1. Làng lụa Vạn Phúc Hà Đông
Làng lụa Hà Đông hay chính là Làng lụa Vạn Phúc Hà Đông, nay thuộc phường Vạn Phúc, thuộc quận Hà Đông, cách trung tâm Hà Nội khoảng 10km. Nằm bên bờ sông Nhuệ, lụa Vạn Phúc giữ được nét cổ kính với chiếc giếng làng, cây đa cổ thụ, họp chợ trước đình. Đây là làng nghề dệt lụa tơ tằm đẹp nổi tiếng với nhiều mẫu hoa văn lâu đời. Lụa Vạn Phúc từng là lựa chọn cho quốc phục dưới thời vua nhà Nguyễn.
Được giới thiệu quốc tế tại hội chợ Marseille (1931) và Paris (1938), lụa Vạn Phúc được đánh giá cao, ưa chuộng tại nhiều quốc gia như Pháp, Thái Lan, Indonesia... Xuất khẩu rộng rãi từ 1958 đến 1988, đặc biệt từ 1990 trở đi, sản phẩm lụa Vạn Phúc có mặt ở nhiều quốc gia trên thế giới, mang về ngoại tệ cho đất nước. Phố lụa Vạn Phúc hiện đang có hàng trăm cửa hàng để đáp ứng nhu cầu của du khách.
2. Làng nghề cói Kim Sơn - Ninh Bình
Làng nghề dệt cói Kim Sơn (huyện Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình) là vùng đất được biết đến với nghề trồng và dệt cói, một nghề lâu đời và gắn bó với thiên nhiên ở địa phương này.
Đối với những người trồng cói, cây cói không chỉ là nguồn nguyên liệu mà còn là biểu tượng của nghề nghiệp, là sự gắn bó suốt cuộc đời với công việc lao động đầy cống hiến. Nghề trồng cói và dệt cói ở Kim Sơn chủ yếu sản xuất những sản phẩm thiết yếu, phục vụ đời sống hàng ngày của người dân. Mặc dù cực nhọc, nhưng nghề này không bao giờ mất đi sức sống.
Đặc biệt, sản phẩm cói mỹ nghệ của Kim Sơn đã trở thành đại diện cho nghệ thuật dân dụ và đã có mặt tại hơn 20 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Điều này chứng tỏ lòng đam mê và tình yêu thương lớn lao đối với nghề nghiệp truyền thống của bà con nơi đây đã giúp nghề dệt cói ngày càng phát triển mạnh mẽ và vươn xa.
3. Làng tranh Đông Hồ - Bắc Ninh
Làng tranh Đông Hồ (Thuận Thành, Bắc Ninh) nằm bên bờ sông Đuống êm đềm, từ lâu đã nổi tiếng với nghề làm tranh dân gian, mang đậm bản sắc văn hóa truyền thống, và là dòng tranh được biết đến nhiều nhất ở Việt Nam. Làng Đông Hồ nổi tiếng với dòng tranh khắc gỗ dân gian đặc sắc được nhiều người cả trong và ngoài nước biết đến, với những bức tranh từ lâu đã đi vào đời sống tinh thần bao người dân Việt.
Nét dân gian của tranh Đông Hồ còn nằm ở màu sắc và chất liệu giấy in. Giấy được làm từ vỏ con điệp, một loại sò vỏ mỏng ở biển, trộn với hồ (hồ được nấu từ bột gạo tẻ, hoặc gạo nếp, có khi nấu bằng bột sắn - hồ dùng để quét nền tranh thường được nấu loãng từ bột gạo tẻ hoặc bột sắn, hồ nấu từ bột nếp thường dùng để dán) rồi dùng chổi lá thông quét lên mặt giấy dó, công đoạn khá là công phu, tỉ mỉ đòi hỏi sự khéo tay của người thợ lành nghề.
Rồi đến công đoạn chuẩn bị màu sắc, sao cho tranh thật tự nhiên phải là những gam màu cơ bản, không pha trộn thường được chế từ than của lá tre, xanh của lá chàm, vàng của hoa hòe, đỏ của gỗ vang, chỉ 4 gam màu không pha trộn và vì số lượng màu tương ứng với số bản khắc gỗ. Tranh Đông Hồ tinh xảo tạo nên nét tinh hoa văn hóa dân gian Việt, không chỉ khách trong nước yêu thích và tìm mua, tranh làng Hồ còn được du khách nước ngoài mua rất nhiều mỗi khi đặt chân đến mảnh đất kinh kỳ này. Tại đây, du khách còn được nghe giới thiệu về những giá trị văn hóa đặc sắc của nghề làm tranh dân gian Đông Hồ, và có thể trải nghiệm tự tay in tranh, cũng như mua sắm những bức tranh ưng ý.
