Phân tích về cảnh tự nhiên trong bài thơ Đoàn thuyền câu cá đặc sắc, được lựa chọn từ các bài văn xuất sắc của học sinh lớp 9 trên khắp đất nước, giúp học sinh có nguồn tài liệu tham khảo để viết văn dễ dàng hơn.
Tốp 10 bức tranh về cảnh tự nhiên với Đoàn thuyền câu cá (ấn tượng, ngắn gọn)
Bản dàn ý Phân tích cảnh tự nhiên trong bài thơ Đoàn thuyền câu cá
1. Giới thiệu
Giới thiệu về tác giả và tác phẩm, cùng với bức tranh tự nhiên trong bài thơ: Bài thơ “Đoàn thuyền câu cá” của Huy Cận mang lại tinh thần mới, sự phục sinh của một linh hồn và một quốc gia. Bài thơ là một bài ca về lao động thời đại mới của nhân dân sau nhiều năm chịu đựng đau khổ từ chiến tranh.
2. Nội dung chính
+ Bức tranh về tự nhiên trên biển khi hoàng hôn buông xuống: Mặt trời được tượng trưng như một viên thanh thanh đang lặn vào lòng biển, tạo nên cảm giác về sự di chuyển, lưu trôi của thời gian, sự tan biến của ban mai vào đêm tối
+ Bức tranh về tự nhiên với sự phong phú và giàu có của biển cả: Đàn cá được mô tả như một đoàn thoi biểu hiện sự nhiều năng và nhanh chóng, những dòng sáng dưới đáy biển là những loài sinh vật biển tạo nên sự sống phồn thịnh của biển cả
+ Bức tranh tự nhiên rất thơ mộng: Sự kết hợp màu sắc của tự nhiên với màu sắc của các loài cá trên biển tạo ra những gam màu rực rỡ: lấp lánh, đen hồng, vàng óng,…
+ Vẻ đẹp tự nhiên khi đoàn thuyền quay trở lại: Ánh sáng của mặt trời lan tỏa khắp biển không chỉ thể hiện vẻ đẹp tự nhiên mà còn là biểu tượng của sự tái sinh của đất nước, của người lao động chăm chỉ.
3. Tóm tắt
Ý nghĩa của bức tranh tự nhiên trong bài thơ: Qua bức tranh tự nhiên biển trong bài thơ, chúng ta được trải nghiệm một hình ảnh tuyệt vời, cuốn hút và rực rỡ. Đồng thời, cảm nhận được sức sống mạnh mẽ và vẻ đẹp của người lao động khỏe mạnh, hăng hái lao động.
Phân tích bức tranh tự nhiên trong bài thơ Đoàn thuyền câu cá - mẫu 1
Bài thơ “Đoàn thuyền câu cá” của Huy Cận mang hồn thơ của một sức sống mới, sự hồi sinh của một tâm hồn và một quốc gia. Bài thơ là một bài ca về lao động thời đại mới của nhân dân sau nhiều năm chịu đựng đau khổ lửa đạn. Trong bài thơ, không chỉ xuất hiện hình ảnh của người thợ cá lao động mà còn là bức tranh tự nhiên hùng vĩ, tráng lệ và kỳ diệu của biển cả bao la.
Ngay từ đầu bài thơ, chúng ta được chứng kiến một cảnh tự nhiên trên biển vào lúc hoàng hôn, một khung cảnh vô cùng huy hoàng và tráng lệ:
“Mặt trời chìm xuống biển như một viên than lửa
Sóng đã cài then, đêm sụp cửa”
Hình ảnh mặt trời được nhân hóa và so sánh như một viên than lửa đang lặn vào lòng biển, tạo nên một tín hiệu về sự di chuyển, trôi chảy của thời gian, ngày tàn đêm đến. “Sóng” và “đêm” được nhân hóa với hành động cài then, sụp cửa, cho ta thấy biển cả như một căn nhà lớn đang đóng cửa trước khi đêm buông xuống, dường như thiên nhiên cũng đang “dọn dẹp” để nghỉ ngơi. Chuyến ra khơi của đoàn thuyền câu cá đã thể hiện sự giàu có và phong phú của biển cả:
“Cá thu biển Đông như một đàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng”
Những đàn cá thu được so sánh như “đàn thoi” thể hiện sự nhiều năng và nhanh chóng, những “luồng sáng” dưới đáy biển chính là các loài hải sản làm nên sự sống của biển cả. Chiếc thuyền ra khơi xa, ngư dân bắt đầu giăng lưới, dàn trận đánh bắt cá:
“Cá nhụ, cá chim, cá đè,…
Cá lấp lánh trong ánh đèn hồng, đen,
Đuôi cá quẫy phát ra ánh sáng vàng óng,
Trên biển đêm như nhấp nhô ánh trăng Hạ Long”
Nghệ thuật đề cập đến các loài cá thể hiện sự phong phú và đa dạng của biển cả, biển không chỉ giàu có mà còn mang một vẻ đẹp thơ mộng. Sự kết hợp giữa màu sắc của tự nhiên và màu sắc của các loài cá trên biển tạo ra những màu sắc rực rỡ: lấp lánh, đen hồng, vàng óng,… Những đàn cá tung tăng quẫy đuôi dưới mặt nước khiến cho ánh trăng phản chiếu trên mặt nước như tan chảy thành một biển trăng. Biển cả được mô tả như một cái lồng ngực của một người khổng lồ đang thở những hơi thở đều đặn, không gian biển cả qua góc nhìn của tác giả vừa thực vừa tưởng, toát lên vẻ lãng mạn và bay bổng.
“Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng…
Lưới xếp buồm lên đón ánh nắng hồng”
Chùm cá nặng là biểu hiện của một mùa lao động bội thu, ánh nắng hồng của bình minh kết hợp với màu sắc của cá bạc đã làm tăng thêm sự giàu có và quý giá của biển cả đối với con người. Vẻ đẹp thiên nhiên trong những câu thơ cuối bài là một bức tranh khác, với bình minh hiện lên lung linh và rực rỡ, kết hợp với đoàn thuyền thắng lợi trở về:
“Đoàn thuyền tranh đua cùng mặt trời…
Mắt cá lấp lánh trong muôn dặm sóng”
Hình ảnh mặt trời từ đầu đến cuối bài thơ đã diễn tả một chu trình hoạt động của người dân miền biển. Ánh sáng của mặt trời rọi khắp nơi trên biển không chỉ thể hiện vẻ đẹp tự nhiên mà còn là biểu tượng của sự hồi sinh của đất nước và của người lao động.
Qua bức tranh tự nhiên miền biển trong bài thơ, chúng ta cảm nhận được một bức tranh tuyệt vời, lôi cuốn và rực rỡ. Đồng thời, cảm nhận được sức sống mãnh liệt và vẻ đẹp của người lao động khỏe mạnh, tươi vui, hăng say lao động.
Phân tích bức tranh tự nhiên trong bài thơ Đoàn thuyền câu cá - mẫu 2
Sau cách mạng, tinh thần thơ của Huy Cận đã trải qua những biến động mới, ông đã tìm thấy ánh sáng, con đường và lý tưởng cho bản thân. Huy Cận trở nên hăng hái hơn, làm cho những bài thơ của ông trở nên tươi sáng hơn, tràn ngập tình yêu cuộc sống và yêu thiên nhiên đất nước. Trong chuyến đi thực tế đến Quảng Ninh, ông đã sáng tác tác phẩm “Đoàn thuyền đánh cá”, không chỉ vẽ lên vẻ đẹp của con người mà qua đó còn làm nổi bật vẻ đẹp trù phú của quê hương, đất nước.
Thiên nhiên được mô tả theo trình tự vận động từ hoàng hôn đến minh bình với khung cảnh biến đổi mạnh mẽ. Mặc dù có vẻ như cảnh vật ngừng lại sau một ngày dài, thực tế lại liên tục biến đổi, làm cho khung cảnh thiên nhiên trở nên sống động hơn.
Bài thơ mở đầu với hình ảnh mặt trời dần dần lặn vào đại dương, hình ảnh này được Huy Cận tái hiện rất huy hoàng:
'Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa.'
Tác giả đã khéo léo kết hợp những hình ảnh cụ thể như mặt trời, sóng, biển với các biện pháp so sánh, nhân hóa để tạo ra một bức tranh hoàng hôn tuyệt đẹp. Mặt trời được ví như một hòn lửa khổng lồ từ từ chìm vào biển, mất vào bóng tối của đêm yên bình. Sóng và biển được nhân hóa như những sinh vật, để đánh dấu sự nghỉ ngơi thực sự của mặt trời. Nhưng ở đây chỉ có mặt trời đi ngủ, còn tất cả các sự vật khác lại như bừng thức :
'Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng
Cá thu biển Đông như đoàn thoi.'
