1. Ngựa Akhal-Teke
Loài ngựa này có nguồn gốc từ những thế hệ động vật sống cách đây 3.000 năm, thường được biết đến với tên gọi ngựa Nisean. Tuy nhiên, việc xác định tổ tiên chính xác là một thách thức, vì trước năm 1600 sau Công nguyên, không có giống ngựa hiện đại như chúng ta biết ngày nay. Các chủng ngựa được xác định theo địa phương hoặc chủng loại. Có khả năng rằng giống ngựa này có thể là hậu duệ trực tiếp của ngựa Turkoman, được cho là đã tuyệt chủng. Các giống khác như Yomud, Goklan và Nokhorli cũng được coi là có nguồn gốc từ Turkoman.
Các chủng cổ đại khác như Massaget và Parthian cũng có thể đã góp phần tạo nên giống ngựa này. Nhiều lời đồn đại rằng ngựa Akhal-Teke là hậu duệ của ngựa Fergana, xuất phát từ thung lũng Fergana vào năm 104 trước Công nguyên. Tuy nhiên, có tranh cãi về việc liệu ngựa Ả Rập có phải là tổ tiên hay không, nhưng dữ liệu DNA chỉ ra một tổ tiên chung cho cả hai. Trong lịch sử, giống ngựa này đã chứng minh sự linh hoạt và sức chịu đựng trong điều kiện khắc nghiệt của vùng đất Turkmenistan, nơi chúng được coi trọng như là tài sản quý giá. Họ đã được lai tạo theo cách chọn lọc và giữ hồ sơ phả hệ thông qua truyền thống lưu truyền miệng.
Đặc điểm nổi bật:
- Ngựa Akhal-Teke có kích thước trung bình, thường dài từ 144 đến 160 cm ở vai, nặng từ 430 đến 500 kg. Bộ lông của chúng đa dạng với màu vịnh, đen, vàng, và nhiều màu khác. Bộ lông thường có ánh kim loại đặc trưng, tạo hiệu ứng vàng độc đáo.
- Với đầu tinh tế, đôi tai dài, lưng dài và cơ bắp nhẹ, ngựa này thích hợp cho nhiều môn thể thao. Chất lượng của chúng được phân loại thành Elite, Class I hoặc Class II tùy thuộc vào loại và thành tích.


2. Ngựa Trakehner
Ngựa Trakehner là một giống ngựa máu nóng (warmblood) sáng màu có nguồn gốc từ nước Đức, theo lịch sử, giống ngựa ban đầu được phát triển ở một trang trại nhân giống ngựa ở Phổ thuộc bang Đông tại thị trấn Trakehnen mà từ đó các giống có cái tên của nó là Trakehner. Các trại nhân giống ngựa của nhà nước được thành lập vào năm 1731 và hoạt động cho đến năm 1944, khi cuộc chiến của Thế chiến II đã dẫn đến sự xâm lấn của Đông Phổ của nước Nga, và thị trấn có chứa các Trại luyện ngựa này được đổi tên thành Yasnaya Polyana. Chúng là một giống ngựa thể thao chất lượng cao và từng giành nhiều giải thưởng trong các cuộc thi đấu cưỡi ngựa biểu diễn quốc tế.
Các con ngựa Trakehner thường khi đứng thì cao khoảng 157 đến 173 cm. Chúng có thể là mang bất kỳ màu sắc nào với màu vịnh, màu xám, màu hạt dẻ và sắc màu đen là kiểu hình phổ biến nhất, mặc dù loài này cũng bao gồm vài loang nâu và tobiano pinto. Nó được coi là nhẹ nhất và tinh tế nhất của dòng ngựa máu nóng warmbloods, do sổ sách xác nhận cho phép nhập cảnh của Trakehner, cũng như vài lựa chọn cho giống ngựa Thuần Chủng Thoroughbred, ngựa Anglo-Ả Rập, ngựa Shagya và dòng máu của ngựa Ả Rập.
