Chùa Tam Chúc được mệnh danh là ngôi chùa lớn nhất thế giới, có tổng diện tích gần 5.000 ha, bao gồm hồ nước: 1.000 ha, núi đá rừng tự nhiên: 3.000 ha, các thung lũng: 1.000 ha. Đây là ngôi chùa vô cùng đặc biệt với cảnh quan hùng vĩ: Tiền lục nhạn, hậu thất tinh (tiền lục nhạn nghĩa là mặt trước chùa có 6 quả núi giữa lòng hồ, tương truyền rằng đây là 6 quả chuông của nhà trời đưa xuống; hậu thất tinh là đằng sau có 7 ngọn núi có thể phát sáng khi có ánh sáng vào ban đêm).
Ngôi chùa được thi công bởi rất nhiều những người thợ thủ công lành nghề của Phật giáo, Ấn Độ giáo, Hồi giáo và Thiên Chúa giáo. Năm 2000, khi khảo sát làm thủy lợi lòng hồ Tam Chúc, công nhân xây dựng đã phát hiện ra rất nhiều dấu tích các hiện vật liên quan đến chùa Tam Chúc xưa. Từ các hiện vật khảo cổ, bước đầu có thể kết luận rằng chùa Tam Chúc đã có niên đại trên 1000 năm. Trải qua rất nhiều năm tháng, giờ chỉ còn lại những di tích cột gỗ, cột đá, xà đá còn vùi lấp ở nền móng cũ, trong đó có những cột gỗ có đường kính trên 1m, những xà đá, cột đá rất lớn mà chúng ta chưa thể hiểu được ông cha ta trước kia dựng chùa bằng cách nào với kích thước lớn như vậy. Ngôi chùa Tam Chúc được xây dựng lại có tới 12.000 bức tranh đá miêu tả các sự tích của Đức Phật, được những người Hồi giáo Indonesia tạc bằng đá núi lửa ở Indonesia sau đó đưa sang Việt Nam. Chùa Tam Chúc đang thiết lập một vườn cột kinh khổng lồ với 1.000 cột đá, mỗi cột cao 12m, nặng 200 tấn. Hiện tại đang dựng được khoảng 36 cột kinh do các nghệ nhân lành nghề Việt Nam tạc và dựng. Đây sẽ là vườn cột kinh lớn nhất thế giới khi hoàn thành.
Trên trục thần đạo Chùa Tam Chúc gồm: Chùa Ngọc, Điện Tam Thế, Điện Pháp Chủ, Điện Quan Âm, Cổng Tam Quan, Phòng họp Quốc tế. Những ngôi điện, các pho tượng Phật tại chùa Tam Chúc có diện tích, kích thước rất lớn. Chùa Ngọc nằm trên đỉnh núi Thất Tinh đang được thi công bởi những nghệ nhân Ấn Độ giáo và được hoàn thành trong năm 2018. Điện Tam Thế có chiều cao 39m, diện tích sàn 5.400m², giúp cho 5.000 Phật tử có thể hành lễ cùng một lúc. Phòng họp Quốc tế nổi trên mặt hồ, có diện tích sàn 10.000m², có sức chứa 3.500 chỗ ngồi và Cổng Tam Quan đang trong quá trình thi công. Dự tính, thời gian hoàn thành quần thể chùa vào năm 2048. Từ khi khởi công đến khi hoàn thành là 50 năm. Hiện nay, hệ thống giao thông kết nối Hà Nội và Hà Nam vô cùng thuận lợi. Chùa Tam Chúc cách chùa Bái Đính 30km và cách chùa Hương 4,5km tạo thành một quần thể ”Tam giác vàng” du lịch tâm linh, nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi, giải trí của khách du lịch trong và ngoài nước. Với mục tiêu quản lý, khai thác hiệu quả các giá trị về cảnh quan thiên nhiên, bảo tồn giữ gìn cảnh quan môi trường sinh thái bền vững, trong thời gian không xa, khu du lịch Tam Chúc sẽ là điểm nhấn và được kỳ vọng sẽ tạo bước đột phá trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội cho tỉnh Hà Nam.
