Phân tích kỹ thuật mô tả cảnh trong Cảnh ngày xuân, lựa chọn tỉ mỉ từ những bài văn xuất sắc của học sinh lớp 9 trên khắp đất nước, giúp học sinh lớp 9 có nguồn tư liệu tham khảo để viết văn dễ dàng hơn.
Top 10 Kỹ thuật mô tả cảnh trong Cảnh ngày xuân (ấn tượng, ngắn gọn)
Dàn ý Phân tích kỹ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân
1. Khởi đầu
- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du, tác phẩm Truyện Kiều và đoạn trích Cảnh ngày xuân
- Kỹ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn trích Cảnh ngày xuân thể hiện tình cảm mạnh mẽ của tác giả đối với thiên nhiên và con người.
II. Phần chính
- Nghệ thuật sử dụng hình ảnh ước lệ cổ điển trong thơ cổ, sáng tạo bằng cách mượn thơ cổ và áp dụng bút pháp chấm phá, điểm xuyết.
1. Bốn dòng đầu: Sự tươi đẹp của mùa xuân
- Mô tả tổng quan về vẻ đẹp rạng ngời của mùa xuân với hình ảnh của những chú én vui đùa trên bầu trời trong lành, ngập tràn ánh sáng mặt trời trong xanh của mùa xuân (hai dòng đầu)
- Tác giả biểu hiện sự tiếc nuối về thời gian trôi đi nhanh chóng
- Bức tranh tươi đẹp được vẽ lên qua hai dòng thơ:
Cỏ non mơn mởn dưới chân trời
Cành lê trắng rực chót bông hoa
+ Phong cảnh đơn giản với cỏ xanh, hoa trắng tạo nên không gian rộng lớn, tươi mới và thanh bình.
+ Trái ngược với hình ảnh cỏ thơm trong hai câu thơ cổ của Trung Quốc, Nguyễn Du chọn cỏ xanh để thể hiện vẻ đẹp sôi động của mùa xuân.
+ Hình ảnh hoa lê mang lại sự mới mẻ, tinh khôi và trong lành của thiên nhiên, tạo điểm nhấn cho không gian xanh mướt.
→ Hai dòng thơ tuyệt vời của Nguyễn Du tạo ra hình ảnh sống động, ngôn ngữ biểu cảm phong phú, phản ánh tâm hồn con người trong trạng thái tươi mới, hứng khởi khi đối diện với thiên nhiên tươi đẹp.
2. Sáu dòng thơ cuối: Bức tranh thiên nhiên phản ánh tâm hồn con người
- Cảnh vật mang lại sự thanh bình, dịu dàng của mùa xuân: ánh nắng chiều, dòng suối nhỏ, cầu bắc cong cong như đượm màu cảm xúc của con người.
+ Khung cảnh buổi chiều tà quen thuộc trong văn học khiến con người chìm đắm trong những cảm xúc khó diễn tả.
+ Cảnh vật chầm chậm, yên bình, mọi sự di chuyển dần trở nên im lặng.
+ Không gian dần thu hẹp, nhỏ nhắn, mang trong mình nỗi buồn của con người.
- Các từ như thanh thanh, tà tà, nao nao không chỉ diễn đạt vẻ đẹp của cảnh vật mà còn phản ánh tâm trạng của con người.
+ Từ nao nao vẽ lên nỗi buồn khó diễn tả. Hai từ thần thơ này không chỉ có sức gợi lên sự tiếc nuối, buồn rầu của Kiều mà còn toát lên sự thê lương, đắng cay khi cô rời đi.
→ Bằng cách miêu tả cảnh vật kết hợp với tình cảm, đoạn văn này tạo ra một hình ảnh đẹp, tương tác hài hòa giữa cảnh vật và tình cảm.
III. Kết luận
- Với bút pháp tài tình, đoạn văn đã tái hiện nên bức tranh thiên nhiên, lễ hội mùa xuân tươi đẹp, rạng ngời trong sự trong trẻo.
