- - Sự tích cây Nhân Sâm kể về lòng tham và sự không biết quý trọng, khi gia đình nghèo buộc con trai Nhân Sâm để lấy sức khỏe từ cây sâm và gây ra cái chết của cây sâm, làm mất đi khả năng trường sinh bất tử của nó.
- - Sự tích cây hoa Đại kể về tình bạn giữa em bé nghèo và chú hươu con. Em bé cứu hươu con khỏi cái hố và nuôi dưỡng nó, nhưng bị lão đồ tể ác độc phát hiện và đánh đập. Sau khi hươu con cứu em bé, em phải rời đi để học tập, và dù em lo lắng về hươu con, hươu vẫn không quên bạn mình.,.
- - Hươu, sau khi bị một người độc ác và hai tên khác truy đuổi, tìm thấy một ngôi chùa và nghĩ có thể gặp lại người đã cứu mình, nhưng hoảng sợ khi nghe tiếng chuông và bỏ chạy vào rừng sâu.
- - Năm tháng trôi qua, hươu trở thành đầu đàn và nhớ lại người bạn cũ, tìm về nơi xưa nhưng ngày càng già yếu, cuối cùng chết bên miệng hang.
- - Người bạn của hươu, sau khi trở về thăm quê, nhận ra rằng cây hoa Đại gần miệng hang chính là hiện thân của hươu và trồng cây để nhớ ơn hươu.
- - Truyền thuyết về cây hoa Đại giải thích rằng hoa có hình dáng như mắt hươu và cây mang tên Đại (chờ đợi) để tưởng nhớ hươu.,.
- - Cuộc sống trong làng tươi sáng nhờ cây Nhọ Nồi, truyền thuyết về nó giữ tình người sống mãi.
- - Quất Giỏi, một chàng trai câm điếc, dũng cảm đánh bại giặc và nhận phần thưởng là cây chanh vàng, giúp tan băng giá và mang hòa bình về quê hương.
- - Cây Quất, thuộc họ cam chanh, có quả tròn, xanh khi non và vàng cam khi chín, mang ý nghĩa may mắn và tài lộc.
- - Cây Thì Là được đặt tên nhờ sự hữu ích trong món ăn, thể hiện sự cần thiết của kiên nhẫn và giá trị bản thân.
- - Cây Xương Rồng, biểu tượng của tình yêu vĩnh cửu, xuất phát từ câu chuyện của một cô gái hóa thành cây khi yêu người đàn ông biến thành cát.
- - Cây Lúa, theo truyền thuyết, được Nữ thần Lúa ban phước cho, làm lúa tự chín và về nhà, giúp con người có cơm mà không cần gặt.,.
- - Nữ thần Lúa, tức giận vì lúa không được dọn dẹp, quyết định không cho lúa tự về, yêu cầu phải hái bằng liềm và phơi khô trước khi xay thành gạo. Nàng cũng cấm lúa nảy mọc đôi khi, buộc người phải cấy lúa bằng tay. Để tạ ơn, người ta cúng thần Lúa sau mỗi vụ thu hoạch.
- - Câu chuyện về cây Ngô kể về Aưm, một cậu bé nghèo cứu mẹ bằng quả lạ mà cậu tìm thấy trong giấc mơ. Hạt từ quả này trở thành cây ngô, giúp cộng đồng thoát khỏi đói khát, và được gọi là cây Aưm hay cây ngô.
Sự tích cây Nhân Sâm kể về lòng tham lam và sự không biết quý trọng của con người, thông qua câu chuyện cổ tích Việt Nam.
Xưa kia, có một gia đình nghèo có đứa con trai khỏe mạnh được cộng đồng gọi là Nhân Sâm. Bí mật là cây sâm giúp cậu khỏe mạnh nhưng không ai biết.
Nhân Sâm được những đứa trẻ láng giềng mời chơi hàng ngày và cây sâm, đặc trưng như mái tóc vàng của cậu, đã truyền sức khỏe cho những đứa trẻ khác.