Đặc điểm nổi bật:
- Như một sự thật kỳ lạ khác về bộ lông, khi bắt đầu lai tạo giống, màu lông của nó đã được tính đến, theo sự đa dạng của nó chúng được coi là có các đặc điểm sinh lý khác biệt. Ví dụ, những con ngựa cái bọc hạt dẻ được cho là nhạy cảm, có tiềm năng lớn và sang trọng. Chúng được cho là hậu duệ của một giống ngựa thuần chủng Anh và là dòng duy nhất đến từ giống chó Hanoverian do một con ngựa giống Trakehner thành lập.
- Đối với tính cách, đôi khi họ cho thấy họ có một độ nhạy lớn, sức mạnh và sức đề kháng. Điều này đã làm cho chúng nổi tiếng là những con ngựa khó khăn, nhưng dưới sự điều khiển của chúng, chúng trở thành một con vật đáng tin cậy.
- Ngoài việc được mệnh danh là con ngựa yên ngựa, những người nông dân còn phát hiện ra rằng nó là một con vật có kỹ năng làm việc tốt và ít phải bảo dưỡng. Bằng cách bắt đầu được nâng lên cũng như một con ngựa làm việc sẽ không mất nhiều thời gian để biến nó thành một con ngựa kéo thanh lịch cho những toa tàu được lựa chọn nhiều hơn.


3. Ngựa Pháp (Français)
Chủng loại Ngựa Ăng-lê (Anglais) được phát triển trong thế kỷ 17 tại Anh và được định hình dần ở thế kỷ 18. Đấy là kết quả lai tạo giữa 1 loài ngựa cái tốt nhất ở Anh với một trong ba loại ngựa đực nổi tiếng thời điểm bấy giờ là Ngựa Ả Rập, Ngựa Barb (Ngựa Bắc Phi) và Ngựa Turkoman (Trung Đông, nay đã tuyệt chủng). Nòi ngựa này có tầm vóc cao lớn, từ 1m4 tới 1m5, nặng tới 400 ký, gồm Hồng Mã (màu nâu đỏ) và Bạch Mã (màu lông trắng). Vóc dáng cũng khỏe mạnh cân đối như các nòi ngựa chiến trên, nên thuở xưa, nước Anh giữ ngôi vị bá chủ thế giới trong hằng bao thế kỷ cũng nhờ đoàn kỵ binh kiêu hùng và thiện chiến. Từ cuối thế kỷ 18, ngựa Ăng lê bắt đầu lan rộng ra phạm vi ngoài nước Anh. Nó được nhập vào Mỹ, Nhật, Australia, châu Âu, và ngày càng phát triển. Hiện có hàng triệu con Ngựa Ăng-lê (Anglais) trên khắp thế giới, mỗi năm lại có khoảng 180 nghìn con được đăng ký mới. Hiện nay ngựa Ăng lê đa phần được sử dụng trong các cuộc đua, đây cũng là loài ngựa được đánh giá là đắt giá nhất thế giới. Với danh hiệu loài ngựa đắt giá nhất thế giới, việc sử dụng một con ngựa thuần chủng phải thông qua rất nhiều giấy phép và thủ tục phức tạp.
Thủ tục đăng ký con ngựa Ăng-lê (Anglais) cũng chặt chẽ, với danh tính bố mẹ cùng nơi sinh, ngày sinh rõ ràng chẳng khác gì người ta làm giấy khai sinh. Trên nguyên tắc, thông qua sổ sách được lưu trữ ở các tổ chức có thẩm quyền và đầy uy tín. Có thể lần ngược nguồn gốc của một con ngựa Ăng lê, cho đến cội nguồn của nó: con ngựa cái này ở Anh và con ngựa đực nào thuộc một trong 3 chủng loại Arab, Barb, Turkoman được nhập khẩu cách đây những 400 năm. Tương truyền, sau khi lên ngôi, sứ giả nước Anh là Chapman tới yết kiến, Nguyễn Nhạc đặt vấn đề có ngay một con ngựa Ăng Lê. Thái Đức hoàng đế đặc biệt muốn có ngựa ngoại với bất cứ giá nào và ông đã nhờ Chapman chuyển thư cho Toàn quyền Bengale yêu cầu một con ngựa nâu sẫm với đôi tai nhỏ và đẹp, dựng đứng lên trong chuyến tàu sớm nhất cập vương quốc của mình qua cảng Thi Nại. Ngày nay, ở Việt Nam, có nhập và nuôi ngựa Ăng-lê (Anglais) trên Tây Nguyên ngày càng sinh sôi đông đúc. Đến nay đã được 116 con. Để nhập được những con ngựa Ăng Lê và nòi ngựa quý của Đức, ngựa Ả rập, ngựa Mông Cổ, người nuôi trực tiếp dự một phiên đấu xảo ngựa ở Úc để đấu giá từng con. Số ngựa cỏ, ngựa lai đủ màu trên Langbiang mà nhìn thấy đàn ngựa Ăng lê thuần chủng ở Krông Á to lớn gần gấp đôi, có nhiều con đực cao tới mét bảy nặng bốn tạ, có con nặng tới gần nửa tấn.