- Bức tranh thể hiện tình cảm nhân văn cao đẹp của nhà thơ tài danh Nguyễn Du đối với cảnh vật và con người.
- Đoạn trích là minh chứng cho tài năng miêu tả thiên nhiên của Nguyễn Du cũng như sự kiệt xuất của tác phẩm Truyện Kiều.
Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 1
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên nhiều lần để mô tả mùa xuân, với những hình ảnh đầy gợi cảm và trữ tình.
Tuy nhiên, có một lần Nguyễn Du đã tạo ra một bức tranh thơ bất hủ về mùa xuân bằng cách sử dụng màu xanh tươi của cỏ non và vẻ đẹp dịu dàng của hoa lê. Trên nền xuân mênh mông và yên bình ấy, những người đẹp hiện ra với vẻ đẹp tuyệt vời. Cuộc gặp gỡ giữa nam thanh nữ tú và mùa xuân đã mang lại sự tươi mới và làm bùng nổ cảm xúc thẩm mỹ trong lòng người yêu thơ Việt Nam qua đoạn 'Cảnh ngày xuân'.
Xuân đã đến tháng ba - thời điểm rực rỡ, những chiếc én vẫy vùng dưới ánh nắng ấm. Bức tranh tuyệt vời về mùa xuân được tạo nên bằng sự kết hợp tinh tế giữa cỏ xanh mơn mởn trải dài đến chân trời. Trên nền xanh ấy, những đóa hoa lê trắng thanh nhã như điểm nhấn. Từ 'điểm' được sử dụng rất phù hợp, tạo ra một vẻ thanh lịch, phản ánh tinh thần trong sáng của những người trẻ đang trải qua kỳ nghỉ xuân.
Đó chính là màu sắc tươi mới, trong lành, đầy sức sống và gợi cảm, là biểu tượng của mùa xuân. Bức tranh về mùa xuân đã khiến lòng người say mê.
Tám dòng tiếp theo tả khung cảnh lễ hội trong ngày Thanh minh.
Văn hoá tảo mộ phản ánh sự giàu có của truyền thống, trở thành một phần đẹp đẽ trong lòng người.
Hội Đạp thanh hiện lên vẻ thanh bình gần gũi. Có gì tĩnh lặng hơn là đi dạo trên cánh đồng quê khi cỏ non mới nẩy mầm sau những cơn mưa xuân nhè nhẹ. Mùi hương trầm thoang thoảng từ những ngôi mộ kết hợp vào tâm hồn người du xuân trở thành niềm thiêng liêng khó diễn tả.
Đoạn thơ tràn đầy biểu cảm qua các từ như yến anh, chị em, tài tử, giai nhân, tất cả đều trong tâm trạng “nô nức” sắm sửa, dập dìu đến dự lễ hội.
Ngoài danh từ và động từ, Nguyễn Du còn dùng tính từ nô nức, gần xa cùng với hình ảnh ẩn dụ “nô nức yến anh” để tạo nên không khí sôi động của ngày xuân và tâm trạng phấn khích của du khách.
Trên khung cảnh ấy, những thoi vàng với tro tiền giấy bay thổi làm cho bức tranh càng thêm sâu lắng. Điều đó làm nổi bật vẻ đẹp văn hoá truyền thống giàu nhân văn trong ngày Thanh minh.
Sáu câu cuối mô tả cảnh chị em Kiều trở về nhà. Cảnh hiện lên vào chiều tàn, không còn sôi động mà như dần lặng và chứa đựng nỗi buồn.
Những từ như “tà tà, thanh thanh, nao nao” không chỉ diễn đạt sắc thái của cảnh vật mà còn phản ánh tâm trạng của con người như dòng nước chảy. Phép nhân hoá độc đáo làm cho cảnh vật có vẻ như có cảm xúc.