Cha mẹ của Nhân Sâm ngạc nhiên khi con khỏe mạnh mà ăn cơm rất ít. Khi biết được bí mật, họ quyết định buộc chặt cậu để đổi lấy sức khỏe cho cả gia đình. Thật đáng tiếc, họ làm chết cây sâm và từ đó, sâm chỉ còn là thức ăn bổ dưỡng, mất đi khả năng trường sinh bất tử.
Chuyện về Nhân SâmNhân Sâm và Sức Khỏe
Sự tích cây hoa Đại là truyện cổ tích Việt Nam, ngoài việc giải thích về nguồn gốc cây hoa Đại, còn ngợi ca tình bạn gắn bó giữa một em bé và chú hươu con.
1. Em bé và hươu con
Ngày xưa, có một em bé nghèo, rất thương mẹ mà đành phải xa mẹ, đi ở cho một lão đồ tể chuyên giết lợn. Lão đồ tể ngày ngày bắt em lên rừng kiếm củi thể đun nước giết lợn, cạo lông. Những ngày đầu, em còn phải bám theo các bác đốt than cho biết đường đi, đường về. Nhưng sau đó em đi một mình. Dăm ngày một lần, em lại đi đường vòng xa hơn, để ghé qua nhà thăm mẹ cho đỡ nhớ. Nhân tiện em biếu mẹ một mớ củi và một ít sim rừng, ổi rừng.
Đường lên núi phải qua một ngôi chùa nhỏ ở ngay lưng núi. Lên đến chỗ kiếm được củi thì mặt trời cũng vừa lên cao. Em bé nhìn xuống chân núi tìm bến nước và túp lều của mẹ. Xa quá, em không thấy gì nhưng cũng nhìn cho đỡ nhớ.
Một hôm, em đang chặt củi ở bên một sườn núi thì bỗng thấy ở dưới một cái hố sâu có một chú hươu con bị sa xuống đó từ lúc nào không rõ. Chú hươu con lo lắng, chỉ biết im lặng. Chú mở to đôi mắt, ngẩng đầu lên nhìn quanh, như đợi mẹ đến cứu mình.
Chú bé cũng nhìn quanh xem hươu mẹ có ở đâu đó không, nhưng chỉ thấy cây rừng và tiếng gió chạy vòng quanh chân núi. Em bé liền lần xuống hố, ẵm chú hươu con lên. Thấy người, lúc đầu chú hươu con cũng lo sợ. Nhưng chỉ một lúc, chú đã để yên cho em bé vuốt ve. Em bé bứt một ít cỏ non cho hươu con ăn, rồi lại bẻ một miếng cơm nhỏ xíu ở cái nắm cơm không lớn bằng nắm tay của mình, chấm vào muối bón thử cho hươu con. Hươu con chưa quen ăn cơm, nhưng hình như thích cái vị mằn mặn của muối.
Em bé muốn đem con hươu con về nhà mẹ nhưng sợ lão chủ biết. Còn đem về nhà lão chủ, thì lão sẽ thịt mất con hươu của mình. Lão vẫn thường nói với mọi người là nào rất thèm thịt hươu. Em vẫn nhìn xung quanh và mong đợi hươu mẹ trở lại để cho hươu con được gặp và sống với mẹ. Mình cũng còn thích sống gần mẹ nữa là.
Chờ mãi không thấy, mà trời đã xế chiều. Em bé tìm một cái hang nhỏ, cho hươu con vào đó và lấy đá chặt kín lại.
– Ngày mai ta sẽ lên với hươu con! Hươu con đừng lo, cứ ngủ cho ngon nhé!
Hôm sau, em bé lại lên rừng. Em thở phào mừng rỡ khi thấy hươu con vẫn còn đó. Gặp lại các em, hươu con cũng cũng vui lắm, cứ lấy mũi ngửi ngửi vào tay em.
– À! Mày lại muốn ăn cơm với muối chứ gì?