4. Làng hoa Hạ Lũng - Hải Phòng
Làng hoa Hạ Lũng Hải Phòng cách trung tâm thành phố Hải Phòng chừng 6 km có một làng hoa mang tên Hạ Lũng. Vườn hoa thuộc ở phường Đằng Hải, quận Hải An. Dường như ở đây có thể xem là làng hoa nổi tiếng và có truyền thống bậc nhất ở Hải Phòng mà không có một làng hoa thứ hai nào hơn được. Nhắc đến cái tên Hạ Lũng là người dân Hải Phòng ai ai cũng biết ở đó chính là nơi ngàn hoa đua nhau sắc thắm. Những ruộng hoa rộng và dài tít tắm như được những người dân có kinh nghiệm lâu năm trong nghề trồng hoa chăm sóc kỹ lưỡng.
Ngay từ những năm 1960 – 1970, thì người dân ở đây đã trồng hoa để tô điểm cho đất trời. Khi ấy các loài hoa được trồng phổ biến đó chính là hoa cúc, cúc vạn thọ, thược dược, lay ơn,…đều là những loài hoa có sức sống mãnh liệt, ngoài ra hoa cúc họa mi như thể hiện được sự thanh khiết của mình trong vô vàng các màu hoa sắc thắm kia.
Hiện nay thì do chính quá trình đô thị hoa diễn ra nhanh chóng thì cũng ảnh hưởng ít nhiều đến việc trồng hoa của làng hoa này. Diện tích trồng hoa của Hạ Lũng bị thu hẹp và chia nhỏ dần đi theo các thời kỳ. Và cho đến nay, làng có khoảng 30% hộ trồng hoa trên tổng diện tích 30ha. Tuy diện tích bị thu hẹp nhưng những vườn hoa vẫn được chăm sóc kỹ lưỡng, những bông hoa tươi sắc như cứ vươn mình ra đón ánh nắng mặt trời và phả vào trong làn gió hương thơm dịu nhẹ.
Nếu như có dịp về đất Cảng thăm thú biển, rừng, ăn những món ăn vặt nổi tiếng như bánh đa cua, sủi dìn Hải Phòng,…thì hãy ghé về Hạ Lũng những ngày giáp Tết, bạn vừa được thư thả ngắm hoa, vừa có được những bức hình tuyệt đẹp đó!
5. Làng gốm Gia Thủy - Ninh Bình
50 năm trôi qua, làng gốm Gia Thủy ở huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình vẫn hiện hữu mạnh mẽ. Người thợ gốm nơi đây mang theo truyền thống Thanh Hóa, tạo ra những sản phẩm gốm chất lượng. Đất sét đặc trưng, công đoạn tỉ mỉ, từ những chiếc bình đến những sản phẩm nghệ thuật, nghề gốm Gia Thủy vẫn thu hút nhiều sự quan tâm và xuất khẩu rộng rãi.
Mỗi sản phẩm đều là kết quả của sự cẩn thận, tâm huyết. Người thợ nặn đất, tạo hình, tạo ra những sản phẩm sành điệu như bình, vò, chum. Rượu khi ngâm trong những sản phẩm này không chỉ giữ nguyên hương vị mà còn an toàn cho sức khỏe.
Ngày nay, với nhu cầu cao, người làm gốm Gia Thủy phải làm việc hết mình. Các sản phẩm không chỉ đa dạng mà còn mang đậm tinh thần nghệ nhân, tạo nên không gian tinh tế và sáng tạo.
6. Rượu làng Vân - Bắc Giang
Rượu làng Vân - biểu tượng rượu mỹ tửu nổi danh xứ Kinh Bắc, được ủ từ nếp cái hoa vàng. Là thương hiệu vương tửu, ngày nay nổi tiếng với sự hòa quyện giữa truyền thống và chất lượng hiện đại. Nghề nấu rượu ở làng Vân có lịch sử trăm năm, chuyển giao bí phương gia truyền từ đời này sang đời khác.
Bí quyết nấu rượu là từ men độc đáo chỉ có ở làng Vân. Từng bước chọn gạo nếp, chọn men, ủ rượu đều được thực hiện tỉ mỉ. Đặc biệt, quá trình làm rượu tốn nhiều công sức và thời gian nhưng tạo nên sản phẩm vương tửu độc đáo và sang trọng.
Với thương hiệu đã khẳng định, Rượu Vân Bắc Giang vẫn là sự lựa chọn ưu việt trong sự cạnh tranh khốc liệt của thị trường rượu hiện nay. Mọi nơi, từ nhà hàng, khách sạn đến quán ăn đều tự hào có mặt của rượu Vân Bắc Giang - biểu tượng của hương vị quyền quý.
7. Làng hương trầm Cao Thôn - Hưng Yên
Nằm 40 km từ Hà Nội, làng hương Cao Thôn tại Hưng Yên là điểm đến lớn nhất cho nghệ làm hương truyền thống. Thôn Cao, tên gốc Thôn Cao, bên dòng sông Hồng yên bình, là nơi gốc của nghệ thuật làm hương. Bà Đào Thị Khương, người Cao Thôn, được tôn là tổ nghề hương và là người truyền dạy nghề này trong làng.
Nghề làm hương tại Cao Thôn hoạt động suốt năm, tạo việc làm cho 600 lao động trong thôn và khu vực lân cận. Đây là nghề không kén nhân lực, ai cũng có thể tham gia sản xuất. Sản lượng hương xạ của làng đạt khoảng 10 triệu nén/năm.
Thôn Cao không chỉ là nơi sản xuất mà còn là điểm du lịch hấp dẫn. Du khách có cơ hội trải nghiệm quá trình làm hương, thăm quan các hộ sản xuất và chiêm ngưỡng vẻ đẹp của làng nghề truyền thống. Người dẫn đoàn, ông Nguyễn Như Khanh, chia sẻ về trải nghiệm của đoàn khách Anh: 'Họ được xem quá trình sản xuất, được tự làm, tự thắp nên rất thích. Ngoài ra, làng có quần thể đẹp, đường ngõ sạch đẹp, đình chùa giữ lại được cảnh quan thời xưa nên các đoàn rất thích. Tới đây sẽ có thêm nhiều đoàn tham quan của nước ngoài về làng.'
8. Làng miến Cự Đà
Cách trung tâm Thủ đô khoảng 20km, làng Cự Đà, Thanh Oai, Hà Nội không chỉ được biết là một không gian văn hóa độc đáo, nơi vẫn còn lưu giữ được nhiều ngôi nhà cổ vẹn nguyên lối kiến trúc Việt ở vùng Đồng bằng Bắc bộ, mà còn được biết đến là một làng nghề sản xuất miến lớn nhất tại miền Bắc. Làng Cự Đà nổi tiếng với nghề làm miến và nghề làm tương truyền thống. Có gần 400 hộ dân đang sống nhờ vào hai nghề này.
Theo nhiều bậc cao niên ở Cự Đà, nghề làm miến từ dong riềng (hay còn gọi là củ đót) ở Cự Đà đã có từ 'dăm bảy chục năm' trở lại đây. Sợi miến Cự Đà có đặc điểm rất dễ nhận là thường có màu vàng óng hoặc trắng mịn; khi nấu lên có vị thơm ngon, giòn và dai rất vừa miệng. Đặc biệt, sợi miến không bị nở trương hay nát vỡ khi người nội trợ nào 'lỡ tay' nấu hơi lâu trên bếp.
Tìm về với Cự Đà vào những ngày nắng đẹp, không chỉ có những thương lái đến cất hàng mà còn có cả những nghệ sỹ nhiếp ảnh, khách du lịch... Họ tìm đến Cự Đà để lưu lại những khoảnh khắc đẹp tuyệt vời của những bức mành được làm bằng sợi miến óng vàng đang dệt nên nắng mới buông trải trên những dây phơi, giá đỡ bên tường, trong sân những ngôi nhà cổ có tuổi đời cả trăm năm.
9. Làng dát vàng Kiêu Kỵ Gia Lâm - Hà Nội
Kiêu Kỵ là làng nằm trong vùng châu thổ sông Hồng. Xưa kia, người dân Kiêu Kỵ cũng làm nghề trồng lúa nước và nghề phụ là nghề dát bạc quỳ vào những lúc nông nhàn. Ngày nay, do nhu cầu phát triển của xã hội, nghề dát vàng bạc quỳ đa trở thành nghề chính và mang lại thu nhập chủ yếu cho phần lớn hộ dân trong làng.
Trong những năm gần đây, nghề làm quỳ vàng bạc của làng Kiêu kỵ đã phát triển thành hai loại: Làm quỳ vàng, quỳ bạc cựu và làm quỳ vàng, quỳ bạc tân. Trong đó quỳ vàng bạc cựu làm từ bạc thật còn quỳ vàng bạc tân được làm từ thiếc. Làm vàng quỳ khó hơn nhiều công đoạn hơn bạc quỳ nên không phải hộ gia đình nào cũng làm được. Hiện sản xuất kinh doanh vàng quỳ chỉ còn vài hộ gia đình còn giữ được trong khi đó bạc quỳ thì có cả trăm hộ. Hầu hết những người làm bạc quỳ là những nghệ nhân Lê Bá Trung, Lê Văn Vòng truyền dạy.
Đặc biệt để lưu trữ và phát triển nghề, hai nghệ nhân vẫn tổ chức lớp dạy nghề cho thanh niên trong làng và dạy các lớp do Sở Công thương và Trung tâm Khuyến nông Hà Nội tổ chức. Nhờ đó, nghề truyền thống của làng Kiêu Kỵ được truyền cho tới ngày nay.
10. Làng nghề thêu ren Văn Lâm - Ninh Bình
Làng Văn Lâm xã Ninh Hải, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình được cho là nơi phát tích, hội tụ đầy đủ nhất những tinh hoa của nghề thêu ren với những bàn tay vàng đã được Hiệp hội làng nghề thủ công truyền thống Việt Nam công nhận. Trải qua hàng thế kỷ người dân nơi đây vẫn lưu giữ nghề truyền thống và phát triển bằng những sản phẩm thêu tay độc đáo có độ tinh xảo cao phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Là làng nghề nằm trong vùng Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới Tràng An, ngay tại Khu du lịch Tam Cốc - Bích Động, Văn Lâm có nhiều điều kiện thuận lợi để đưa nét văn hóa làng nghề cũng như những sản phẩm truyền thống đến gần hơn với du khách và bạn bè quốc tế.
Trước đây, người dân làng Văn Lâm chuyên thêu các sản phẩm phục vụ nghi thức, nghi lễ trong đời sống văn hóa tâm linh, đặc biệt là trong lễ hội: quần, áo, mũ của đội tế; tàn, lọng, y môn trong các ngôi đình, đền đều có sự đóng góp, sáng tạo của người thợ thêu làng Văn Lâm. Trải qua những thăng trầm của thời gian, người dân Văn Lâm vẫn quyết tâm gắn bó với nghề, đã có những bước đột phá mới trong mẫu mã, sản phẩm của mình. Từ chỗ chỉ thêu các đồ thờ trong các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo, các nghệ nhân Văn Lâm đã đổi mới, sáng tạo thêm các loại hình sản phẩm mới: thêu những loại khăn trải bàn, khăn ăn phục vụ đa dạng hơn nhu cầu sử dụng hằng ngày của các tầng lớp trong xã hội.
Ngày nay, làng nghề thêu ren Văn Lâm chuyên sản xuất các loại vật dụng trang trí nội thất, phục vụ đời sống sinh hoạt: rèm, khăn trải bàn, khăn ăn, vỏ chăn ga, gối, quần áo thời trang. Nhiều gia đình thêu ở Văn Lâm đã sáng tạo ra những loại hình sản phẩm mới, đáp ứng nhu cầu của khách hàng như các loại tranh thêu: tùng, cúc, trúc, mai, tranh sơn thủy hữu tình, tranh mừng thọ hay các loại tranh con vật. Hiện nay sản phẩm thêu ren của Văn Lâm đã có mặt ở cả trong, ngoài nước. Trong nhiều năm, số lượng hàng xuất khẩu sang các nước này có tỷ lệ lớn hơn so với mặt hàng tiêu thụ trong nước.