Dù cảm giác vui vẻ của mùa xuân còn tiếp tục, tác giả đã chạm vào trái tim người đọc một chút buồn qua hình ảnh “Nao nao dòng nước” và ngọn “tiểu khê” thanh thanh như tiên cảm cho một điều không lành, dự báo một tương lai u ám…
Đoạn thơ có cấu trúc hợp lý và ngôn ngữ phong phú, đặc sắc; nghệ thuật nhân hoá độc đáo và những từ như “tà tà, thanh thanh, nao nao” phong phú biểu cảm.
Với mười tám dòng thơ, tác giả đã tạo ra một bức tranh mùa xuân tươi sáng với sự sáng tạo tuyệt vời và truyền đạt tâm trạng của con người với sự tiên đoán ẩn chứa nỗi đau.
Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 2
Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du được coi là một tác phẩm xuất sắc của văn học dân tộc Việt Nam, không chỉ thu hút sự quan tâm của độc giả trong nước mà còn được ngưỡng mộ và yêu thích bởi nhiều độc giả quốc tế. Sự thành công này không chỉ đến từ việc Truyện Kiều phản ánh chân thực hiện thực xã hội thời đại, với giá trị nhân văn sâu sắc, mà còn đến từ bút pháp nghệ thuật tài tình của Nguyễn Du. Trong đó, nghệ thuật miêu tả thiên nhiên là một trong những yếu tố nổi bật nhất. Ở đây, chúng ta sẽ tìm hiểu về nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” để cảm nhận sự tài năng của Nguyễn Du.
Trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, bức tranh về thiên nhiên mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống được nhà thơ Nguyễn Du mô tả sinh động, tươi tắn, rực rỡ:
“Ngày xuân, con én bay chao lượn
Ánh thiều quang tỏa sáng mươt mà
Cỏ non màu xanh ngút ngàn
Cành lê trắng đậm điểm hoa”
Bức tranh mùa xuân được tạo nên bằng hình ảnh “con én đưa thoi”. Chim én luôn là biểu tượng của mùa xuân, khi chúng bay lượn trên bầu trời cao là dấu hiệu mùa xuân đã đến. Ngày xuân, những đàn én chao liệng tạo ra không khí vui tươi, náo nhiệt cho đất trời. Nguyễn Du so sánh chúng như những “thoi”, nhấn mạnh sự chảy trôi nhanh chóng của ngày xuân giống như chiếc thoi vẽ những đường tơ trên khung vải.
“Thiều quang” là ánh sáng đỏ hồng, rạng rỡ của ngày xuân. Trong không khí náo nhiệt của những cánh én, bầu trời trở nên rực rỡ hơn bởi ánh nắng xuân nhẹ nhàng, tinh khiết. Trên khung cảnh tươi đẹp ấy, cỏ non màu xanh mơn mởn trải dài đến “chân trời”. Câu thơ nêu bật vẻ đẹp của hoa lê trắng tinh khôi, tạo điểm nhấn cho bức tranh mùa xuân.
Không chỉ mô tả không khí sôi động của ngày xuân, khi buổi chiều tà đến, Nguyễn Du vẫn mang đến một bức tranh đẹp về chiều tà:
“Bước dần theo dòng suối nhỏ
Nhìn phong cảnh thanh bình vô cùng
Con suối uốn quanh nao nao
Chiếc cầu nho nhỏ bắc qua dòng”
Mặc dù không khí buổi chiều xuân trở nên thanh tĩnh hơn, nhưng vẫn giữ được sự hấp dẫn, vẻ đẹp của nó. Nguyễn Du sử dụng các từ láy như “thanh thanh”, “nao nao”, “nho nhỏ” để miêu tả bức tranh chiều tà, biểu đạt sắc thái cảnh vật và tâm trạng con người.
Khung cảnh buổi chiều mùa xuân được mô tả với vẻ đẹp trầm lắng, mộng mơ. Nguyễn Du đã kết hợp tài tình giữa thiên nhiên và tâm trạng con người, làm cho bức tranh trở nên sống động, chân thực.