Bút pháp tả thực kết hợp với trí tưởng tượng phong phú, những con cá thu được ví như những đoàn thoi, với tốc độ bơi nhanh, tạo ra một tấm vải khổng lồ giữa biển cả, làm cho không gian trở nên sáng rực, phong phú. Sự phong phú ấy tiếp tục được tác giả liệt kê ở khổ thơ tiếp theo, không chỉ có cá bạc và cá thu mà còn có hàng nghìn loài cá khác : cá nhụ, cá chim, cá đé, cá song,… Với hình thức liệt kê này, ông đã khẳng định và ca ngợi tài nguyên phong phú, dồi dào của đất nước. Đặc biệt ở khổ thơ thứ tư, Huy Cận đã sử dụng những nét bút tài tình, vẽ lên một bức tranh sơn mài tuyệt đẹp. Bức tranh được sáng tạo dựa trên trí tưởng tượng, sự liên tưởng bay bổng, mơ mộng nhưng vẫn có cơ sở hiện thực. Trên nền cảnh đêm tối, với ánh trăng trên cao chiếu sáng, cảnh vật trở nên huyền bí, mơ hồ. Trong không gian ấy, mọi sự vận động của thiên nhiên đều trở nên lấp lánh, phát ra thứ ánh sáng diệu kì: chiếc đuôi của cá song lấp lánh đuốc đen hồng, với hành động cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe đã khiến bức tranh trở nên đa dạng về màu sắc, sinh động, có hồn hơn. Vẻ đẹp thiên nhiên thật đẹp đẽ, tràn đầy sức sống: Đêm thở sao lùa nước Hạ Long. Thiên nhiên trù phú, giàu có chính là nguồn sống nuôi dưỡng con người khôn lớn, trưởng thành, bởi vậy, ngay sau đó, tiếng thơ tha thiết như một lời cảm ơn chân thành của đứa con với bà mẹ biển cả: Biển cho ta cá như lòng mẹ/ Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Thời gian luôn chuyển động không ngừng, sau một đêm dài nghỉ ngơi, mặt trời bắt đầu lóe sáng lên. Dòng thơ: Mặt trời đua biển rạng sáng/ Mắt cá long lanh trải xa, thể hiện rằng sự huy hoàng của bình minh không kém phần lấp lánh so với hoàng hôn. Màu mới ở đây là màu gì? Có thể hiểu màu mới là ánh nắng bình minh, luôn sáng rực, đẹp đẽ hơn, nó chứa đựng vẻ đẹp của sự bắt đầu, sự sống. Hình ảnh đẹp nhất, thể hiện rõ nhất bút pháp lãng mạn của Huy Cận là câu thơ cuối cùng: Mắt cá long lanh trải xa. Hình ảnh này như là một tượng trưng cho vẻ rực rỡ của bình minh, cũng như sự phong phú, giàu có của biển cả. Đây thực sự là một câu thơ tuyệt vời, thể hiện được tài năng nghệ thuật và trí tưởng tượng độc đáo của Huy Cận.
Bức tranh thiên nhiên biển cả được tạo ra từ trí tưởng tượng độc đáo, cùng với bút pháp sáng tạo, phóng đại. Bằng cách linh hoạt kết hợp các biện pháp nghệ thuật như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ (mặt trời như hòn lửa, cá như đoàn thoi, mắt cá,…) tác giả đã tái hiện một cách sống động bức tranh thiên nhiên đẹp đẽ, tràn đầy sức sống, một thiên nhiên giàu có và trù phú.
Qua bức tranh thiên nhiên, ta có thể nhìn thấy tài năng quan sát, trí tưởng tượng phong phú, tài hoa của Huy Cận. Không chỉ thế, chúng ta cũng thấy được vẻ đẹp trù phú của quê hương đất nước. Đây chính là sự hồi sinh của thiên nhiên sau bao năm gánh chịu nỗi đau chiến tranh. Thiên nhiên cũng giống như con người, hằng ngày đều hồi sinh, làm phong phú cho tổ quốc. Tác phẩm này như một bài ca ca ngợi vẻ đẹp của đất nước Việt Nam.
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 3
Năm 1958, trong bối cảnh phong trào viết về cuộc sống lao động xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Huy Cận cũng cảm thấy hứng thú và tham gia. Đoàn thuyền đánh cá là sản phẩm của chuyến đi thực tế dài ngày của nhà thơ tới vùng mỏ Quảng Ninh. Bài thơ là sự lên tiếng trước vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước, của con người và niềm vui, niềm tin trước cuộc sống mới. Đặc biệt, vẻ đẹp của thiên nhiên được mô tả một cách sống động và đẹp đẽ.
Bài thơ mở đầu với việc tác giả khen ngợi vẻ đẹp của thiên nhiên đất nước thông qua hình ảnh hoàng hôn trên bến cảng quê hương:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Trong thơ, không gian là biển cả, thời gian là buổi hoàng hôn. Trong thơ cổ, không gian và thời gian này thường gắn liền với nỗi buồn, niềm chia ly. Nhưng trong thơ của Huy Cận, cảnh sắc lại rất tươi tắn, không chứa đựng nỗi buồn nào. Nhà thơ nhân hoá mặt trời như khách mời của vũ trụ, biển cả là ngôi nhà trần thế, sóng biển dạt dào là những then cài vững chắc, màn đêm là cửa sập… Viết về thiên nhiên, vũ trụ rộng lớn nhưng thiên nhiên ấy không xa lạ mà ấm áp hơi thở của cuộc sống. Các động từ “cài”, “sập” diễn tả hành động mạnh mẽ, dứt khoát khi vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi, yên bình hoàn toàn.