Chùa Bà Đanh có diện tích 10 ha nằm ở thôn Đanh, xã Ngọc Sơn, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam. Chùa cách trung tâm Phủ Lý khoảng 7km theo hướng Tây Nam theo đường Quốc lộ 21B. Chùa quay mặt hướng Nam ra mạn sông Đáy. Phía ngoài cùng tiếp giáp với đường đi và gần bờ sông là cổng tam quan của chùa. Tổng thể chùa Bà Đanh Hà Nam bao gồm nhiều công trình với hơn 40 gian nhà. Nơi đây có diện tích hơn 10ha, là ngôi chùa rộng nhất nhì tỉnh Hà Nam. Công trình này nền được tôn cao, xây vượt hẳn lên năm bậc và hai đầu xây bít đốc. Tam quan có ba gian và được làm thành hai tầng. Tầng trên có hai lớp mái lợp bằng ngói nam, xung quanh sàn gỗ hàng lan can là những trấn song con tiện. Tầng này sử dụng làm gác chuông, ba gian dưới có hệ thống cánh cửa bằng gỗ lim.
Chùa Bà Đanh được xem là một trong những ngôi chùa đẹp và cổ kính nhất Hà Nam nói riêng và của miền Bắc nói chung, bởi ngôi chùa có vị trí là nơi sơn thủy hữu tình. Khuôn viên chùa là một tổng thể bao gồm nhiều công trình kiến trúc nghệ thuật với gần 40 gian nhà lớn nhỏ. Cũng như bao ngôi chùa khác, chùa Bà Đanh thờ phật, song ngoài tượng Bồ Tát còn có tượng Nam Tào, Bắc Đẩu, Thái Thượng Lão Quân và các tượng của tín ngưỡng Tứ Phủ, một tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Tương truyền rằng vào thế kỷ thứ VII, đây là một ngôi đền nhỏ thờ tứ pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện). Đến thời Lê Huy Tông (1675 - 1750), chùa được xây dựng đàng hoàng và to đẹp hơn. Năm 1994 chùa Bà Đanh được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa - Thể Thao - Du Lịch) cấp bằng Di tích lịch sử cấp quốc gia. Năm 2007, UBND tỉnh Hà Nam phối hợp với Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch đầu tư gần 20 tỷ đồng để tôn tạo và nâng cấp chùa Bà Đanh.
Về tên gọi chùa Bà Đanh, theo truyền thuyết của địa phương, chùa thờ nữ thần linh thiêng trông coi việc điều mưa khiển gió, giúp dân trừ lũ lụt, đem lại mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu nên được gọi là chùa Đức Bà làng Đanh, gọi tắt là chùa Bà Đanh như tên gọi ngày nay.
4. Chùa Tiên
Chùa Tiên đặt ngự trên đỉnh núi Đụn, ẩn hiện tại thôn Đồi Ngang, xã Thanh Lưu, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Đây là một điểm đến đầy huyền bí của Thanh Liêm, nơi mà 99 con phượng hoàng được cho là bay về và ngự trên 99 ngọn đồi, bên cạnh bàn cờ tiên.
Vào những đêm trăng thanh gió mát, tiên thường xuống giới nhân để thưởng ngoạn vẻ đẹp của núi rừng. Tưởng nhớ các bậc tiên thánh, nhân dân trong khu vực đã xây dựng ngôi chùa này từ những năm 1670, khiến nó trở thành ngôi chùa có lịch sử lên đến hơn 350 năm. Chùa Tiên cũng là ngôi chùa lâu đời nhất trong tất cả các chùa ở Hà Nam, đã trải qua nhiều lần tu sửa với vô số câu chuyện huyền bí xung quanh.
Hiện nay, xung quanh khu vực của chùa Tiên vẫn giữ lại nhiều ngọc phả, sắc phong quý và có ý nghĩa lịch sử lớn đối với Thanh Liêm. Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, danh thắng chùa Tiên đã trở thành nơi nghỉ ngơi và du lịch sinh thái được người Pháp lựa chọn. Suốt hàng trăm năm, ngôi chùa này đã trải qua nhiều lần tu sửa. Lễ hội Chùa Tiên được khôi phục từ năm 1992 và diễn ra từ ngày mùng 1 đến ngày 3 tháng 3 âm lịch. Cùng với nghi thức rước mẫu lên chùa, nghi thức tế lễ cầu quốc thái dân an, lễ hội còn có nhiều hoạt động văn hóa nghệ thuật, thu hút đông đảo tín đồ Phật tử và du khách thập phương tham gia.