Đặc điểm nổi bật:
- Các đặc điểm của ngựa Ăng-lê (Anglais) như đầu nhẹ, cổ nhỏ và dài hướng về phía trước, ngực rộng, 4 chân dài, chân trước luôn có sự cong khớp xương bẩm sinh, gân thô, gân xương phân tách rõ ràng, móng chắc chắn. Ngựa Ăng lê đực trưởng thành cao 159.0 cm, vòng ngực 183.0 cm, ống tròn 20.0 cm, con cái có số đo lần lượt là 156.4 cm, 179.2 cm và 19.2 cm, sức kéo lớn nhất là 40 kg. Trong 300 năm qua, chúng không ngừng được cải tiến nòi giống để nổi bật những tố chất cần thiết của một chiến mã chuyên nghiệp gồm cao to, mạnh mẽ, thể hình tuyệt đẹp và tốc độ tuyệt vời. Tốc độ đạt nhanh nhất của ngựa thuần chủng ở cự ly từ 1 đến 3 km và tốc độ cực đại hơn 60 km/giờ.
- Ngựa Ăng lê không có con cái. Khoảng 1 tuổi 2 tháng thì mã phu dẫn chúng đi gặp bác sĩ thú y để tuyệt nọc tức là phải bị thiến. Ngựa Ăng lê là giống ngựa đua ưu việt nhất thế giới hiện nay. Tuy nhiên sức đề kháng của chúng kém xa so với các loài gia súc và ngựa cỏ nên chi phí chăm sóc chúng rất tốn kém. Chiều cao trung bình của ngựa thuần chủng là 1m70. Riêng chiều dài của 2 cặp giò chiến là 1m-1,2m. Có hai loại móng dành cho ngựa thuần chủng. Loại móng thông thường dành cho tập luyện và sinh hoạt hàng ngày sẽ được thay 3 tuần/lần. Trước mỗi kỳ đua, ngựa sẽ được thay loại móng khác bằng nhôm dẻo. Với cấu tạo cơ thể, ngực nở, lỗ mũi rộng, chân dài vượt trội so với các loài ngựa khác giúp ngựa Ăng lê có tốc độ vượt trội hơn hẳn so với bất cứ loại ngựa nào khác về tốc độ.
- Các cuộc đua ngựa nghiêm túc ngày nay đều chỉ dùng Ăng-lê (Anglais). Đây cũng là chủng loại ngựa đắt giá nhất thế giới. Hình dáng và cấu trúc cơ thể (ngực nở, lỗ mũi rộng, chân dài…) giúp ngựa Ăng lê vượt trội so với bất cứ loại ngựa nào khác về tốc độ. Tất nhiên, không chỉ có ngựa đua là quan trọng. Thế nên, vẫn còn rất nhiều chủng loại khác được cho là quý hiếm trong thế giới loài ngựa. Trong cuộc đua, ở tốc độ cực đại những con ngựa Ăng lê như dính chùm vào nhau trên một đường đua không thể cho là rộng rãi. Khi đến khúc quanh, lại càng ngặt nghèo. Nhưng hầu như không bao giờ những chú ngựa cao to kềnh càng ấy va vào nhau và lăn ra ngã.