Thay vì sự sống trên biển kết thúc, bức tranh mới mở ra với lao động của con người. Không tập trung vào việc mô tả hành động cụ thể của lao động, tác giả ca ngợi sự phong phú, rộng lượng của biển cả:
Hát rằng: cá bạc biển Đông yên lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Cá nhụ, cá chim và cá đé,
Cá song tỏa sáng như đuốc đen hồng,
Đuôi cá reo lên dưới ánh trăng vàng,
Đêm hát: sao lùa nước Hạ Long.
Liệt kê một loạt các loài cá quý giá thể hiện sự phong phú, giàu có của biển Đông. So sánh cá như “đoàn thoi”, nhân hoá chúng “dệt” tấm lụa trắng lung linh trong lòng biển nhằm tôn vinh vẻ đẹp huyền ảo của biển đêm. Phép liên tưởng độc đáo và sáng tạo “cá Song tỏa sáng như đuốc đen hồng” phản ánh vẻ đẹp của đêm hội hoa đăng dưới lòng biển. Cá bơi thành đàn như rước đuốc, đuôi cá reo lên tạo nên ánh trăng vàng lung linh. Một bức tranh sơn mài với những màu sắc rực rỡ, lộng lẫy. Biển quê hương đầy ắp ân tình nuôi dưỡng biết bao thế hệ
Biển ban cho chúng ta như một người mẹ,
Đã nuôi lớn chúng ta từ thuở nào
So sánh lòng biển với lòng mẹ. Tình mẹ bao la, hy sinh hết mực như biển quê hương đã nuôi dưỡng bao đời nay những thế hệ lớn lên từ các làng chài. Câu thơ là lời tri ân biển, bộc lộ những ân tình sâu sắc của biển Quê hương. Nếu mở đầu bài thơ là cảnh đoàn thuyền mạnh mẽ ra khơi trong buổi hoàng hôn nắng tắt thì kết thúc bài thơ là hình ảnh rạng đông, bình minh ngày mới, đoàn thuyền trở về với chiến lợi phẩm:
Vảy bạc, đuôi vàng loé rạng sáng
Lưới xếp buồm lên đón ánh nắng hồng”
Mặt trời đọa biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi
Các tính từ chỉ màu sắc “bạc”,” vàng”, “hồng” diễn tả sự sáng sủa của buổi bình minh. Phép nhân hoá vầng mặt trời “đọa biển” khoe màu của ngày mới khiến câu thơ trở nên phong phú trong biểu cảm. Bình minh bắt đầu từ đêm tối. Màu mới có thể hiểu là hình ảnh của cuộc sống mới mang lại niềm vui cho con người lao động.
Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú. Giọng thơ mang âm hưởng mạnh mẽ, hào hùng và lạc quan. Với bút pháp lãng mạn, Huy Cận đã tạo ra nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ, thể hiện sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước cuộc sống lao động mới.
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 4
Nếu như trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận được biết đến với những bài thơ chứa đựng nỗi buồn, 'nỗi sầu nhân thế' thì sau Cách mạng tháng Tám, trong thơ ông lại tràn đầy niềm vui, niềm lạc quan gắn chặt với công cuộc thay đổi của cuộc sống mới. Điều này đã được thể hiện rõ qua bài thơ 'Đoàn thuyền đánh cá' - kết quả của chuyến đi thực tế tại vùng mỏ Quảng Ninh của tác giả. Trong tác phẩm, công cuộc lao động cùng sự thay đổi trong cuộc sống mới đã được làm nổi bật thông qua hình ảnh con người lao động và bức tranh thiên nhiên.
Mở đầu tác phẩm, vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên đã được miêu tả qua buổi hoàng hôn khi đoàn thuyền đánh cá bắt đầu ra khơi:
'Mặt trời lặn xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa'
Trên phông nền ánh hoàng hôn của buổi chiều tà, mặt trời từ từ khuất sau phía tây với sự so sánh độc đáo 'như hòn lửa'. Hình ảnh này miêu tả mặt trời chìm xuống đại dương với sắc đỏ rực, cùng với đó là biểu hiện của dòng thời gian trong sự biến động kỳ vĩ và tráng lệ. Vẻ đẹp của thiên nhiên được nhấn mạnh qua phép nhân hoá 'Sóng đã cài then, đêm sập cửa'. Những con sóng vỗ vào bờ như những chiếc then cài, kết thúc màn đêm như đóng kín cánh cửa của biển. Vũ trụ được mô tả như một ngôi nhà lớn thân thuộc, gần gũi với con người.