Chú bé lại bẻ một miếng cơm nhỏ xíu, chấm vào muối rồi bón cho hươu con. Em lại đi hái cỏ non mang đến. Trong lúc chặt củi, em cho hươu con đứng cạnh. Có hươu con, em chặt củi không mệt chút nào.
Từ đó, em bé và hươu con trở thành đôi bạn, ngày nào cũng gặp nhau, nhưng đêm cũng phải xa nhau. Thương hươu con không có mẹ, lại quấn quýt với mình, nhiều đêm em bé nằm mơ gặp hươu con và đùa giỡn với nó.
2. Lão đồ tể ác độc trong truyện Sự tích cây hoa Đại
Một đêm, lào đồ tể thức dậy ra sân xem trời gần sáng chưa để giết lợn. Bỗng hắn nghe ở dưới bếp tiếng em bé đang nằm nói mê, rõ thành lời như đang thức:
– Hươu à, hươu ăn chóng lớn, hươu mọc tôi sừng thật cao, thật đẹp nhé!
Lần ấy lão không để ý mấy. Nhưng sau đó, lão lại nghe bọn người nhà mách là em bé cứ thường nói mê như thế. Và cái câu em hay nói nhất vẫn là câu này:
– Hươu à, hươu ăn chóng lớn, hươu mọc tôi sừng thật cao, thật đẹp nhé!
Lào đồ tể cau đôi mày sâu róm lại nghĩ bụng:
– Biết đâu lại chẳng có hươu thật!
Lão sai người nhà lén theo em bé lên rừng. Tên người nhà ranh ma lên rừng, thấy hết cảnh em bé cùng chú hươu con gặp nhau và sống bên nhau suốt cả ngày. Hắn về mách với lão chủ. Lão chủ liền nói:
– Đúng vậy thì ngày mai tao sẽ đi xem. Chúng mày theo tao bắt cho kì được con hươu về.
Hôm sau, em bé lại lên rừng. Lòng em vui biết bao nhiêu. Mới chỉ một thời gian ngắn, hươu con đã lớn lên trông thấy và ngày càng tỏ ra khôn ngoan không ngờ. Hình như em bé nói gì, nghĩ gì, hươu chơi chơi xổ sốu hiểu được cả, và ngoan ngoãn làm theo, Nhưng hôm đó, khi em vừa đón hươu con ở trong hang ra, chưa kịp cho hươu ăn, lão đồ tể cùng với hai tên người nhà đã ập tới. Em bé đành hét lớn:
– Hươu ơi chạy đi!
Thấy hươu con chần chừ. Em bé bèn phát vào cổ nó một cái thật mạnh, và quát:
– Chạy đi!
Hươu con hiểu ý, phóng như bay vào rừng. Lão đồ tể và hai tên người nhà đuổi theo nhưng không kịp. Huơu con lẫn vào với cây cỏ, không biết đâu mà tìm.
Lão đồ tể giận lắm, quay lại đánh em bé một trận. Trong cơn điên tiết, lão lấy luôn một hòn đá ném vào người em bé. Không may, hòn đá lại trúng vào đầu. Em bé ngã lăn ra, nằm không động đậy. Lão đồ tể bỏ mặc em giữa rừng, cùng hai tên người nhà trở về. Hươu con chạy rất xa, lên một đỉnh đồi nhìn xuống. Thấy lão đồ tể độc ác cùng hai tên người nhà đã về thật rồi, hươu con chạy xuống với bạn thân thiết của mình. Hươu con hà hơi ấm vào lưng và ngực em bé. Một lúc lâu sau em bé tỉnh dậy. Thấy hươu con, em mừng quá, ôm lấy cổ hươu và khóc.
– Không có hươu thì ta chết rồi!
Người và hươu kéo nhau đi sang khu rừng khác, tránh ngày mai lão đồ để lại có thể đưa người và dắt cả chó lên theo. Phải đi thật xa, thật xa. Vì vậy, đã khuya rồi, trăng đã lặn mà vẫn có hai cái bóng nhỏ, em bé và hươu con nương vào nhau mà đi.