- Thủ tục đăng ký con Ăng-lê (Anglais) cũng rất vô cùng chặt chẽ đến mức rối rắm, với danh tính bố mẹ cùng nơi sinh, ngày sinh rõ ràng chẳng khác gì người ta làm giấy khai sinh. Trên nguyên tắc, thông qua sổ sách được lưu trữ ở các tổ chức có thẩm quyền và đầy uy tín. Có thể lần ngược nguồn gốc của một con ngựa Ăng lê, cho đến cội nguồn của nó: con ngựa cái này ở Anh và con ngựa đực nào thuộc một trong 3 chủng loại Arab, Barb, Turkoman được nhập khẩu cách đây khoảng 400 năm. Nhìn chung Nhà nước thực hiện công tác quản lý để đảm bảo sự thuần chủng của giống ngựa này và tránh nhân giống tràn lan trên thế giới.


4. Ngựa Mông Cổ – Thiên Lý Mã
Ngựa Mông Cổ là một giống ngựa bản địa của Mông Cổ, nổi tiếng với sức đề kháng và khả năng sống sót dưới mọi điều kiện thời tiết. Chiều cao trung bình chỉ từ 130 đến 140 cm, nhưng chúng rất dẻo dai và ít tốn kém trong chăm sóc. Ngựa Mông Cổ đóng vai trò quan trọng trong văn hóa Mông Cổ, với hơn 3 triệu con được nuôi dưỡng cho mục đích làm việc và sử dụng sữa. Chúng có lịch sử dài lâu, xuất hiện từ thời kỳ cường thịnh của đế quốc Nguyên Mông.
Ngựa Mông Cổ có tầm vóc trung bình, lông dày, cổ nở, và chân chắc khỏe. Dù không có vẻ đẹp lịch sự nhưng chúng có tốc độ chạy khá nhanh, từ 30 đến 45 km/h, và đặc biệt nổi tiếng với khả năng phi nước kiệu lên đến 10 giờ liền. Chúng là thiên lý mã, luôn nhoài đầu về phía trước khi chạy, thuận lợi cho việc sử dụng cung tên mà không lo vướng bận.
Đặc điểm nổi bật:
- Ngựa Mông Cổ nhỏ gọn nhưng chiến đấu cao, đồng thời có khả năng tự tìm thức ăn và nước, sống khỏe mạnh dưới mọi điều kiện thời tiết. Chúng là giống ngựa kiêm dụng, có thể sử dụng cho việc săn bắn, vận chuyển, và làm việc hàng ngày. Chúng còn được biết đến với khả năng ổn định khi chạy nhanh, giúp xạ thủ không bị trở ngại. Ngựa Mông Cổ là đối tác đáng tin cậy của người Mông Cổ trong cuộc sống du mục và trong những cuộc đua ngựa.
- Chúng được rèn luyện trong điều kiện thời tiết khắc nghiệt, sống ngoài trời quanh năm từ -40 °C đến 30 °C. Ngựa Mông Cổ không kén thức ăn và có thể cào tuyết để tìm thức ăn, làm cho chúng trở nên quan trọng trong cuộc sống du mục của người Mông Cổ. Chúng có khả năng tự tìm nguồn nước và sống sót dưới điều kiện khô hạn.
- Mỗi kỵ binh Mông Cổ thường mang theo một đàn ngựa để thay đổi khi cần, tăng tốc độ di chuyển và làm cho đội quân trở nên linh hoạt. Ngựa Mông Cổ không chỉ đơn thuần là phương tiện giao thông, mà còn là nguồn thức ăn, sữa, và là đối tác đắc lực trong cuộc sống du mục của những người nuôi ngựa này.