Bức tranh thiên nhiên còn được tôn vinh với sự giàu có, trù phú của biển cả. Đó là những đoàn cá 'cá bạc biển Đông lặng', 'Cá thu biển Đông như đoàn thoi' hiện lên với âm hưởng ngợi ca, tự hào và biết ơn đối với những món quà mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người. Và hành trình đoàn thuyền đánh cá trên biển luôn gắn bó chặt chẽ với sự phong phú, giàu có của tài nguyên thiên nhiên:
'Cá nhụ cá chim cùng cá đé
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng
Cá đuôi em quẫy trăng vàng chóe
Đêm thở: Sao lùa nước Hạ Long'
Bức tranh thiên nhiên được phác họa bằng cách liệt kê, khiến những loài cá hiện lên sinh động, chân thực nhưng cũng vô cùng lộng lẫy và kỳ vĩ. Đó là 'cá song lấp lánh đuốc đen hồng' miêu tả những chú cá song, thân dài và có chấm nhỏ màu đen hồng xuất hiện trên vảy, đồng thời gợi ra hình ảnh đoàn cá mang vẻ đẹp lấp lánh như những cây đuốc được thắp sáng giữa đêm trăng. Đó là những con cá 'đuôi em' đang vui đùa cùng làn nước như 'quẫy trăng vàng chóe', góp phần tô điểm cho một đêm trăng đẹp, lung linh ánh nước mờ ảo. Những con sóng cũng mang trong mình nhịp thở của biển, khiến cho bức tranh thiên nhiên hiện lên gần gũi, thân thuộc.
Khi đoàn thuyền trở về trong khúc hát của lòng biết ơn, thiên nhiên hiện lên với vẻ đẹp mộng mơ, trữ tình:
'Mặt trời đạt biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm khơi'
Vòng tuần hoàn của thời gian được khám phá qua sự chuyển động từ lúc hoàng hôn - đoàn thuyền đánh cá ra khơi đến khi mặt trời ló dạng - đoàn thuyền đánh cá trở về. Lúc này, vẻ đẹp của thiên nhiên tái sinh lại trong 'Mặt trời đội biển nhô màu mới'. Đồng thời, hình ảnh của muôn triệu mắt cá li ti trong ánh rạng đông không chỉ thể hiện sự phong phú của thiên nhiên mà còn chứa đựng niềm vui và thành quả của lao động ngư dân.
Tác giả đã thành công trong việc sử dụng hình ảnh thơ phong phú và vũ trụ để miêu tả vẻ đẹp của thiên nhiên. Qua bức tranh thiên nhiên, chúng ta nhận thấy lòng biết ơn của con người đối với những món quà từ mẹ thiên nhiên. Đồng thời, vẻ đẹp của bức tranh cũng là nền tảng để nhấn mạnh hình tượng con người lao động chiến thắng thiên nhiên, đất trời.
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 5
Trước Cách mạng tháng Tám, Huy Cận nổi tiếng với thơ mang tính biểu hiện cao của phong trào Thơ mới. Tiếng thơ 'ảo não' chứa đựng 'nỗi sầu vạn cổ', 'nỗi buồn thiên thu' của ông thể hiện tâm trạng chung của tầng lớp tiểu tư sản. Tuy nhiên, trong thơ Huy Cận, cũng như trong Đoàn thuyền đánh cá, ta cảm nhận rõ khát vọng kết nối giữa con người và vũ trụ, giữa con người và thiên nhiên. Sau Cách mạng, với làn gió mới từ cách mạng, thơ Huy Cận tràn ngập niềm vui, hòa mình vào cuộc chiến của dân tộc, và sự hồi sinh từng ngày của quê hương. Điều này tạo nên màu sắc rạng rỡ cho những bài thơ của ông.
Đoàn thuyền đánh cá là bài ca về lao động ngư dân, những người sống và làm việc gần biển. Trong bài thơ, con người và thiên nhiên, trời biển, vũ trụ luôn hòa hợp, gắn bó với nhau, chiếu sáng lẫn nhau để tạo nên bức tranh ca ngợi lao động hùng vĩ.
Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh thiên nhiên, vũ trụ hiện lên độc đáo qua góc nhìn lãng mạn, bay bổng:
Mặt trời lặn xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Hai câu thơ ngắn nhưng như vẽ nên một bức tranh hoàn mĩ, sống động về cảnh hoàng hôn trên biển. Mặt trời cuối ngày từ từ 'xuống biển', mang theo những tia nắng cuối cùng của một ngày, như một 'hòn lửa' khổng lồ. Đây là một sự so sánh độc đáo. Ta có cảm giác như cả một vùng biển dát hồng, lẫn màu trời chạng vạng theo những con sóng bạc đầu tạo nên một cảnh sắc tuyệt đẹp giữa vùng trời nước hòa nhập làm một. Hoàng hôn nhưng vũ trụ không gợi lên cảm giác tàn lụi mà lại chuyển động khỏe khoắn. Điều này khác xa với phong cách của Huy Cận trước cách mạng tháng Tám - một con người luôn cô đơn, nhỏ bé, một mình ôm 'mối sầu vạn cổ' đối diện với vũ trụ bao la, rợn ngợp. Ở đây, cũng là trời biển mênh mông nhưng con người như hòa nhập cùng nhịp đập của thiên nhiên. Biện pháp nhân hoá tài tình không chỉ cho ta thấy một cây bút tài hoa mà còn làm hiện lên trước mắt ta một khung cảnh thiên nhiên trác tuyệt : sóng biển như chiếc then cửa, nhốt ánh sáng bằng một động tác 'sập cửa' mau lẹ. Thiên nhiên hùng vĩ, mênh mang mà cũng gần gũi biết bao khi được ví với những thứ thân thuộc trong ngôi nhà của mỗi người. Thì ra Huy Cận đang nhìn biển bằng con mắt của những người ngư dân gắn bó cả đời với biển, coi biển là nhà. Và khi thiên nhiên ngừng nghỉ sau một ngày chiếu sáng vất vả thì cũng là lúc người dân chài bắt đầu hành trình của một ngày lao động mới. Những người con khoẻ khoắn của biển hào hứng ra khơi :
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Tinh thần lao động hăng say khiến họ quên mất màn đêm đang bao trùm biển cả, không ngại khó, sợ khổ. Một cụm từ “lại ra khơi” đủ để Huy Cận khắc họa cho người đọc thấy đây là công việc hết sức quen thuộc với những ngư dân này. Nhưng quen thuộc mà không hề tẻ nhạt, nhàm chán, trái lại vẫn tràn đầy hứng khởi, say mê. Niềm say mê ấy cất lên thành khúc hát:
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Câu hát chính là lòng say mê, là tinh thần lao động nhiệt thành của con người vang lên, để hòa nhập cùng biển khơi mênh mông. Chính tiếng hát ấy đã nâng con người lên ngang tầm vũ trụ. Câu hát - cánh buồm - gió khơi biểu thị cho mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên - tất cả cùng hòa nhập, trở thành động lực đưa con thuyền tiến ra biển cả hùng vĩ. Và đoàn thuyền ra khơi mang theo khúc hát lên đường tràn đầy hứa hẹn, hi vọng vào một thành quả lao động tốt đẹp của những người dân chài.
Khổ thơ ngắn nhưng tràn ngập hình ảnh. Nghệ thuật liên tưởng, so sánh, nhân hoá độc đáo đã giúp Huy Cận dựng lên một bức tranh hùng vĩ về thiên nhiên và con người. Những nét vẻ khoẻ khoắn của cây bút tài hoa ấy tiếp tục được thể hiện trong những dòng thơ tiếp theo, mang đến cho ta những ấn tượng hết sức độc đáo :
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Con người và thiên nhiên cùng hòa nhịp với vũ trụ bao la. Khoảng không vũ trụ được đo bằng trời, bằng biển - một không gian thoáng đãng, vượt ra khỏi tầm mắt con người nhưng ấm áp chứ không lạnh lẽo kiểu “Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”. Hình ảnh con thuyền là một sáng tạo độc đáo của Huy Cận. Ta chợt nhớ tới những câu thơ của Tế Hanh :
Chiếc thuyền hăng như con tuấn mã
Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang
Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng
Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.
(Tế Hanh - Quê hương)
Nếu như con thuyền trong Quê hương hiện lên như một con “tuấn mã”, mạnh mẽ, hùng hực khí thế thì con thuyền của Huy Cận lại mang nhiều nét bay bổng, lãng mạn hơn. Tế Hanh gắn cho con thuyền của mình những động từ, tính từ mạnh : hăng, phăng, mạnh mẽ, rướn,… trong khi Huy Cận lại vẽ con thuyền của mình bằng những nét nhẹ nhàng, nên thơ khi gắn nó với những hình ảnh của thiên nhiên : người cầm lái là gió trời, cánh buồm là vầng trăng. Thuyền và người hoà nhịp vào thiên nhiên, hòa trong cái thơ mộng gió trăng, trời biển. Con thuyền đánh cá quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của người dân chài tựa như được gió trời, khí biển chắp cánh hay chính tâm hồn phơi phới của con người đã thổi hồn vào đó, biến nó thành chiếc thuyền lung linh, lướt nhẹ giữa thiên nhiên rộng lớn, tươi đẹp ? Giữa khung cảnh kì vĩ ấy, con người bắt tay vào công việc lao động :
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.