Nhờ vào cảm nhận sâu sắc của tâm hồn thi sĩ, nghệ thuật miêu tả cảnh vật của Nguyễn Du đã tái hiện bức tranh ngày xuân vô cùng chân thực, tự nhiên, với đầy đủ các sắc thái từ sự náo nức đến sự nhẹ nhàng, chậm rãi của cảnh vật và từ sự tấp nập, háo hức đến vẻ trầm tĩnh, nao nao của cảm xúc con người. Ta có thể khẳng định, bức tranh ngày xuân trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một tác phẩm tươi sáng, sống động nhất, thể hiện được tài năng miêu tả của Nguyễn Du.
Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 3
Đoạn trích “Cảnh ngày xuân” là một tác phẩm độc đáo, hay, rất tiêu biểu cho nghệ thuật miêu tả vẻ đẹp thiên nhiên của đại thi hào Nguyễn Du. Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp tả và gợi mô tả một cách tinh tế, với những chi tiết đặc sắc, tạo nên bức tranh mùa xuân tươi sáng, sống động.
Bốn câu thơ đầu đã tạo ra một bức tranh mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy sức sống, với sự kết hợp độc đáo giữa miêu tả thời gian và không gian. Nguyễn Du đã vẽ lên một khung cảnh mùa xuân tươi mới với cỏ xanh mơn mởn và hoa lê trắng tinh khôi.
Ngày xuân, con én vẫy cánh bay
Ánh sáng thiều rực sáng mọi nơi
Cỏ non mênh mông chân trời xa
Cành lê trắng tinh khôi đón hoa.
Hai câu thơ đầu đã gợi lên hình ảnh về thời gian và không gian mùa xuân. Ánh sáng mùa xuân lan tỏa khắp nơi, cùng với cỏ xanh mênh mông và hoa lê trắng tinh khôi tạo nên một bức tranh mùa xuân sôi động.
Sáu câu thơ cuối miêu tả thời điểm kết thúc của ngày hội xuân, mang đến cảm xúc buồn xao xuyến. Đây là một phần tả thực, đồng thời cũng nhuốm màu tâm trạng của nhân vật trong thơ.
Bóng chiều dần tắt về phía tây
Thơ thẩn, chị em về trong dáng yêu
Chậm rãi theo dòng tiểu khê
Xem phong cảnh thanh thanh chói lọi
Nước uốn quanh êm đềm
Dịp cầu bé nhỏ cuối ghềnh bắc ngang
Mặc dù cảnh vẫn giữ nguyên sự dịu dàng, êm đềm của ngày xuân, nhưng ánh dương đã “tà tà ngả về tây”. Cảnh vật như trở nên nhạt dần đều, cái khung cảnh rộn rã, náo nức, tưng bừng lúc sáng sớm ngày xuân đã phải nhường chỗ cho sự tĩnh lặng, yên bình. Không gian xuân thu nhỏ lại theo ánh sáng của bầu trời hoàng hôn chứ không mở ra rộng lớn, mênh mông, vô tận như ở bốn câu thơ đầu. Tất cả đều thu nhỏ trong bước chân của người ra về. Phong cảnh thì 'thanh thanh' nhẹ nhàng, dòng nước tiểu khê thì uốn quanh 'êm đềm' và chiếc cầu 'bé nhỏ' thì 'bắc ngang' cuối ghềnh. Cảnh thực đẹp, rất giàu chất thơ, chất họa, phảng phất một nỗi buồn lưu luyến, bịn rịn, bâng khuâng của lòng người. Đồng thời gieo vào lòng người đọc những linh cảm về một điều sắp sửa xảy ra, như là sự dự báo trước cuộc gặp gỡ nấm mồ Đạm Tiên và sự gặp gỡ của hai con người trai tài gái sắc: Thúy Kiều – Kim Trọng. Tóm lại, với bút pháp tả cảnh ngụ tình, kết hợp với việc sử dụng hệ thống những từ láy, hình ảnh giàu tính tạo hình và biểu cảm, tác giả đã khắc họa bức tranh chiều tà trong ngày hội xuân thấm đượm tâm trạng của con người nhân vật. Qua đó cho thấy được tài năng nghệ thuật miêu tả thiên nhiên và tâm trạng con người của Nguyễn Du.