5. Ngựa Appaloosa
Ngựa Appaloosa là một giống ngựa nổi tiếng của Mỹ với bộ lông đốm độc đáo. Mỗi con ngựa mang một mô hình đốm riêng biệt do di truyền tạo nên. Màu sắc lông của Appaloosa là đề tài nghiên cứu hấp dẫn về di truyền màu lông ngựa. Chúng được lai tạo bởi bộ tộc Nez Percé tại Idaho, Hoa Kỳ, từ một con ngựa Á Châu nổi tiếng tại Âu Châu thời Trung Cổ. Giống ngựa này đã được khám phá vào năm 1805, với Nez Percé là chủ nhân đầu tiên. Phần trước của cơ thể thường có một màu chủ đạo, đôi khi có những đốm đen tại đùi và mông. Nổi tiếng với sự thông minh, tốc độ và sức mạnh. Thường được sử dụng trong các sự kiện biểu diễn. Chiều cao khoảng 1,4m và trọng lượng khoảng 500 kg. Hình ảnh của ngựa Appaloosa với mẫu lông độc đáo xuất hiện trong nghệ thuật cổ đại của Hy Lạp và triều đại Hán Trung Hoa qua các thời kỳ cận đại. Appaloosa là một trong những giống ngựa phổ biến nhất ở Hoa Kỳ. Appaloosas còn đã trở thành ngựa linh vật của bang Florida của người Seminole.
Nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng bức tranh hang động từ thời tiền sử của miền Đông Âu có thể mô tả chính xác một dạng ngựa con có đốm, có thể là một phiên bản của ngựa hoang dã cổ. Những người Nez Perce sống ở Washington, Oregon và Idaho, nơi họ tham gia nông nghiệp và chăn nuôi ngựa. Họ đã tận dụng việc sống trong khu vực có ngựa giống tuyệt vời, an toàn từ cuộc tấn công của các bộ tộc khác.
Đặc điểm nổi bật:
- Ba đặc điểm 'cốt lõi' của ngựa bao gồm lông đốm, móng sọc và đôi mắt với màng mắt màu trắng. Các đốm lông thường xuất hiện xung quanh mõm, mắt, hậu môn và cơ quan sinh dục, tạo nên một đặc điểm nổi bật trên Appaloosas, mặc dù không phải tất cả đều có. Trọng lượng biến đổi từ 950 đến 1250 bảng Anh (430 đến 570 kg), chiều cao từ 56 đến 64 inches (142 đến 163 cm).
- Mọi con ngựa thể hiện những đặc điểm cốt lõi của Appaloosa, bao gồm lông đốm, móng sọc và màng mắt màu trắng. Mặc dù không phải tất cả Appaloosa đều có lông đốm, phần trước của cơ thể thường là một màu nhất, với những đốm đen tròn tại đùi và mông. Nổi tiếng với sự thông minh, tốc độ và sức mạnh. Thường được sử dụng trong các sự kiện biểu diễn. Ngựa này được đặc trưng bởi màu sắc ngoạn mục và vóc dáng cân đối.
- Đầu nhỏ và tai nhọn, cổ mạnh mẽ, lưng ngắn và mạnh mẽ, cơ thể tròn trịa và mạnh mẽ, đôi chân mạnh mẽ và guốc chắc chắn, tốc độ nhanh, bờm mượt.
- Đôi mắt biểu cảm được xem là một đặc điểm quan trọng. Lông ngựa có nhiều tùy chọn màu sắc - phù hợp, xanh lá cây, và đốm. Cả lông roan và khăn yên cũng có thể có đốm.
- Ngựa Appaloosa thường được sử dụng trong đua ngựa, được chú ý với sức mạnh và tính cách ngoan ngoãn. Những đặc tính này giúp ngựa chiến thắng trong các cuộc đua.


6. Ngựa Clydesdale
Ngựa Clydesdale là một giống ngựa thuộc họ ngựa kéo có nguồn gốc từ những con ngựa nuôi trong trang trại của Lanarkshire, Scotland, và được đặt tên theo tên cũ của vùng này (Clydesdale). Mặc dù ban đầu nó là một giống ngựa nhỏ (ngựa giống nhỏ - Pony) thuộc họ ngựa kéo, nhưng ngày nay nó đã trở thành một giống ngựa cao lớn hơn rất nhiều. Những con ngựa này thường có màu nâu và có dấu hiệu trắng đáng kể trên trán do sự xuất hiện của gen trắng (sabino).
