễn Đình Thi là người đầu tiên thể hiện ca khúc này. Tất cả chúng ta đều chia sẻ cảm xúc tự hào và xúc động khi nghe Tiến quân ca.
Tôi không ngờ rằng chỉ sau một thời gian ngắn, vào ngày 17 tháng 8 năm 1945, Tiến quân ca đã trở thành tiếng hát chung của hàng nghìn người trước Nhà hát Lớn. Bài hát đã gây ra một cơn sốt lớn. Trong một thoáng, những tờ truyền đơn in Tiến quân ca được phát cho từng người tham gia mít tinh. Tôi đứng trong đám đông trước Nhà hát Lớn, nghe giọng hát quen thuộc của anh Ph. D. qua loa phát thanh. Vào ngày 19 tháng 8, ngày cách mạng tháng Tám thành công tại Hà Nội, tôi vui mừng nghe hàng nghìn người và trẻ em hát Tiến quân ca.
Ca khúc Tiến quân ca ra đời trong bối cảnh lịch sử quan trọng của dân tộc, ghi dấu “một buổi bình minh mới” cho Việt Nam. Là tác giả của bài hát, tôi rất tự hào và hạnh phúc.
7. Tham khảo số 6
Tôi là nhạc sĩ Văn Cao - người đã sáng tác bài hát “Tiến quân ca”. Bài hát này ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt. Đối với tôi, nó là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời, đánh dấu sự kiện tìm ra lí tưởng sống.
Tôi đã từng mất đi những khát vọng và ước mơ của tuổi trẻ. Cuộc sống chìm trong chán nản và tuyệt vọng. Khi tôi muốn từ bỏ tất cả, sự xuất hiện của anh Ph. D. - một người bạn rất thân đã thay đổi cuộc đời tôi.
Qua giới thiệu của anh Ph.D., tôi đã gặp Vũ Quý - người đã theo dõi sự nghiệp nghệ thuật của tôi từ lâu. Sau cuộc trò chuyện này, tôi tìm được con đường mới, theo đuổi cách mạng.
Trong thời điểm đó, cuộc kháng chiến chống Nhật sắp bắt đầu, và tôi cần một bài hát để khích lệ tinh thần cho quân đội cách mạng. Tôi đã viết rất nhiều bài hát về tinh thần yêu nước như Đống Đa, Thăng Long hành khúc, Tiếng rừng… nhưng chưa có bài nào về cách mạng. Với tình yêu nước mãnh liệt, tôi đã sáng tác “Tiến quân ca”.
Anh Ph.D. đã chứng kiến toàn bộ quá trình sáng tác, Vũ Quý là người đầu tiên biết đến bài hát và Nguyễn Đình Thi là người đầu tiên trình bày ca khúc. Họ cảm thấy rất xúc động.
Không ngờ rằng chỉ sau một thời gian ngắn, vào ngày 17 tháng 8 năm 1945, Tiến quân ca đã được hàng nghìn người cùng hát vang trước Nhà hát Lớn. Cảm xúc của tôi lúc đó không thể diễn tả được. “Tiến quân ca” như một trái bom nổ ra, tờ truyền đơn in Tiến quân ca được phát cho từng người trong hàng ngũ công chức dự mít tinh. Tôi đứng giữa đám đông trước Nhà hát Lớn, nghe giọng hát quen thuộc của anh Ph. D. từ loa phóng thanh. Vào ngày 19 tháng 8, ngày cách mạng tháng Tám thành công tại Hà Nội, hàng nghìn người và các em thiếu nhi cùng hát “Tiến quân ca”.
Bài hát đã ra đời trong bối cảnh lịch sử quan trọng, ghi dấu “một buổi bình minh mới” cho dân tộc. Điều đó khiến tôi tự hào khi nhớ lại.
8. Tham khảo số 9
Trần Quốc Tuấn là một danh tướng kiệt xuất của dân tộc thời Trần. Ông được biết đến là người có công lớn trong việc đánh bại quân Mông - Nguyên xâm lược.
Sinh năm 1231?, mất năm 1300, ông là con trai của thân vương An Sinh Vương - Trần Liễu. Ông ra đời trong thời kỳ 'hỗn loạn' của nhà Trần. Trong hai lần xâm lược năm 1285 và năm 1287, quân Mông - Nguyên đều bị ông dẫn dắt đánh bại. Đời vua Trần Anh Tông, ông được phong vị Thái thượng hoàng.
Ông về ở Vạn Kiếp (nay là xã Hưng Đạo, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương) và mất ở đó. Nhân dân gọi ông là Đức Thánh Trần và lập đền thờ ông trên khắp đất nước.
Bài “Hịch tướng sĩ” do Trần Quốc Tuấn viết trước cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên lần thứ hai (1285). Nội dung của bài thơ phản ánh tinh thần yêu nước cao độ của dân tộc ta trong cuộc chiến chống quân xâm lược. Tác giả lên án hành động, suy nghĩ sai trái của các tướng lĩnh. Ông kêu gọi tướng lĩnh học tập từ “Binh thư yếu lược”.
Trần Quốc Tuấn là một anh hùng của dân tộc, là tấm gương cho thế hệ sau học tập và noi theo.
9. Tài liệu tham khảo số 8
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người lãnh đạo được yêu mến nhất của dân tộc Việt Nam. Có rất nhiều câu chuyện được kể về cuộc đời của Người, qua đó, chúng ta thấy được những phẩm chất cao đẹp của Người.
Vào giữa mùa thu năm 1954, Bác đã đến dự “Hội nghị rút kinh nghiệm cải cách ruộng đất” ở Hà Bắc. Tại đó, khi biết có lệnh từ Trung ương rút bớt một số cán bộ đi học tiếp quản thủ đô, ai cũng háo hức muốn đi, đặc biệt là những người từ quê ở Hà Nội.