Nếu so sánh với bốn câu thơ đầu, bức tranh thiên nhiên mùa xuân vào buổi sáng hiện ra đầy đủ, đầy năng lượng, màu sắc phong phú, vô tận trong màu xanh của cỏ cây. Nhưng đến sáu câu cuối, bức tranh mùa xuân kết thúc trong ánh sáng nhạt nhòa của ánh nắng chiều yếu ớt ngã về phía tây, thu nhỏ lại thành một khung cảnh nhỏ bé và mang nét tâm trạng của con người. Sự chuyển đổi này rất tự nhiên và hợp lý.
Tóm lại, qua việc phân tích ở trên, chúng ta nhận thấy nghệ thuật miêu tả thiên nhiên của tác giả rất độc đáo, phong phú. Đó là một bức tranh mùa xuân sôi động, giàu chất thơ và hứng khởi, thể hiện một cách sống động và nhịp nhàng.
Phân tích nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 4
Trong nền văn học Việt Nam, 'Truyện Kiều' được coi là một tác phẩm kiệt xuất, được tạo ra nhờ ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du trong việc sử dụng ngôn ngữ. Không chỉ được đánh giá cao ở mặt nội dung mà tác phẩm còn để lại nhiều dấu ấn trong lòng độc giả về mặt nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả thiên nhiên. Nằm trong dòng chảy đó, trích đoạn 'Cảnh ngày xuân' là một minh chứng tiêu biểu cho tài năng của tác giả trong việc miêu tả thiên nhiên.
Trước hết, tác giả đã miêu tả bức tranh thiên nhiên thông qua khung cảnh mùa xuân tươi đẹp và tràn trề sức sống:
'Con én vẫy cánh trong gió xuân
Thiều quang đã qua sáu mươi ngày trôi
Cỏ non mơn mởn vô biên
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa'
Bút pháp miêu tả thiên nhiên dưới ngòi bút của nhà thơ trở nên đầy hấp dẫn với những hình ảnh, đường nét, màu sắc phối hợp tinh tế, nhẹ nhàng. Khung cảnh mùa xuân quen thuộc hiện ra qua hình ảnh những cánh én trải cánh liệng trên bầu trời cao rộng, như một biểu tượng của thời gian không ngừng trôi. Ánh nắng mùa xuân được tả bằng cụm từ 'thiều quang', sáng tạo ra gam màu mới mẻ, dịu dàng, ấm áp và rực rỡ của tiết trời xuân. Bức tranh thiên nhiên được làm nổi bật bởi sắc xanh tươi của cỏ non trải dài đến tận chân trời, tạo nên một không gian bao la, rộng lớn và phong phú. Sự xuất hiện của một vài bông hoa lê điểm xuyết màu trắng trong không gian, thể hiện tính tinh khiết và sự tươi mới, sáng sủa.
'Những cánh én như bay chao lượn
Thiên hạ đã chín mươi ngày qua
Cỏ non mơn mởn đến chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa'
(Cỏ xanh thơm như vị ngọt bùi
Trên cành lê mấy bông hoa trắng)
Trái ngược với việc miêu tả hương vị trong những câu thơ trước, tác giả Nguyễn Du sử dụng màu sắc 'Cỏ xanh' để thể hiện sức sống và sự tươi mới của mùa xuân, tạo ra một không gian hài hòa, tràn đầy sức sống.