Vết thương ở trên đầu đau nhức nhưng muốn cứu hươu, cứu mình, em bé cố bước đi. Lúc nào mệt quá em lại ngồi xuống, hươu con lại quấn quýt như vỗ về, an ủi, lại hà hơi ấm vào lưng, vào ngực em bé.
Hôm sau, lão đồ tể đưa người và chó lên thật. Nhưng lùng sục mãi không thấy hươu đâu, lão đành hập hực trở về. Không thấy xác em bé, lão cũng hơi lo lo, không biết là thú rừng đã ăn thịt hay em bé đã sống lại.
Em bé ở với huơu mấy ngày liền trong khu rừng xa, tìm lá để chữa vết thương. Người và hươu toàn ăn quả rừng, cỏ rừng để sống. Được mấy ngày, nhớ mẹ quá, em bé nói với hươu con:
– Hươu ơi, ta nhớ mẹ quá. Ta về thăm một bữa, rồi sẽ trở lên ngay với hươu.
Hươu con như hiểu được ý em bé. Nó mở to đôi mắt nhìn người chủ nhỏ. Đôi mắt nó bỗng ươn ướt như đang khóc. Rồi nó gật đầu liền mấy cái. Nó đưa cho người chủ nhỏ ra tận bìa rừng và quay lại đứng trên một hòn đá to nhìn theo.
3. Nỗi lòng của em bé
Em bé về gặp mẹ, được cho hay là cách đây vài hôm, lão chủ có sai người đến dò hỏi, xem em bé có trốn về không… Mẹ em không hề hay biết là em bị lão đánh suyết chết. Em về thì cũng gặp ngay người chú đi chèo thuyền thuê ghé thăm. Nghe chuyện em kể, người chú liền nói:
– Đã vậy thì cháu cứ theo chú. Chú sẽ giúp cho cháu ăn học nên người.
Em bé lo lắng:
– Nhưng còn hươu con?
– Hươu con ở trong rừng thì có gì mà cháu lo?
– Cháu hẹn với hươu con sẽ trở lên với nó mà!
– Hươu con làm sao mà hiểu được lời người nói?
– Chú ơi, nó hiểu được đấy. Nó tiễn cháu đi, còn biết khóc nữa kia mà!
– Thì cháu cứ theo chú ăn học. Nay mai khôn lớn cháu trở về. Lúc đó sẽ gặp lại hươu không muộn.
– Liệu hươu có chờ cháu không?
– Có chứ! Nó khôn vậy thì nó sẽ biết chờ.
– Cháu chỉ thương nó sống một mình, nó sẽ buồn lắm.
– Cháu đừng lo! Rồi nó sẽ tìm đàn, nhập đàn mà sống.
– Nhưng rồi nó có quên cháu không?
– Nó khôn ngoan, nó thương cháu thì sẽ không quên cháu đâu.
Em bé đánh nghèo theo lời chú dỗ dành của chú và mẹ. Chỉ khổ cho em là ngay tối hôm đó, người chú đã phải cho thuyền rời bến để đi về cho kịp ngày đã hẹn với chủ thuyền. Đêm đó, em bé cứ ngồi ở đầu mũi thuyền nhìn lên ngọn núi cao.
– Hươu con ơi! Hươu chờ ta nhé! Ta sẽ về, sẽ đưa hươu xuống dưới này sống với mẹ con ta.
Lòng em bé muốn vậy, nhưng cuộc đời đâu có phải ai muốn gì thì được nấy. Em bé về với ông chú, được ông chú gửi cho ăn học ở nhà một ông đồ nghèo nhưng rất thương người. Trong một chuyến đi xa, thuyền ông chú bị đẵm. Ông chú không về nữa. Em bé được ông đồ nuôi dạy, nhưng từ đó phải ở luôn với ông. Đường về quê mẹ xa quá, em càng thấy thương mẹ gấp bội. Sau đó vài năm em nghe tin mẹ mất…
Hết thương mẹ, em lại nhớ đến hươu, chú hươu con ngày nào, nhưng em cứ tin là chú hươu bây giờ đã lớn và nhập đàn sống với đồng loại của nó. Chắc hẳn nó đã quên mình.