Đoàn thuyền đánh cá trên biển như một đoàn quân ra trận, cũng “dò”, “dàn đan thế trận”, “vây giăng”. Huy Cận đã sử dụng một loạt những từ ngữ thuộc lĩnh vực quân sự nhưng không hề làm cho câu thơ trở nên khô khan, mà ngược lại, mang đến cho ta những hình dung lí thú về công việc đánh cá của những người dân chài. Giữa biển khơi bao la hùng vĩ, con người không hề sợ hãi có lẽ vì một điều hết sức giản dị mà sâu sắc : biển là người mẹ gắn bó, nâng đỡ con người:
Biển cho ta cá như lòng mẹ
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.
Biển mãi mãi vẫn như vậy, dù có lúc bão táp sóng cồn nhưng vẫn luôn hiền hậu, ân cần với con người. Biển phong phú là thế giới của vô vàn loài cá :
Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.
Đêm thở, sao lùa nước Hạ Long.
Hai câu thơ đầu tiên dường như chỉ là việc liệt kê tên của các loài cá trong biển, nhưng lại mang lại cho người đọc những cảm xúc thẩm mỹ độc đáo. Một sự liên tưởng, so sánh thú vị : cá song như những ngọn đuốc, làm cho biển đêm thêm màu sắc lấp lánh. Những chú cá vui đùa dưới ánh trăng, quẫy đuôi, làm vỡ ánh trăng chiếu bóng trên mặt nước, sắc “vàng chóe” của trăng hòa cùng những chấm màu hồng của cá, sáng rực lên trong đêm, tạo nên vẻ đẹp huyền diệu, kì lạ. Biển như cung điện lộng lẫy sắc màu và trăng cùng các chú cá tham gia vào một vũ hội thần tiên. Vũ hội ấy còn có sự tham gia của những vì sao bạt ngàn. Tác giả đã thể hiện khả năng liên tưởng tuyệt vời của mình qua hình ảnh nhân hoá : “Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”. Đêm yên bình, biển êm đềm, những đợt sóng nhẹ nhàng tạo ra hơi thở của đêm. Mọi vật trong vũ trụ như đang hòa cùng nhau để bàn tay tài hoa của người nghệ sĩ tạo ra một bức tranh đẹp tuyệt vời.
Biển phong phú là thế, thiên nhiên đẹp là như vậy, thơ là như vậy, làm cho công việc lao động của con người trở nên thú vị biết bao. Ta không nhận ra ở đây bóng dáng của sự mệt nhọc trong công việc chài lưới, bởi có thiên nhiên giúp đỡ :
Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.
Bài ca lao động mạnh mẽ của con người vang lên, hòa cùng nhịp gõ thuyền của vầng trăng trên cao. Thiên nhiên, con người hòa mình trong niềm đam mê lao động :
Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.
Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.
Thiên nhiên đang dần chuyển hóa và một ngày làm việc của con người cũng sắp kết thúc. Huy Cận hiện lên như một bức tượng của ngư dân trong tư thế làm chủ thiên nhiên, mạnh mẽ, quyến rũ, tương đương với vũ trụ : “Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”. Công việc nặng nhọc của người đánh cá đã trở thành bài hát vui vẻ, hòa mình cùng thiên nhiên, thể hiện tinh thần lao động nhiệt huyết, chăm chỉ và hiệu quả cao:
Phân tích bức tranh thiên nhiên trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá - mẫu 6
Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc đã tạo ra một phong trào Mỗi người làm hai, với mục tiêu xây dựng miền Bắc và hỗ trợ chiến trường miền Nam. Khắp nơi, mọi người lao động không ngừng, không ngại khó khăn. Với tinh thần đó, các nhà văn, nhà thơ đã chân thành gắn bó với cuộc sống của người lao động để phản ánh và ca ngợi họ. Trong số đó, Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận là một tác phẩm ấn tượng nhất.
Nhà thơ Huy Cận (1919-2005), tên thật Cù Huy Cận, người quê ở làng Ân Phú, huyện Vũ Quang (trước thuộc huyện Hương Sơn, nay là Đức Thọ), tỉnh Hà Tĩnh. Với hơn sáu mươi năm hoạt động trong văn học nói chung và làm thơ nói riêng, với nhiều tác phẩm thơ từ nỗi buồn cổ điển đến niềm vui hiện đại, Huy Cận luôn liên kết chặt chẽ với cuộc sống của dân tộc. Đoàn thuyền đánh cá thể hiện sự kết hợp giữa cảm xúc lãng mạn và cảm xúc về thiên nhiên, vũ trụ của Huy Cận. Bài thơ được tổ chức theo chuyến đi ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Hai dòng đầu tiên là cảnh đoàn thuyền ra khơi và sự phấn khích của con người, bốn dòng tiếp theo là hoạt động của đoàn thuyền đánh cá và dòng cuối cùng là cảnh đoàn thuyền trở về trong bình minh của một ngày mới.