Sau nhiều năm ở xa quê hương, mọi người đều mong muốn được những người cấp trên chiếu cố. Tư tưởng của các cán bộ dự hội nghị có nhiều phân tán. Ban lãnh đạo cảm thấy khó khăn trong việc giải quyết vấn đề này.
Trời đã vào thu nhưng vẫn còn khá nóng, mồ hôi ướt đẫm hai bên áo nâu của Bác. Bắt đầu, Bác đã trò chuyện về tình hình thời sự. Khi nói đến nhiệm vụ của toàn Đảng, Bác bỗng rút ra một chiếc đồng hồ từ túi áo. Sau đó, Bác hỏi các đồng chí cán bộ về chức năng của từng bộ phận của chiếc đồng hồ. Rồi Bác mới hỏi:
- Trong chiếc đồng hồ, bộ phận nào là quan trọng nhất?
Mọi người đều im lặng, không ai trả lời:
- Trong chiếc đồng hồ, có thể bỏ đi một bộ phận được không?
- Thưa, không được ạ!- Các cán bộ đồng thanh trả lời.
Nghe mọi người trả lời, Bác giơ cao chiếc đồng hồ lên và kết luận:
- Các bạn ạ, các bộ phận của một chiếc đồng hồ giống như các cơ quan của một Nhà nước, như các nhiệm vụ của cách mạng. Đã là nhiệm vụ của cách mạng thì đều là quan trọng, điều cần phải làm. Các bạn hãy suy nghĩ xem: Trong một chiếc đồng hồ mà anh kim đòi làm anh chữ số, anh máy lại đòi ra ngoài làm cái mặt đồng hồ… cứ tranh nhau chỗ đứng như thế thì còn là chiếc đồng hồ được không?
Sau khi nghe lời của Bác, cả hội trường trở nên im lặng. Mỗi người đều có những suy nghĩ riêng về những gì Bác nói.
Vào cuối năm 1954, Bác đã đến thăm một đơn vị pháo binh đóng ở Bạch Mai, đang luyện tập để chuẩn bị cho cuộc diễu binh kỷ niệm chiến thắng Điện Biên Phủ. Sau khi thăm nơi ăn ngủ của các chiến sĩ bộ đội, Bác đã trò chuyện với họ. Bác lấy ra một chiếc đồng hồ quả quýt từ túi, chỉ vào từng chiếc kim, từng chữ số và hỏi các anh em về tác dụng của từng bộ phận. Mọi người đều trả lời đúng. Nhưng chưa ai hiểu tại sao Bác lại nói như vậy?
Bác vui vẻ tiếp tục:
- Đã bao nhiêu năm nay, chiếc kim đồng hồ vẫn chạy để chỉ cho ta biết giờ giấc, chữ số trên mặt vẫn đứng yên một chỗ, bộ máy vẫn hoạt động đều đặn bên trong. Tất cả đều hoạt động một cách nhịp nhàng theo sự phân công đó. Nếu hoán đổi vị trí từng bộ phận cho nhau thì có còn là chiếc đồng hồ nữa không? Sau câu chuyện của Bác, anh chị em đều hiểu ý Bác dạy: Việc gì cách mạng phân công phải yên tâm hoàn thành.
Ngoài ra, chiếc đồng hồ quả quýt cũng là một hiện vật vô giá thể hiện lòng biết ơn Quốc tế đối với Bác. Đây là món quà được Tổ chức Quốc tế “Cứu Tế đỏ” tặng, Bác luôn mang theo trong những năm tháng bị giam giữ khổ cực cho đến khi Việt Nam giành được độc lập.
Câu chuyện về chiếc đồng hồ đã cho thấy được những phẩm chất đẹp của Bác Hồ, cũng như bài học sâu sắc mà Bác muốn dạy cho cán bộ và chiến sĩ của mình.
10. Tài liệu tham khảo số 10
Dân tộc Việt Nam đã trải qua những năm tháng chiến tranh. Rất nhiều anh hùng đã góp phần làm nên lịch sử của dân tộc. Trong số đó, không thể không kể đến Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp, tên khai sinh là Võ Giáp, bí danh là Văn. Ông sinh năm 1911, mất năm 2013. Quê ở làng An Xá, nay là xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ông sinh ra trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước, từ nhỏ đã được giáo dục về lòng yêu nước, căm ghét giặc ngoại xâm và tình yêu quê hương.
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng, giao cho ông nắm giữ những trọng trách quan trọng. Vào cuối năm 1954, Ban Thường vụ T.Ư quyết định thành lập Bộ Chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận Điện Biên Phủ với Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy Mặt trận. Trước khi ra mặt trận, Bác Hồ có hỏi: “Chú đi xa như vậy, chỉ đạo chiến trường có gặp trở ngại gì không?”. Đại tướng trả lời: “Thưa Bác, chỉ gặp trở ngại là ở xa, khi có vấn đề quan trọng, khó thì xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị!”. Bác bảo: “Tướng quân tại ngoại, tôi trao cho chú toàn quyền quyết định rồi báo cáo sau”. Khi chia tay, Bác dặn: “Trận này quan trọng lắm, phải đánh thắng, chắc thắng mới đánh, không chắc thắng, không đánh!”.
Nhờ sự tin tưởng tuyệt đối của Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã củng cố quyết tâm thực hiện phương châm tác chiến “đánh chắc, tiến chắc”. Kết quả là chiến dịch Điện Biên Phủ đã giành được thắng lợi vẻ vang.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp được coi là người anh cả của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông đã trở thành một tấm gương sáng để thế hệ sau nghiêng mình noi theo.