4. Con hươu có nghĩa
Nhưng hươu kia không quên. Hươu vẫn nhớ người bạn, người chủ nhỏ của mình. Hươu chỉ lạ sao loài người lại khác nhau vậy. Người thì tốt như em bé. Người thì ác như lão đánh em và hai cái tên cứ chực tuổi bắt cho được hươu.
Một hôm, từ trên mỏm đồi cỏ tranh cao, hươu bỗng thấy có bóng người đi lại ở ngôi chùa. Từ xa hươu cứ tưởng trong đấy có em bé, bạn và chủ của mình, người đã cứu mình. Hươu liền đi về phía ngôi chùa. Nhưng hươu cũng biết nghĩ chưa chắc là cậu bé, nếu không cậu ấy đã đi tìm gặp mình. Dù sao cũng cứ đến gần xem…
Những con người này có vẻ cũng không phải là ác như cái lão đồ tể và hai tên kia. Hươu đến sát chân chùa thì bỗng nghe một tiếng chuông đánh. Tiếng chuông đánh gần quá làm hươu hoảng hồn. Hươu phóng thẳng một mạch vào rừng sâu.
Nhiều năm trôi qua, hươu lớn lên, sừng bắt đầu mọc. Đôi sừng cao khỏe, nhưng nhìn hươu vẫn rất hiền lành. Hươu vẫn còn ý chờ gặp lại người chủ người bạn chủ cũ. Đời hươu không thể dài bằng đời người. Hươu đã trở thành con hươu đầu đàn. Một hôm, hươu bỗng gặp một đoàn người đi đốt than. Hươu muốn đến gần, nhưng vẫn còn e ngại.
Chờ cho họ về hết, hươu mới rời đàn, một mình đến gần chỗ họ đã ngồi tụ tập với nhau. Một ít muối của những người đốt than còn để rơi lại. Hươu nếm cái vị mằn mặn của muối bỗng thấy nhớ người bạn của mình không chịu nổi. Thế là hươu để lại đàn cho một con hươu khác, rồi một mình tìm đến chốn cũ, nơi có cái hang xưa hươu đã sống ở đó, để ngày ngày chờ cậu bé đã cứu mình.
Cái hang vẫn còn nguyên, cỏ mọc quanh miệng hang rất tốt, rất xanh. Nhưng hươu mỗi ngày một già dần. Mặt trời sắp lặn. Hươu già nằm xuống, giấu mình trong bụi cây rậm ở ngay bên hang. Hươu cảm thấy mình không thể đứng dậy được nữa. Một thời gian sau, hươu già chết, chết ở ngay bên miệng hang.
5. Sự tích cây hoa Đại
Người bạn của hươu lúc này ở xa, đã có vợ, có con. Một hôm thấy người đi bán sừng hươu, anh bỗng nhớ lại chuyện cũ và kể cho vợ con nghe. Anh nhắc lại câu nói năm xưa khi cho hươu ăn:
– Hươu à, hươu ăn chóng lớn, hươu mọc đôi sừng thật cao, thật đẹp nhé!
Đứa con lập tức đòi bố phải đưa về thăm quê, viếng mộ bà và đi lên rừng tìm xem chú hươu có còn không. Thương con, nhớ mẹ và nhớ hươu, một thời gian sau, người bố đưa vợ con về quê. Hỏi người trong làng, mới biết lão đồ tể độc ác một hôm dẫn chó lên rừng săn hươu, bị rắn độc cắn chết. Thật là đáng đời nhà lão.