5. Chùa Đặng Xá
Chùa Đặng Xá tọa lạc tại thôn Đặng Xá, xã Văn Xá, huyện Kim Bảng, là một ngôi chùa cổ có độ tuổi lâu dài, được biết đến với tên gọi chùa Khánh Hưng. Thần phả và sắc phong cho thấy chùa thờ Đại Thánh Pháp Vân Phật, một trong Tứ Pháp. Trong chùa lưu giữ nhiều đồ thờ tự cổ có giá trị, trong đó có một hương án bằng đá xanh được tạo lập vào tháng 11 năm Mậu Tý (1708) thời vua Lê Dụ Tông, đặt phía trước trong tòa hậu cung.
Vượt qua nhiều biến cố lịch sử, Chùa Đặng Xá vẫn được cư dân Đặng Xá, Văn Xá và khu vực lân cận trùng tu, tôn vinh, giữ được vẻ đẹp cổ kính của mình trên mảnh đất cổ xưa. Từ năm 2007 và 2008, với sự hỗ trợ của Tỉnh Hà Nam, Huyện Kim Bảng, cùng sự đóng góp của chính quyền địa phương, tổ chức và nhân dân Làng Đặng Xá - Xã Văn Xá, chùa Khánh Hưng đã trải qua quá trình trùng tu và xây dựng mới, quy mô hơn rất nhiều.
Đặc biệt, nhà chùa đã đúc và đặt tượng Phật bằng đồng có trọng lượng gần 9 tấn, đặt trên bệ đá đồ sộ trong khuôn viên chùa. Đây là bức tượng Phật bằng đồng lớn nhất trong tất cả các chùa ở Việt Nam, thể hiện 4 vị Phật Pháp, là biểu tượng của nền văn minh lúa nước Việt Nam.
6. Chùa Bầu
Chùa Bầu, hay còn được biết đến với tên chữ Thiên Bảo Tự, nằm đậm chất trên đường Nguyễn Văn Trỗi, phường Hai Bà Trưng, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Nơi đây không chỉ là điểm địa linh danh thắng, mà còn là lễ hội tâm linh lâu đời trải qua hàng thế kỷ, chiếm diện tích 4000 m2. Với bức tranh thiên nhiên hài hòa, hồ nước rộng và sâu trước chùa liền mạch với sông Đáy, tạo nên một cảnh đẹp thanh tĩnh và tâm linh cho chùa. Theo quan niệm âm dương ngũ hành, mỗi ngôi chùa thường kèm theo một hồ nước, biểu tượng cho sự cân bằng âm dương.
Sự hiện diện của âm và dương tạo nên một tình cảnh hài hòa trong trời đất, theo quan niệm phong thủy, chùa là nơi linh thiêng cần được tôn trọng và kính trọng. Hồ nước trước chùa không chỉ làm đẹp cho cảnh quan mà còn nhắc nhở người ta rửa sạch tay chân trước khi bước vào không gian linh thiêng để thực hiện lễ bái. Điều này thể hiện văn hóa tâm linh không khác gì những ngôi chùa khác.
Điểm đặc biệt ở đây là chùa này đã trải qua quá trình trùng tu và tôn tạo trên diện tích 4000 m2 của chùa Bầu cũ, mất khoảng 3 năm để hoàn thành. Sự kết hợp giữa kiến trúc truyền thống dân tộc và kiến trúc hiện đại làm nổi bật cho công trình. Theo tài liệu lưu trữ, chùa Bầu có hơn 1000 năm tuổi, thuộc làng Bầu, vực Bầu và chợ Bầu ngày nay. Đây là nơi gắn bó với nền văn hoá tâm linh của nhiều thế hệ, từ phật tử xã Châu Cầu (trước đây) đến ngày nay là thành phố Phủ Lý - Hà Nam. Chùa Bầu được xây dựng với hai tầng, tầng một làm nhà khách, là nơi sinh hoạt cho các nhà sư và phật tử, tầng hai là nơi thờ tự.