Chúng thường được sử dụng trong nông nghiệp và công việc kéo xe, và vẫn giữ được vai trò này đến ngày nay. Những con ngựa Clydesdale của Budweiser là một trong những con nổi tiếng nhất, và những con khác trong giống ngựa này được sử dụng làm ngựa đực giống cho Kỵ binh Hoàng gia Anh. Chúng cũng được sử dụng để cải thiện các giống ngựa khác thông qua quá trình lai tạo. Giống ngựa này đã phát triển từ những con ngựa Flemish nhập khẩu vào Scotland và lai tạo với các con ngựa địa phương. Cụ thể, việc sử dụng tên 'Clydesdale' cho giống ngựa này được ghi nhận lần đầu vào năm 1826, và từ năm 1830, hệ thống cho thuê ngựa đã giúp phổ cập ngựa Clydesdale khắp Scotland và miền Bắc nước Anh. Quá trình đăng ký giống (thiết lập bổn bang) lần đầu tiên được thực hiện vào năm 1877.
Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, hàng nghìn con ngựa Clydesdale đã được xuất khẩu từ Scotland và lan rộng ra khắp thế giới, bao gồm cả Úc và New Zealand, nơi chúng được biết đến với cái tên 'giống ngựa được tạo ra ở Úc'. Tuy nhiên, trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, dân số của giống ngựa này giảm mạnh do sự gia tăng của công nghiệp và chiến tranh. Sự suy giảm này kéo dài, và đến những năm 1970, tổ chức Rare Breeds Survival Trust xem giống ngựa này như có nguy cơ tuyệt chủng. Mặc dù có những nỗ lực để cứu giúp và dân số tăng nhẹ, đến năm 2010, giống ngựa Clydesdale vẫn được xem là dễ bị nguy cơ.
Vào những năm 90, sự phổ biến và số lượng ngựa Clydesdale đã tăng lên. Đến năm 2005, tổ chức Rare Breeds Survival Trust đã chuyển giống này từ tình trạng 'có nguy cơ' lên trạng thái dễ bị nguy cơ, với ít hơn 1.500 con ngựa nái ở Anh. Tuy nhiên, đến năm 2010, chúng đã quay trở lại tình trạng dễ bị nguy cơ. Các con ngựa Clydesdale được coi là cần được theo dõi bởi Tổ chức Bảo vệ Giống vật nuôi ở Mỹ, với dưới 2.500 con ngựa được đăng ký mỗi năm ở Mỹ và dưới 10.000 con trên toàn thế giới. Ước tính vào năm 2010, có khoảng 5.000 con ngựa Clydesdale trên toàn thế giới, với khoảng 4.000 con ở Hoa Kỳ và Canada, 800 con ở Anh, và phần còn lại ở các quốc gia khác nhau, bao gồm Nga, Nhật Bản, Đức và Nam Phi.
Đặc điểm nổi bật:
- Sự hình thành của giống ngựa Clydesdale đã trải qua nhiều thay đổi về hình dạng suốt lịch sử của nó. Trong những năm 1920 và 1930, nó là một ngựa nhỏ hơn so với các giống ngựa Shire, Percheron và Bỉ. Từ những năm 1940, yêu cầu của thị trường đã chọn lọc để tạo ra những con ngựa cao hơn, có vẻ ấn tượng hơn để tham gia diễu hành và biểu diễn. Ngày nay, chiều cao của Clydesdale dao động từ 16 đến 18 tay (64 đến 72 inch, 163 đến 183 cm), và cân nặng lên đến 1.800 đến 2.000 pound (820 đến 910 kg). Một số con có thể lớn hơn, vượt qua chiều cao 18 tay và cân nặng lên đến 2.200 pound (gần 1.000 kg).