Thăm mộ mẹ xong, người bố đưa con lên rừng. Đường vẫn phải đi ngang qua ngôi chùa nhỏ ở dưới lưng núi. Hai bố con đi mãi, đi mãi. Trong gió bỗng có mùi hương, vừa gần gũi, vừa xa xôi. Mùi hương như chào đón, như dẫn đường. Theo mùi hương, hai bố con đến ngay được chỗ cái hang ngày xưa đã giấu chú hươu con. Cả hai bố con sửng sốt, cùng đứng im lặng. Bên cạnh miệng hang có một giống cây lạ đang nở đầy hoa. Mùi hoa thơm đậm. Nhìn kỹ thì cành cây rất giống những cái sừng hươu.
Có mấy người đốt than đi qua. Họ kể rằng, trước đây, ngay tại chỗ cây hoa đang nở, có một con hươu già từ đâu không biết, đến đó rồi nằm chết luôn, mà không ai hay. Sau đó, ở gần miệng hang, bỗng thấy xuất hiện một giống cây lá to giống tai hươu, cành giống sừng hươu.
Người bố nghe nói, đoán ngay đấy là chú hươu con ngày xưa. Thì ra chú vẫn nhớ mình, lớn lên vẫn nhớ và chờ đợi mình về nữa. Lòng đời ân hận, người bố liền nói:
– Hươu ơi! Ta muốn về sớm với hươu mà nào có về được. Dù sao bây giờ ta cũng đã gặp lại nhau.
Hai bố con cùng khấn, xin hươu cho mình mấy cành cây lạ mang về làng quê để trồng, để luôn nhớ tới hươu.
Lúc hai bố con đi ngang qua chùa, các ông sư nghe kể cũng cảm thương về chuyện con hươu có nghĩa, nên họ xin người bố một cành cây lạ để trồng trước sân chùa. Cây hoa ấy là cây hoa Đại ngày nay. Có người bảo, chữ Đại là do chữ Đợi, chờ đợi mà có. Cây hoa Đại, lá to giống tai hươu, cành giống sừng hươu đã đành, mà những bông hoa cũng giống như những con mắt hươu đang mở tròn, mở to để trông ngóng, chờ đợi.
Chuyện kể về cây hoa Đại
3. Chuyện về cây cọ có gai
Trong một thời xa xưa, cây cọ có gai trở thành nhân vật chính trong một câu chuyện cổ tích của dân tộc Dao, thể hiện sức mạnh phi thường của con người trước thách thức của thiên nhiên và giải thích tại sao cây cọ lại có gai nhọn.
Xưa kia, khi mà tất cả các loài trên thế giới có thể trò chuyện với nhau bằng một ngôn ngữ chung, có bảy loài đặc biệt quan trọng, gồm Tào mèo, Tào chiếp, Tào gọi, hươu, nai và người. Mỗi loài tự hào và kiêu hãnh, không chịu khuất phục trước ai. Một ngày, Tào mèo tỏ ra kiêu căng:
– Ai cũng biết tôi là chúa tể của khu rừng này. Bạn đã nghe thấy tiếng gầm của tôi chưa? Bạn sẽ kinh ngạc đấy!
Nhưng bốn bạn khác đều đối đầu với nó:
– Chẳng có gì đáng sợ cả. Bạn chỉ biết gầm gừ, nhưng làm gì ngoài việc đó? Chúng tôi không sợ!
Tào mèo quyết tâm chứng minh sức mạnh của mình, nhảy vào rừng và gầm lên một cách ồn ào. Nhưng sự tự tin của nó tan biến khi bốn bạn khác không thể chấp nhận sự kiêu căng đó.
Tào chiếp nổi lên và thách thức:
– Đó chỉ là tiếng gầm của Tào mèo mới nổi thôi. Còn tiếng kêu của tôi mới thực sự mạnh mẽ. Cây cỏ cứng thế nào, tôi cũng cắn đứt được. Dù cây cao bao nhiêu, tôi cũng có thể leo lên. Dù ong có tấn công hàng nghìn, hàng vạn lần, tôi vẫn không sợ. Bạn có sợ tôi không?