Và khi lễ hội kết thúc, ánh sáng 'thiều quang' cũng tan biến, thay vào đó là bóng tối của buổi chiều tà:
'Bóng chiều dần tắt về phía tây
Thơ thẩn, chị em về trong dáng yêu
Bước dần theo dòng tiểu khê
Lần xem phong cảnh thanh thanh
Nao nao dòng nước uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang'
Cảnh thiên nhiên vẫn tràn ngập vẻ đẹp dịu dàng của mùa xuân qua hình ảnh 'bóng chiều về phía tây', tạo nên ánh nắng nhẹ nhàng và mặt trời dần khuất sau đỉnh núi cùng những chi tiết về dòng nước nhỏ - nơi mà con người đi bước chậm rãi, ngắm nhìn vẻ đẹp tự nhiên, và dòng nước quanh co uốn khúc 'nao nao' tạo nên không gian thân thuộc, nhẹ nhàng khác biệt so với vẻ đẹp rộng lớn, bao la trong những khung cảnh khác. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng những từ ngữ tinh tế, giàu hình ảnh để diễn tả không gian yên bình trong tâm trạng buồn bã, nhẹ nhàng và tiếc nuối. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong đoạn thơ đặc sắc qua việc tác giả sử dụng thành công hệ thống từ ngữ và kỹ thuật mô tả cảnh ngụ tình. Các từ ngữ thường được sắp xếp ở đầu câu thơ để nhấn mạnh tâm trạng của con người - ý nghĩa mà nhà thơ muốn truyền đạt. Đặc biệt, qua việc sử dụng từ ngữ 'nao nao', sắc thái của cảnh vật hiện lên qua vẻ đẹp lững lờ trôi qua dòng nước trong ánh chiều tà; đồng thời cũng là sự 'nao nao' trong tâm trạng của con người. Đó là cảm giác nhẹ nhàng, nhưng cũng chứa đựng sự buồn bã, hoài niệm, và xao xuyến về một buổi đi dạo xuân trong trái tim của cô gái đa cảm Thúy Kiều, cũng như là sự linh cảm về những điều sắp xảy ra - Kiều sẽ gặp nạn mộ Đạm Tiên, gặp gỡ Kim Trọng.
Từ đoạn 'Cảnh ngày xuân', chúng ta có thể thấy được tài năng của tác giả Nguyễn Du trong việc mô tả thiên nhiên. Để vẽ nên bức tranh mùa xuân tươi đẹp, sáng sủa và bức tranh yên bình của buổi chiều tà, đại thi hào dân tộc đã chọn lựa những hình ảnh tinh tế và mô tả trong sự hài hòa giữa màu sắc, đường nét và hình khối. Đặc biệt, tác giả đã thành công trong việc áp dụng kỹ thuật mô tả cảnh ngụ tình để làm nổi bật dòng tâm trạng của con người ẩn sau cảnh vật, thể hiện sự gắn kết giữa 'cảnh' và 'tình' như ông từng khẳng định:
'Không có cảnh nào không mang theo nỗi buồn
Người buồn thì cảnh đó cũng trở nên u tịch'
Phân tích nghệ thuật mô tả thiên nhiên trong Cảnh ngày xuân - mẫu 5
Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc, một danh nhân văn hóa thế giới, tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm ”Truyện Kiều” – kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. ”Truyện Kiều” là một tác phẩm vĩ đại về giá trị con người, là một bài học nghiêm túc về cái ác, sự phản đối, và một tác phẩm xuất sắc của nghệ thuật văn chương. Xét về kỹ thuật mô tả và gợi, Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao. Điều này được thể hiện qua đoạn trích ”Cảnh ngày xuân” trong phần I, ”Gặp gỡ và đính ước” của Thúy Kiều. Có thể nói rằng đây là một đoạn trích thành công nhất trong nghệ thuật mô tả cảnh thiên nhiên của Nguyễn Du.