- Chúng là loại ngựa kéo, có mặt thẳng hoặc hơi lồi, trán rộng và mõm rộng. Clydesdale nổi tiếng với cơ bắp, có cổ cơ bắp, vai rộng và vai nghiêng. Chất lượng của móng chân và cẳng chân cũng là yếu tố được chú trọng. Bước đi của chúng có sự chắc chắn và rõ ràng, tạo ấn tượng về sức mạnh và chất lượng. Clydesdale được mô tả như là 'trò vui về vận chuyển và triển vọng'.
- Có rủi ro mắc bệnh bạch huyết mãn tính tiến triển, một bệnh có các dấu hiệu như sưng phồng, tăng bạch cầu và xơ hóa các chi giống như bệnh bạch huyết mãn tính ở người. Một vấn đề khác là vết cháy nắng trên da chân dưới, còn được biết đến với tên gọi 'cái ngứa của Clyde', được cho là do một loại bệnh ho gà. Clydesdale cũng có thể phát triển vết cháy nắng trên các vùng da có màu hồng.
- Phần lớn Clydesdale có màu đậm, nhưng cũng có những cá thể màu đen, xám và hồng (màu dẻ) cũng xuất hiện. Thường thấy dấu hiệu trắng trên trán, chân và đôi khi trên cơ thể, đặc biệt là ở bụng dưới. Chúng cũng có lông rậm ở chi dưới. Vết roan, là dấu hiệu của màu sắc trắng rộng, được cho là kết quả của di truyền bạch tạng (Sabino). Một số nhà chăn nuôi muốn có khuôn mặt trắng và chân không có dấu vết trên cơ thể.
- Để có một bộ đánh dấu lý tưởng, Clydesdale thường có một chân trắng, ngược lại với những con có bốn chân trắng và có màu sabino rải đều trên cơ thể. Kết quả là những con ngựa với lượng dấu trắng mong muốn. Một số người chọn ngựa với màu nâu đậm (ngựa đậm) và ngựa đen, đặc biệt là những con có bốn chân trắng và dấu vết mặt trắng.
- Màu sắc thường được ưa chuộng hơn so với các đặc tính khác, và một số người mua thậm chí chọn con ngựa có vấn đề về sức khỏe nếu có màu sắc và dấu vết mong muốn. Mặc dù có ý kiến rằng những con ngựa này là cần thiết để duy trì màu sắc và cấu trúc lông mong muốn, các hiệp hội chăn nuôi không chấp nhận ý kiến này, và những con ngựa với vẻ ngoại hình rải rác và dấu hiệu trắng vẫn được chấp nhận.


7. Ngựa Cabardin
Ngựa Cabardin hay còn gọi là Cabardin có nguồn gốc từ nước Nga, phát triển vào thời kỳ Xô Viết và được nuôi phổ biến ở vùng cao nguyên Capcado và Zacapcado. Loài ngựa này đến nay đã có lịch sử hình thành trên 400 năm và đã được nhập về Việt Nam. Ngựa Cabardin là giống ngựa chuyên dụng, chịu lạnh tốt, thích hợp cho công việc chiến đấu, đua ngựa và kéo xe. Chúng có kích thước trung bình, thân mình dài, ngực nở và sâu. Lông màu cánh gián hoặc đen tuyền. Ngựa Cabardin chịu lạnh rất giỏi và nổi tiếng với khả năng chạy đường núi hiểm trở.
Đặc điểm nổi bật:
- Ngựa Cabardin là giống ngựa chuyên dụng, dùng làm ngựa chiến, ngựa đua và dùng để thồ kéo. Chúng chịu lạnh tốt và thích hợp với điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Có khả năng chạy đường núi hiểm trở và nổi tiếng với những cuộc đua quanh núi Capcadơ. Ngựa Cabardin Việt Nam hiện nay được nhiều người chăn nuôi lựa chọn để tăng thu nhập.
- Giống ngựa Cabardin có tầm vóc trung bình, dáng cao 1,4 đến 1,5m, nặng 350 đến 400 kg. Chúng chịu lạnh rất giỏi, thích hợp với điều kiện thời tiết khắc nghiệt như ở nước Nga và các nước Bắc Âu. Ngựa Cabardin có khả năng chạy đường núi hiểm trở, khó khăn và nổi tiếng với những cuộc đua quanh núi Capcadơ.