Bốn bạn khác chỉ cười khẽ:
– Tiếng kêu của Tào mèo có thể làm cây rung cả lá, nhưng không làm chúng tôi sợ hãi. Tiếng kêu của bạn làm gì.
– Được, tôi sẽ chứng minh cho các bạn thấy.
Tào chiếp tự tin nhảy vào rừng và kêu lên một cách lớn. Âm thanh vang xa nhưng không làm thay đổi quyết định của bốn bạn kia.
Tào gọi, thấy hai bạn kia không thành công, liền nói:
– Tôi bé nhỏ nhưng tiếng kêu của tôi rất hùng dũng. Bạn có sợ không?
Bốn bạn chỉ cười:
– Chú bé nhỏ như bạn, Tào mèo, Tào chiếp, không có gì để sợ cả. Kêu thêm nữa đi.
Hươu ngoe nguẩy đuôi, tự tin khoe về bản thân:
– Tôi cao, có sừng, chạy nhanh như gió. Bạn có sợ tôi không?
Bốn bạn kia lại đáp:
– Không sợ!
Hươu xuống đỉnh đồi và kêu lớn, nhưng bốn bạn vẫn thản nhiên.
Người lại thách thức:
– Bạn có sợ người không?
Bốn bạn nhanh chóng đáp:
– Dữ tợn như Tào mèo, Tào chiếp, Tào gọi, chạy nhanh như hươu, nai, chẳng ai sợ người cả!
Người chỉ cầm một viên đá, tạo ra ngọn lửa. Lửa lan rộng, khiến bốn bạn sợ hãi quay đầu bỏ chạy, mỗi con một hướng.
Tào mèo nhanh chóng thoát khỏi khu rừng, chỉ bị bén lửa một chút, để lại vết đen trên lông. Tào chiếp chậm chạp, cả người đều cháy đen. Hươu, nai may mắn chạy thoát, nhưng toàn bộ lông của chúng đã chuyển sang màu vàng.
Tào gọi chạy quanh, không biết chạy về đâu vì khu rừng đang cháy dữ dội. Nhưng may mắn, chú gặp cây cọ. Cây nói:
– Chạy nhanh làm gì vậy?
– Lửa sẽ đến đây và đốt cháy tôi. Anh có thấy không?
Cây cọ bình thản nói:
– Tôi mặc nhiều lá, cháy cũng không sao. Nếu bạn sợ, hãy núp vào tàu lá của tôi, tôi sẽ bảo vệ bạn khỏi lửa.
Tào gọi vui mừng núp vào giữa tàu cọ để tránh lửa. Khi ngọn lửa đã qua, chú nhận ra mình đã thoát khỏi nguy hiểm, nhưng tàu lá cọ đã héo úa. Tào gọi biết ơn cây cọ và bảo:
– Cây Cọ ơi, bạn thật tốt bụng. Khi tôi gặp nguy hiểm, bạn đã bảo vệ tôi khỏi chết cháy. Để tôi cảm ơn bạn, tôi sẽ đặt một cái răng nhọn của mình vào cuống tàu cọ, để tăng thêm sức mạnh và bảo vệ bạn khỏi sự xâm phạm của kẻ khác. Cảm ơn bạn đã giữ cho tôi an toàn.
Nhưng từ đó, cây cọ mọc thêm nhiều gai, xếp ra như chiếc ô dù, che mưa che nắng. Nhiều loài động vật sợ gai sắc nhọn, không dám đến gần, nhưng con người lại lấy lá cây cọ đó để làm vật liệu che nắng, che mưa trên nóc nhà.
Truyền thuyết về cây cọ có gaiChuyện kể về cây cọ có gai
Chuyện kể về cây Nhọ Nồi là truyện dân gian Việt Nam, mô tả về tình cảm nhân văn, lòng nhân ái và sức mạnh kỳ diệu của cây cỏ Nhọ Nồi.