Bước vào cổng tam quan, bạn sẽ thấy tiền đường với đồng thờ Ông và thờ Bà, cùng với khu điện thờ Phật. Tòa Tam Bảo ở Thượng điện có ba pho: Tam Thế trên cùng; pho thứ hai là tượng A Di Đà - tượng lớn nhất trong phật điện; pho thứ ba gồm Thích Ca Mâu Ni ngồi giữa Bồ Tát Văn Thù bên trái và Bồ Tát Phổ Hiền bên phải; hàng cuối cùng trên Phật điện là tượng Thích Ca sơ sinh. Phía sau tiền đường là nhà Tổ và cũng là nơi thờ Mẫu. Trung tâm hồ chùa Bầu có một tháp nhỏ, tô điểm cho cảnh đẹp của khu vực chùa.
Ngày nay, Chùa Bầu vẫn giữ lại nhiều hiện vật quý giá từ triều Vĩnh Thịnh năm thứ 6 (1663) như 28 đạo sắc phong về Đức Pháp Vân Phật và đạo sắc phong cuối cùng vào năm thứ 9 vua Khải Định, cùng một quả chuông đúc nặng 0,95m, đường kính 0,57m vào mùa xuân năm thứ 3 Hoàng triều Minh Mệnh (1822), và một tấm bia đá xanh cao 1,25m, rộng 0,8m.
Cùng với những nhà thờ, chùa khác trên địa bàn thành phố, Chùa Bầu nổi bật với kiến trúc độc đáo và trang trí nội thất kết hợp giữa phong cách truyền thống và hiện đại. Điều này làm nổi bật nét độc đáo của chùa Bầu so với các công trình kiến trúc khác ở Hà Nam. Các công trình kiến trúc này không chỉ chiếm lĩnh không gian rộng lớn, mà còn gần gũi với công viên Nguyễn Khuyến, không bị áp đặt trong không gian chật hẹp của các khu vực đô thị, tạo nên không khí thanh tịnh và yên bình giữa thành phố hối hả.
7. Chùa Tam Giáo
Chùa Tam Giáo, hay còn được biết đến là chùa Ông. Từ đền Tiên Ông, theo dọc theo sườn núi khoảng 1km, chùa Tam Giáo một thời kỳ lẫy lừng với hàng trăm gian và hàng trăm pho tượng Phật tráng lệ. Chùa nằm dưới chân núi, với một suối nước trong lành chảy từ lòng núi ra.
Trên đường từ đền Tiên Ông đến chùa Tam Giáo, trước kia, có nhiều hang động đẹp mắt, nhưng do sự biến động của thiên nhiên và sự can thiệp của con người, nhiều hang đã mất đi. Xung quanh Tam Giáo tự, nhiều thần tích được truyền kỳ, như sự linh ứng phù Lê diệt giặc Minh, được vua Lê ban tặng mỹ tự và bộ kiệu bằng gỗ dâu; hóa dữ thành yên giúp thủ lĩnh nghĩa quân Đề Yêm đánh bại quân Pháp. Đây cũng là nơi có công binh xưởng sản xuất vũ khí Liên khu III hoạt động trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở Hà Nam.
Không chỉ thu hút bởi vẻ đẹp của núi, Tượng Lĩnh còn là địa điểm nổi tiếng với câu chuyện dân gian về Trầu Cau, liên quan đến tập tục ăn trầu của người Việt. Hiện tại, địa danh suối Cau vẫn còn tại dãy núi đá vôi (hiện nay gọi là suốt Tân Lang), và chợ Trầu (đổi tên thành chợ Giầu). Với cảnh đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và dấu vết lịch sử còn tồn tại, quần thể Bát Cảnh Sơn nếu được khai thác một cách sáng tạo chắc chắn sẽ trở thành điểm đến du lịch sinh thái - văn hoá hấp dẫn tại Kim Bảng, Hà Nam.
8. Chùa Long Đọi
Theo quan niệm của các nhà lịch sử, chùa Long Đọi Sơn nằm trên đất Cửu Long, hình như một con rồng lớn giữa đồng bằng màu mỡ. Đầu núi Đọi nhô lên cao với hướng nhìn về Thăng Long. Đứng trên đỉnh núi, bạn sẽ thấy 9 con đường và dòng sông uốn lượn như 9 con rồng đất. Điểm đặc biệt là những cái giếng xung quanh núi Đọi trong khu dân cư và dưới chân núi tạo nên đôi mắt của rồng.