- Ngựa Cabardin là giống ngựa chuyên dụng, chịu lạnh tốt và thích hợp với điều kiện thời tiết khắc nghiệt. Có khả năng chạy đường núi hiểm trở và nổi tiếng với những cuộc đua quanh núi Capcadơ.


8. Ngựa Quarter
Ngựa Quarter hay còn được biết đến với tên gọi ngựa một phần tư dặm, là một giống ngựa có nguồn gốc từ Mỹ. Chúng được pha giống giữa ngựa thuần chủng và ngựa Tây Ban Nha cổ xưa. Ngựa Quarter thường được sử dụng trong các cuộc đua ngắn khoảng đua một phần tư dặm, vì vậy chúng còn được gọi là Quater Horse. Với tốc độ lên đến 88,5 km/h, chúng nhanh chóng và mạnh mẽ. Ngựa này còn được sử dụng trong chăn nuôi gia súc, đặc biệt là trong việc lùa bò ở các nông trại. Đầu nhỏ, thân hình cơ bắp, và chân sau mạnh mẽ là những đặc điểm nổi bật của giống ngựa này.
Ngựa Quarter xuất hiện trong nhiều màu sắc khác nhau, từ màu nâu, đen, đến các màu đặc biệt như grullo hay perlino. Với khả năng chạy nước rút, chúng được biết đến như 'vận động viên nhanh nhất thế giới' trong cuộc đua ngựa ngắn khoảng.


9. Ngựa Andalucia
Ngựa Andalucia hay còn được biết đến với cái tên quý phái PRE (Pura Raza Española), là biểu tượng của vùng bán đảo Iberia với lịch sử hơn ngàn năm. Được biết đến từ thế kỷ 15, ngựa Andalucia không chỉ là ngựa chiến mạnh mẽ mà còn là biểu tượng của tầng lớp quý tộc. Với bộ lông xám truyền thống, ngựa Andalusian không chỉ thu hút bởi vẻ ngoại hình thanh lịch mà còn bởi sự thông minh và ngoan ngoãn.


10. Ngựa Hackney
Ngựa Hackney, còn được biết đến với tên gọi Norflok Trotter, là một giống ngựa có nguồn gốc từ Anh và nổi tiếng với tính linh hoạt tuyệt vời. Tên gọi của giống ngựa này xuất phát từ thuật ngữ Anglo-Saxon 'hnegan', có nghĩa là hàng xóm, kết hợp với Norman bị hack, tạo nên một nguồn gốc từ tiếng Latinh có ý nghĩa về sức mạnh. Điều này thể hiện sự cổ xưa của giống ngựa Hackney. Thuật ngữ Hackney được lưu trữ vào thế kỷ 14 ở Anh.
Ngựa Hackney được phát triển ở Norfolk vào thế kỷ 14, khi vua Anh yêu cầu một giống ngựa mạnh mẽ nhưng vẫn thu hút, đặc biệt trong việc kéo xe. Chúng được sử dụng rộng rãi cho mục đích cưỡi ngựa và trở thành phương tiện vận chuyển chính trong thời kỳ đó. Vào năm 1542, vua Henry VIII thậm chí yêu cầu các tầng lớp giàu có giữ một số ngựa giống Hackney để phát triển giống ngựa này.
Đặc điểm nổi bật:
- Với chiều cao khoảng 155 cm
- Đầu nhỏ, hơi lồi với khuôn mặt nghiêng, và đôi tai nhỏ di động, thể hiện sự cảnh giác. Cổ dài và cong, dẫn đến vai và ngực rộng.
- Cơ thể nhỏ gọn và cấu trúc tốt với tấm lưng vạm vỡ, xương sườn tròn và gồ lên.
- Các chi trung bình, hoàn thiện với cơ bắp nhiều ở cẳng tay và đầu gối dài.
- Bộ lông mượt với các lớp màu đa dạng như hạt dẻ, sẫm hạt dẻ, piebald, và màu hạt dẻ đã trở nên phổ biến hơn.