Bốn câu thơ đầu đã tạo ra hình ảnh về mùa xuân với vẻ đẹp độc đáo: hữu tình, hữu sắc, hữu hương, hữu thơ.
'Con én hòa cùng ngày xuân,
Bóng chiều buông góc tám mươi, nắng dần qua mười hai giờ.'
Sử dụng bút pháp chấm phá kết hợp với mô tả, hai câu thơ đầu vừa tạo ra không gian, vừa tái hiện thời gian. Không gian đó không đơn giản là yên bình mà rất sống động với hình ảnh của 'con én đưa thoi'. Đây là hình ảnh thực tế, trong tháng cuối cùng của mùa xuân, những chú én vẫn hòa mình vào bầu trời đầy sóng gió. Tuy nhiên, hình ảnh này cũng mang ý nghĩa sâu xa, ngụ ý về thời gian trôi nhanh, mùa xuân qua mau. Mùa xuân chỉ kéo dài chín mươi ngày, và giờ đây đã bước sang tháng ba, gợi lên nỗi buồn trong lòng người. Sau đó, hình ảnh 'con én đưa thoi' biểu trưng cho ánh xuân rực rỡ, sức ấm của mùa xuân, và vẻ đẹp mênh mông của thiên nhiên. Đặc biệt, bức tranh tuyệt vời của mùa xuân được thể hiện rõ trong hai câu thơ:
'Cỏ non mượt tận chân trời,
Cành lê trắng tô điểm vài bông hoa'
Ở đây, Nguyễn Du đã sáng tạo bằng cách sử dụng một câu thơ cổ Trung Quốc là 'cỏ thơm liền với trời xanh - trên cành lê có mấy bông hoa', thay vì sử dụng từ 'cỏ thơm', Nguyễn Du đã chọn 'cỏ non' để nhấn mạnh màu xanh tươi mới của cỏ non lan tỏa tận chân trời. Đó là màu sắc chủ đạo của bức tranh mùa xuân, trên thảm cỏ xanh ấy, làm điểm nhấn là vài bông hoa lê trắng. Từ 'trắng' được đặt lên đầu câu, tạo nên ấn tượng mạnh mẽ, dù chỉ là một vài đám trắng nhỏ nhưng chúng lại tỏa sáng trên khung cảnh tổng thể. Như vậy, màu sắc hòa quyện một cách hoàn hảo. Tất cả tạo nên vẻ đẹp độc đáo của mùa xuân: mới mẻ, tinh khôi, tràn đầy sức sống, trong sáng và thanh khiết. Từ 'điểm' làm cho bức tranh mùa xuân trở nên sống động, đầy sức sống, không chỉ đơn thuần là tĩnh lặng.
Cảnh ngày xuân là bức tranh tuyệt vời mà Nguyễn Du để lại, làm đẹp cho cuộc sống của chúng ta, đồng thời cũng phản ánh tâm trạng sôi động chung của Thúy Kiều và các chị em khi đi dạo xuân.
Tám câu thơ tiếp theo, tác giả mô tả khung cảnh mùa xuân trong ngày thanh minh. Trong ngày thanh minh có hai hoạt động diễn ra cùng lúc: lễ tảo mộ - thăm viếng mộ và quét dọn, hội đạp thanh - dạo chơi trên thảm cỏ non ở nơi quê nhà:
'Thanh minh trong tiết tháng ba,
Lễ tảo mộ hội đạp thanh'
Cảnh trẩy hội mùa xuân mô tả sự náo nhiệt, sôi động, trên các con đường khắp nơi, đám đông trẩy hội. Có rất nhiều người tham gia với niềm vui nô nức, từ các gia đình đến các cặp đôi, tất cả cùng nhau bước chân đi trẩy hội.
'Gần xa náo nức yến anh,
Chị em sắm sửa chuẩn bị đi chơi xuân.
Điều động tài tử, giai nhân,
Ngựa xe như nước, áo quần như nêm'
Nguyễn Du tài tình diễn đạt khung cảnh lễ hội mùa xuân bằng cách mô tả giàu hình ảnh, sử dụng một loạt từ láy, từ ghép và danh từ, động từ, tính từ. Các danh từ như 'chị em, yến anh, tài tử, giai nhân' thể hiện sự đông đúc, đông người tham dự lễ hội. Các động từ 'sắm sửa, điều động' mô tả sự rộn ràng, náo nhiệt của ngày hội. Các tính từ 'gần, xa, náo nức' làm nổi bật tâm trạng của những người tham gia. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng cách diễn đạt ẩn dụ như 'yến anh', hoán dụ như 'ngựa xe, áo quần'. Tất cả hòa quyện tạo nên không khí lễ hội mùa xuân sôi động, trẻ trung và xinh đẹp, trang trọng và lịch sự.
Thong qua việc mô tả cuộc du xuân của chị em Thúy Kiều, tác giả vẽ lên một phong cách truyền thống văn hóa lễ hội cổ xưa: Tết thanh minh, mọi người sắm sửa lễ vật để thăm viếng mộ và tham gia lễ hội đạp thanh, nơi mọi người thả con thoi vàng vó, đốt giấy tiền vàng để tưởng nhớ người đã khuất.
'Đống gò ngổn ngang kéo lên,
Thoi vàng vó rơi đầy giấy tiền bay'
Cuộc vui nào cũng sẽ kết thúc, sáu câu thơ cuối miêu tả cảnh chị em Thúy Kiều trở về sau cuộc du xuân, cảnh đẹp nhưng phảng phất nỗi buồn của con người.
'Bóng chiều nghiêng về phía Tây,
Chị em lang thang bước chân ra về.
Bước dần theo bờ sông nhỏ,
Ngắm phong cảnh êm đềm.
Nao nao dòng nước uốn quanh,
Dịp cầu nhỏ cuối ghềnh.'
Cảnh vẫn mang vẻ dịu dàng của mùa xuân. Ánh nắng nhạt nhòa, dòng nước nhỏ uốn quanh, mọi thứ diễn ra một cách nhẹ nhàng. Mặt trời từ từ nghiêng về phía Tây, những bước chân lang thang của con người, tuy nhiên không khí sôi động, náo nhiệt của lễ hội dần dần phai nhạt, trở nên lặng lẽ.
Cảnh mùa xuân trong sáu câu thơ cuối và bốn câu thơ đầu cùng có những điểm tương đồng nhưng cũng có sự khác biệt do không gian và thời gian đã thay đổi, tuy nhiên, điều quan trọng nhất là cảnh được nhìn nhận qua góc độ tâm trạng của con người. Ngày tàn sao không buồn, hội tàn sao không buồn? Sự xuất hiện của các từ như tà tà, thơ thẩn, thanh thanh, nao nao trong câu thơ “Nao nao dòng nước uốn quanh” đã thể hiện sự nhân hóa tự nhiên của cảnh, với màu sắc tâm trạng của con người. Có thể nói sáu câu thơ cuối bài là một bức tranh chiều xuân đẹp được nhìn nhận qua tâm trạng con người, Nguyễn Du đã viết ”tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này”.
Tóm lại, thông qua đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, Nguyễn Du đã sử dụng từ ngữ và bút pháp miêu tả giàu chất tạo hình, gợi lên trong tâm trí người đọc một bức tranh thiên nhiên, cảnh lễ hội xuân tươi đẹp và tràn đầy sức sống. Đây cũng là một trong những đoạn thơ miêu tả cảnh thiên nhiên thành công nhất của ông. Nguyễn Du không chỉ là một nhà thơ lỗi lạc của dân tộc mà còn là một họa sĩ ngôn từ tài tình. Qua đây, chúng ta hãy học cách yêu quý thiên nhiên và giữ gìn những nét đẹp truyền thống của dân tộc, như câu “Uống nước nhớ nguồn” đã nói.