Dưới chân núi, du khách sẽ đi qua 373 bậc thang đá uốn lượn để đến chùa rộng hơn mười nghìn mét vuông. Tại đây, sự thanh bình và yên tĩnh dưới bóng cây cổ thụ kết hợp với nét đẹp của rêu phong tạo nên không gian thư giãn. Sân và vườn hoa phía sau chùa mang lại sự tĩnh lặng, và hành lang hai bên trưng bày vị La hán và hậu điện lung linh. Những di vật lịch sử quý giá được trưng bày ở đây còn làm tôn thêm vẻ cổ kính.
Với hơn nghìn năm tuổi, Chùa Long Đọi đã chứng kiến nhiều biến động lịch sử. Ngôi chùa này đứng nguyên trên núi Đọi, quan sát mọi thay đổi xung quanh mỗi ngày. Hiện nay, chùa đang lưu giữ nhiều tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng như tấm bia Sùng Thiện Diên Linh, tượng Quan Âm Thị Kính, tượng Dị Lặc, ... Tất cả đều tạo nên một không gian đặc biệt và mới lạ chỉ có tại chùa Đọi.
9. Chùa Trinh Tiết
Chùa có tên chữ “Phật Tích tự” tên Nôm “Trinh Tiết” Núi Trinh Tiết ở bờ trái dòng sông Đáy, hợp với dòng nước uốn lượn, trong xanh như bức tranh sơn thủy ngoạn mục. Chùa Phật Tích dọc theo sông Đáy, xây lại dưới thời Lê Chung Hưng. Chùa kiến trúc kiểu chữ “Nhị” gồm hai tòa, mỗi tòa ba gian, đã trải qua nhiều lần trùng tu, lần gần đây nhất vào năm 1930. Chữ viết ở nóc Tiền đường ghi rõ: “Bảo Đại Canh Ngọ thập nhị nguyệt sơ lục nhật trùng tu”.
Bên phải chùa có ngôi miếu thờ “Thập Bát Long thần Chân tể ”- một vị thiên thần, dân gian tôn xưng là Đức ông. Ở cửa miếu còn câu đối theo kiểu nhấn vữa, phác họa phong cảnh nơi đây: “Thụ thập kỳ viên, cổ vãng kim lai quang bất tận. Sơn danh Trinh Tiết phong thanh nguyệt bạch hội thường vân”.Tạm dịch: Vào đám cây trong chốn kỳ viên, xưa tới nay phong quang vô tận. Tên ngọn núi là Trinh Tiết, trăng trong gió mát vận hội canh tân.
Chùa nằm gần Quốc lộ 1A, thuận tiện cho khách thăm quan. Theo tuần tiết, chùa Phật Tích quanh năm vẫn khói hương bốc lên. Lễ Phật hay tưởng niệm công chúa thời Trần đều thu hút nhân dân trong vùng. Chuyện kể rằng: tháng 3 năm Mậu Dần (1389), Hồ Quý Ly bắt ép vua Trần Thuận Tông đi tu và nhường ngôi cho Thái tử Trần An mới 3 tuổi. Trần Thị Bạch Hoa, chị gái của Thái Tử, được cứu và đưa đến đây xây chùa, tạo dựng công đức cho dân.
10. Chùa Khánh Long Tự
Chùa Khánh Long Tự là một ngôi chùa cổ tự từ thời nhà Trần. Dân làng kể rằng đây là nơi của các bậc hiền sư thời Trần. Dưới thời Cảnh Hưng thứ 7, chùa được mở rộng và trùng tu. Năm 2010, Thích Tâm Tuệ từ Huế đã khôi phục chùa trên nền di tích đổ nát, mang đến diện mạo mới. Kiến trúc với âm hưởng xứ Huế mộng mơ và yên bình. Chùa Khánh Long Tự khiến người đến đây ấn tượng với không gian xanh mướt và tươi đẹp.
Từ cổng chùa, du khách sẽ bước vào không gian với những dãy nhà 2 tầng xây truyền thống, tạo nên vẻ đẹp mới lạ. Tầng 1 là trà thất, tầng 2 là khu tăng phòng. Cửa ngách hai bên chính điện mở ra những khoảng sân vườn xanh mát, tạo điểm độc đáo so với kiến trúc chùa Bắc Bộ.