Nhà thơ Huy Cận đã chia sẻ: Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá nằm trong cảm hứng chung của tôi trong những năm đầu của xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tôi đã viết bài thơ khá nhanh chóng, chỉ trong vài giờ chiều trên biển Hạ Long. Bài thơ được viết một cách liền mạch và chỉ cần ít sửa chữa. Tôi tin rằng điều đó không phải là ngẫu nhiên mà thực sự là cảm hứng đã được tích tụ trên một chủ đề quen thuộc của tôi và được thể hiện trong không khí vui vẻ của những năm đầu của xây dựng chủ nghĩa xã hội. (Huy Cận, Tác phẩm văn học, NXB Văn học, 2001).
Bài thơ mở đầu với hình ảnh của đoàn thuyền ra khơi:
Mặt trời rơi xuống biển như một tia lửa
Sóng đã đặt then dấu cửa tối
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Với phong cách thơ đậm chất, và đôi mắt tinh tế, tác giả đã lựa chọn thời điểm đặc biệt của hoàng hôn. Mặt trời lặn dần vào lòng biển như một ngọn lửa. So sánh này đã tạo ra một không gian tráng lệ, làm say lòng người. Nhưng vẻ đẹp chỉ tồn tại trong phút chốc trước khi đêm buông xuống. Sóng cài then, đêm sập cửa đã thể hiện sự chuyển giao của không gian. Sau một ngày làm việc, vũ trụ nghỉ ngơi. Trong khi đó, con người lại bắt đầu lao động. Sự đối lập giữa thiên nhiên và con người cùng với nghệ thuật độc đáo đã tạo ra một không gian lộng lẫy, gợi cảm xúc cho người đọc. Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi, làm nổi bật việc công việc này không phải lần đầu tiên mà nó diễn ra thường xuyên. Đi biển không chỉ là công việc của con thuyền mà cả đoàn thuyền. Họ ra khơi với tinh thần đoàn kết, phấn khởi, lạc quan, và nhiệt huyết trong lao động. Tinh thần này được thể hiện qua câu hát mạnh mẽ, lời hát hòa với gió, thổi căng buồm đẩy thuyền đi xa.
Trong khổ thơ tiếp theo, tác giả mô tả về vẻ đẹp đặc biệt của người dân làng chài:
Hát về cá bạc biển Đông yên bình
Cá thu biển Đông giống như một đoàn thoi
Đêm ngày dệt lưới tỏa sáng
Đến lúc dệt lưới, chúng ta là một đoàn cá
Những người đi biển hát không chỉ để thể hiện tinh thần lạc quan và sự khí thế trong công việc mà còn thể hiện niềm hy vọng của họ. Đi biển, từ thuở cổ đại đến nay, luôn là một phần không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Do đó, trong câu hát, ta cảm nhận được ước mong của họ. Đó là ước mong về biển yên bình, gặp được đàn cá để bắt. Giọng điệu của lời thơ ngọt ngào, dài lâu và xa xôi. Các hình ảnh của cá được so sánh, ám chỉ những đặc điểm độc đáo, tạo ra cảm giác thú vị về con người lao động trong việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc.
Trong khổ thơ thứ ba, hình ảnh con thuyền cùng cảnh đánh bắt cá trên biển được mô tả chi tiết:
Thuyền ta lái gió, buồm trăng
Lướt giữa mây cao, biển bao la
Ra đậu dặm xa, dò bụng biển
Dàn đan thế trận, lưới vây giăng
Toàn bộ khổ thơ có thể được xem như một bức tranh sơn mài lộng lẫy. Tất cả các hình ảnh: mây, nước, sao, trời được miêu tả bằng ngôn từ lung linh, huyền ảo. Đặc biệt, hình ảnh con thuyền vừa thực tế vừa lãng mạn. Lái gió, buồm trăng - khi đọc, ta cảm nhận thiên nhiên cũng tham gia vào quá trình đánh bắt. Trăng sao như soi rõ hơn giúp con người phát hiện ra đàn cá. Trong biển rộng lớn, trời và biển hòa quyện vào nhau. Còn với người dân làng chài, họ được miêu tả với tinh thần chủ động, sáng tạo trong công việc, bố trí đánh bắt cá như một trận đánh. Với tinh thần lao động tích cực, lạc quan như thế, hiệu quả chắc chắn sẽ cao hơn. Trong khổ thơ cuối cùng, tác giả tập trung mô tả sự phong phú của biển cả: