1. Mèo cát
Mèo cát hay được biết đến với cái tên mèo đụn cát là một loài mèo sống ở vùng sa mạc Châu Phi và Châu Á. Chúng thích ứng với môi trường khô hạn và có bộ lông màu vàng nhạt, tương tự như màu cát, giúp chúng tàng hình trong môi trường sống của mình. Mèo cát có kích thước nhỏ, chân ngắn, đuôi dài và tai lớn. Chúng có lớp lông dày ở giữa các ngón chân, giúp chúng không bị bỏng khi di chuyển trên cát nóng. Tình trạng suy giảm số lượng mèo cát đang diễn ra do săn bắn trái phép và mất môi trường sống. Theo ước tính, chỉ còn khoảng 5.000 con mèo cát trên thế giới. Mèo cát thích ứng với cuộc sống về đêm và sử dụng kỹ thuật tàng hình để săn mồi. Chúng cũng có khả năng không cần uống nước, hydra hóa từ thức ăn mà chúng săn được. Loài mèo này đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng và nằm trong danh sách đỏ của Liên minh quốc tế về bảo tồn thiên nhiên.
Chú ý: Mèo cát Ả Rập, một dạng của mèo cát, đặc biệt thích nghi với môi trường sống khắc nghiệt của sa mạc và là loài động vật có khả năng hydrat hóa hoàn toàn từ thức ăn mà chúng săn được. Tình trạng suy giảm số lượng mèo cát, đặc biệt là ở các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất, là một trong những vấn đề nghiêm trọng trong bảo tồn động vật hoang dã ngày nay.


2. Mèo Manul
Mèo Manul còn có tên gọi khác là mèo Pallas là loài mèo hoang nhỏ thuộc họ Mèo. Mèo Manul có kích thước tương tự như mèo nhà, lông màu nâu sẫm với những sọc dọc sẫm màu trên thân và hai chân trước, có các vòng màu đen rõ ràng trên đuôi và có đốm sẫm màu trên trán. Bộ lông mùa đông xám hơn và ít hoa văn hơn bộ lông mùa hè. Chúng có các chân ngắn cân xứng theo tỉ lệ so với những con mèo khác, tai nằm rất thấp và xòe rộng và móng vuốt của chúng cũng ngắn bất thường. Mèo manul phân bố rộng khắp nhưng đứt đoạn ở các vùng đồng cỏ và thảo nguyên miền núi Trung Á. Chúng chịu ảnh hưởng tiêu cực từ suy thoái môi trường sống, sự suy giảm con mồi và bị săn bắn, số lượng còn hơn 9000 con, do đó đã được IUCN phân loại là sắp bị đe dọa năm 2002.
Theo thống kê thì giống mèo này thường xuất hiện phổ biến nhất tính từ phía tây biển Caspi, băng qua Pakistan, Kazakhstan tới Trung Quốc và Mông Cổ. Nói chung là những khu vực khô cằn, lạnh lẽo và không phải là những khu rừng ẩm ướt.. Hiện nay, loài mèo này đang bị đe dọa suy giảm số lượng. Bởi môi trường sống bị tàn phá và lượng thức ăn hạn hẹp. Với bộ lông siêu dày và một vài đặc điểm khác mà Mèo Manul (Pallas) phải đối mặt với nạn săn bắn rất gắt gao của con người. Người ta săn những chú mèo này nhằm mục đích lấy lông để bán (rất có giá trị trên thị trường vì độ ấm của nó) hoặc lấy xương của chúng để nấu cao hoặc thậm chí là một số bộ phận khác để chế biến thành thuốc.
Bên cạnh nạn săn bắn thì sự suy thoái, biến đôi môi trường sống cũng là lý do khiến số lượng của mèo Manul ngày càng giảm. Việc con người mở rộng phạm vi sinh sống, chăn nuôi gia súc, làm nông nghiệp đã vô tình làm giảm lượng con mồi tự nhiên của chúng. Không những vậy những chú chó chăn gia súc con người nuôi để bảo vệ đàn cừu, đàn gà của họ cũng là mối nguy hiểm với mèo Pallas. Người ta ước tính có tới hơn 56% số ca mèo Manul bị mất ở miền trung Mông Cổ xuất phát từ những chú chó này. Hoặc chỉ đơn giản là chúng bị nhìn nhầm với chuột Marmot nên bị thợ săn bắn nhầm thôi.


3. Mèo chân đen
Mèo chân đen là loài động vật ăn thịt ít được nghiên cứu ở Châu Phi và được liệt vào danh sách loài dễ tổn thương bởi Liên minh bảo tồn thiên nhiên Quốc tế năm 2002, chúng chỉ còn hơn 8300 con. Mèo chân đen là loài mèo nhỏ nhất thế giới, phía dưới chân và phần bàn chân của mèo có màu đen. Màu sắc của bộ lông của chúng khác nhau tùy theo cá thể, trên màu lông thường hay điểm xuyết những đốm nâu hay đen trộn lẫn với nhau thành các vòng ở chân, cổ và đuôi. Tuy nhiên da cổ của mèo chân đen có màu hồng và không đốm, mắt của chúng rất lớn. Mèo chân đen thường sống ở Nam Phi, môi trường sống thích hợp của chúng là các xavan khô và mở các đồng cỏ và các bán hoang mạc có bụi cây lớn.
Mèo chân đen là loài vật sống đơn độc và là động vật ăn đêm, chính vì vậy rất hiếm khi bắt gặp được chúng. Vào ban ngày chúng trú ẩn trong những bụi cây rậm rạp, các hang hốc bỏ hoang của springhare, nhím, thú ăn kiến, hay trong các gò mối. Sau khi mặt trời lặn thì chúng mới mò ra tìm thức ăn. Mèo chân đen thường được tìm thấy ở các khu vực khô và mở với mức độ che phủ vừa phải của cây cỏ. Chính vì vậy phần lớn lượng nước cần thiết của chúng được lấy ngay từ thịt của con mồi, tuy nhiên chúng cũng không từ chối uống nước nếu bắt gặp một vũng nước nào đó. Trái với các loài mèo khác, khả năng leo trèo của mèo chân đen khá là kém - và chúng cũng không để ý mấy tới các cành cây. Thực vậy, cơ thể bè bè và chiếc đuôi ngắn hoàn toàn không thích hợp cho việc leo trèo trên các cây cối. Thay vào đó, chúng dành nhiều thời gian vào việc đào và mở rộng các hang hốc của chúng trên nền đất cát.
Mèo chân đen ít tiếp xúc và thường sinh sống ở những nơi rất yên tĩnh để không ai quấy rầy. Tuy nhiên khi gặp nguy hiểm, chúng chống trả lại kẻ thù hết sức quyết liệt và dũng cảm. Mặc dù chúng ít khi dùng các gò mối để trú ẩn hay sinh con. Một truyền thuyết của người bộ tộc San nói rằng một con mèo chân đen có thể giết chết một con hươu cao cổ bằng cách cắn đứt động mạch cổ của chúng. Chúng dùng mùi cơ thể để đánh dấu lãnh thổ của mình - một con đực có thể 'đánh dấu lãnh thổ' đến 12 lần trong vòng một giờ bằng nước tiểu. Ngoài mùi nước tiểu, một số cách đánh dấu khác được áp dụng có thể là cọ xát lên vật thể, để lại vết cào hoặc các chất cặn bã, bài tiết khác của cơ thể.


4. Mèo cây Châu Mỹ
Mèo cây Châu Mỹ hay còn được gọi là mèo rừng Châu Mỹ là loài mèo hoang có kích thước nhỏ. Chúng có quan hệ họ hàng gần loài báo sư tử to lớn nhưng kích thước nhỏ hơn nhiều. Chúng có thân ngắn, thân và đuôi dài, cùng một bộ lông xám đen. Sở dĩ, chúng có tên mèo cây bởi vì môi trường sống thoải mái nhất của chúng là tên các thân cây cao. Loài này ăn tạp, chúng ăn tất cả những gì chúng bắt được, hầu hết là các động vật chân đốt và lá cây. Loài mèo này đang có nguy cơ bị đe dọa vì sự suy giảm môi trường và nạn săn bắn, theo thống kê năm 2007 của Liên minh bảo tồn thiên nhiên Quốc tế mèo cây chỉ còn khoảng 6000 con. Mèo cây châu Mỹ hay mèo rừng châu Mỹ có họ hàng với báo và sư tử nhưng kích thước nhỏ hơn rất nhiều. Mèo cây châu Mỹ trưởng thành chỉ nặng khoảng 3,5kg - 9,1kg, dài chưa đến 1m. Loài mèo này không chỉ ăn tạp mà còn có tập tính kỳ lạ: thích sống trên cây.
Mèo cây châu Mỹ có chân ngắn, thân và đuôi dài, cùng một bộ lông xám đen. Theo nghiên cứu năm 2006 về bộ gen của họ Felidae thì tổ tiên của các loài thuộc các chi Leopardus, Lynx, Puma, Prionailurus và Felis đã di cư qua cầu đất liền Bering vào châu Mỹ khoảng 8-8,5 triệu năm trước. Sau đó các dòng dõi này dần dần tách ra theo trật tự như đã liệt kê. Các nghiên cứu cũng chỉ ra rằng báo sư tử và mèo cây châu Mỹ là các họ hàng gần gũi nhất của báo săn (Acinonyx jubatus) ngày nay ở châu Phi và miền tây châu Á, nhưng mối quan hệ cụ thể thì vẫn chưa dung giải được. Người ta từng cho rằng tổ tiên của báo săn đã rẽ nhánh ra từ dòng dõi Puma ở châu Mỹ và di cư ngược trở lại châu Á và châu Phi, trong khi các nghiên cứu khác lại đề xuất rằng báo săn đã tự nó rẽ nhánh ra khỏi tổ tiên chung tại Cựu thế giới. Mèo cây châu Mỹ loài được xếp vào diện cần được bảo vệ do số lượng của chúng liên tục sụt giảm trong nhiều năm.


5. Mèo báo
Mèo báo là một loài mèo nhỏ phân bố ở Nam Á và Đông Á. Dù kích thước giống mèo nhà, nhưng chúng sở hữu bộ da với hoa văn đẹp như báo đốm. Bị săn đuổi vì bộ lông giá trị, số lượng giảm sút, chỉ còn hơn 1000 con, mèo báo đã được vào diện cần bảo vệ. Xuất hiện nhiều tại Nam Mỹ, mèo báo là một trong những giống mèo có giá trị thương mại cao, nhưng ngày nay tính pháp lý đã ngăn chặn hành vi làm giảm số lượng chúng.
Mèo báo thuộc chi Prionailurus trong họ Mèo. Được mô tả vào năm 1792, loài này bị đe dọa do mất môi trường sống và săn bắt. Có 12 phân loài với bề ngoài có đốm giống báo, nhưng quan hệ xa so với báo. Mèo báo Tsushima sống trên đảo Tsushima, ban đầu được xem là phân loài của Mèo báo Trung Quốc, nhưng hiện nay thuộc Mèo báo Amur. Phân loài Iriomote từng được đề xuất là một loài vào năm 1967, nhưng dữ liệu gen học xếp vào phân loài của Mèo báo. Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế đánh giá mức độ nguy cấp từ Endangered năm 1986 lên Critically Endangered năm 2001.


6. Mèo đồng cỏ Châu Phi
Mèo đồng cỏ Châu Phi hay linh miêu đồng cỏ, là mèo hoang dã sống ở Châu Phi. Kích thước trung bình, đầu nhỏ, tai lớn, lông màu vàng kim đến vàng đậm với đốm và sọc đen. Chân dài nhất trong các loài mèo tương đồng. Sống chủ yếu ở thảo nguyên, cần nguồn nước trong lãnh thổ. Số lượng giảm sút, chỉ còn gần 5000 con do mất môi trường và săn bắn.
Mèo đồng cỏ châu Phi, mèo hoang dã phân bố tại châu Phi. Thân hình mảnh dẻ, cao bờ vai 54 – 62 cm, cân nặng 9 – 18 kg. Đầu nhỏ, tai lớn, lông vàng đến vàng đậm với đốm đen, đuôi ngắn có ngọn đen. Sống tránh sa mạc và rừng xích đạo, chúng hiếm khi leo trèo và bơi lội.


7. Báo gấm
Báo gấm hay báo mây, loài mèo họ Mèo. Lông màu nâu/hung, với đám 'hoa' elip lớn giống đám mây. Thân hình săn chắc, răng nanh dài nhất trong loài mèo còn tồn tại. Giỏi leo trèo với bốn chân khỏe, đuôi dài bằng thân. Sống ở miền nam Trung Quốc đến Đông Nam Á và Indonesia. Số lượng giảm còn khoảng 3300 con do mất môi trường và săn bắn.
Là giống mèo có giá trị thương mại cao, bộ lông của mèo Gấm là điều mà nhà săn thú khao khát. Tuy nhiên, tính pháp lý đã ngăn chặn hành vi giảm số lượng mèo gấm trong suốt hơn 1 thập kỷ qua. Sống rải rác ở nhiều khu vực Đông Nam Á.
So với mèo nhà, mèo gấm có vẻ ngoài bắt mắt với đặc điểm dưới cằm và môi trắng hoặc vàng nhạt. Thường có vài đốm trắng sau tai. Sợ con người, thường săn mồi khi hoàng hôn và di chuyển nhẹ nhàng, tránh sự chú ý.


8. Mèo núi Trung hoa
Mèo núi Trung Hoa là một loài mèo hoang đặc hữu miền tây Trung Quốc. Chúng sống chủ yếu ở Tây trung quốc, khu vực phía Bắc tây nguyên Tây Tạng. Mèo núi Trung Hoa có bộ lông dày, lông đuôi xù và không có giá trị kinh tế cao. Môi trường sống của chúng đang đe dọa và số lượng chỉ còn hơn 4200 con do loài chuột núi Pikas - thức ăn chủ yếu của chúng bị đầu độc.
Mèo núi Trung Hoa, hay còn gọi là mèo rừng Trung Hoa hay mèo xá lị, có lông màu cát với những sọc tối màu trên mặt và chân. Chóp tai màu đen, sọ rộng, và lông bụng nhạt màu. Chúng sống ở vùng đồng cỏ cao nguyên, lãnh nguyên núi cao và rừng cây hạt trần. Mèo núi Trung Hoa hoạt động chủ yếu vào ban đêm, săn pika, động vật gặm nhấm và chim. Mùa giao phối diễn ra từ tháng 1 đến tháng 3, và mèo cái thường sinh ra hai đến bốn mèo con trong một cái hang khuất tầm nhìn.


9. Mèo núi Andes
Mèo núi Andes phân bố ở các dãy núi Andes ở các quốc gia Peru, Bolivia, Chile và Argentina. Sống ở độ cao 3500 m - 4800 m, chúng giống mèo nhỏ giống báo tuyết với bộ lông màu xám bạc, đuôi dài và có chỉ khoảng 2000 con. Loài mèo quý hiếm này có nguồn gốc từ miền núi phía Bắc Chile và ít được nghiên cứu.
Loài Mèo núi Andes sống ở độ cao 3.500-4.800 m, giống mèo nhà nhưng trông lớn hơn với đuôi dài và bộ lông dày. Mèo núi Andes có cơ thể tương tự báo tuyết nhỏ, màu xám bạc với chấm đen và sọc. Kích thước trung bình là 57-64 cm, đuôi 41-48 cm, và trọng lượng khoảng 5,5 kg. Dân số ước tính chỉ còn khoảng 2.500 cá thể, là một trong 5 loài mèo nguy cấp nhất thế giới.


10. Mèo rừng Iberian
Mèo rừng Iberian là một trong những loài mèo quý hiếm nhất trên hành tinh và đang có nguy cơ tuyệt chủng. Loài mèo này từng bị săn bắt trên khắp lãnh thổ nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, nhưng hiện nay chỉ còn tồn tại tại Vườn Quốc gia Donana, Tây Ban Nha. Linh miêu Iberia (Lynx pardinus) là loài nguy cấp và nếu biến mất, sẽ là một trong những vụ tuyệt chủng của feline kể từ Smilodon 10.000 năm về trước.
Linh miêu Iberia tiến hóa từ Lynx issiodorensis và đang đối mặt với nguy cơ mất môi trường sống và giảm số lượng thỏ - nguồn thức ăn chính. Hiện IUCN cảnh báo rằng việc mất môi trường sống là nguy cơ lớn nhất đối với linh miêu Iberian, bao gồm cả phá hoại rừng sồi ở khu vực Địa Trung Hải. Nếu loài này tuyệt chủng, sẽ là loài mèo đầu tiên biến mất trong khoảng 10.000 năm.