1. Cô gái có tên Nhọ Nồi
Ngày xưa ở một ngôi làng nhỏ, có một cô gái tốt bụng tên là Nhọ Nồi. Cô có đôi mắt xanh biếc, nụ cười tươi tắn và tay nghề làm thuốc hơn người. Mọi người trong làng đều biết đến cô với cái tên thân quen và yêu thương.
Cô không chỉ giỏi chăm sóc, chữa trị cho những người bệnh mà còn có sức mạnh đặc biệt. Khi làng bị giặc xâm lược, cô dũng cảm đứng lên đầu tiên, giúp đỡ người dân lánh xa hiểm nguy. Đôi lúc, cô như một thiên thần xuất hiện, mang theo niềm hy vọng và sự chữa lành cho những trái tim đau khổ.
Nhọ Nồi là người hết lòng vì cộng đồng, và cây cỏ mang tên cô cũng trở thành biểu tượng của tình yêu thương và sự hy sinh.
2. Sức mạnh của cây cỏ Nhọ Nồi
Cây cỏ Nhọ Nồi không chỉ là loại cây thông thường, mà còn mang trong mình một sức mạnh đặc biệt. Lá cây có khả năng làm lành vết thương và cầm máu ngay lập tức. Đây không chỉ là cây cỏ, mà là nguồn năng lượng tích cực, giúp con người vượt qua những khó khăn, thách thức của cuộc sống.
Khi người ta nhắc đến cây Nhọ Nồi, họ không chỉ nghĩ đến một cây cỏ thông thường mà còn nhớ về tấm lòng nhân ái và tình thương mà Nhọ Nồi đã trao cho mọi người trong làng.
3. Truyền thuyết về cây Nhọ Nồi
Câu chuyện về cây Nhọ Nồi được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Mọi người kể về sự hy sinh của cô gái tên Nhọ Nồi, về sức mạnh kỳ diệu của cây cỏ mang tên cô. Cây Nhọ Nồi không chỉ là một cây cỏ, mà là biểu tượng của lòng can đảm, lòng nhân ái và tình yêu thương vô điều kiện.
Cuộc sống của mỗi người trong làng trở nên tươi sáng hơn nhờ vào cây Nhọ Nồi, và truyền thuyết về nó sẽ mãi mãi được kể lại, giữ cho tình người luôn sống mãi trong trái tim mọi người.
Chuyện kể về cây Nhọ NồiHuyền thoại về cây Nhọ Nồi
5. Chuyện kể về cây Quất ngày Tết
Truyện cổ tích về cây Quất ngày Tết là câu chuyện ngợi ca về lòng dũng cảm, cao thượng của chàng trai câm điếc Quất Giỏi và sự xuất hiện của cây Quất trong ngày Tết.
Vượt qua tình trạng câm điếc, Quất Giỏi đã dũng cảm tham gia diệt giặc, cứu nước và sử dụng phần thưởng để làm tan băng giá, mang lại hòa bình cho cộng đồng. Đó chính là tinh thần anh hùng cao quý.
1. Quất Giỏi vào kinh thành
Trong thời xưa, có ba người bạn thân thiết. Thư đam mê đọc sách và thơ. Mộc say mê trồng cây, hái cỏ. Quân hứng thú với võ thuật và múa đao. Quân không chỉ câm mà còn điếc, tay chân nhanh nhẹn và trí óc sáng tạo. Nhìn thấy người múa đao, Quân cũng tập đánh võ và múa đao theo cách riêng.
Mỗi ngày, cha mẹ Quân lên rừng đốn củi. Quân cầm roi, đánh trâu, kéo củi về nhà. Không có dao, Quân dùng roi để múa và đánh suốt ngày. Mỗi cú roi của Quân như bão nổi. Gặp trăn, Quân vụt roi, trăn chẻ đôi; gặp hổ, Quân đánh mạnh, hổ bại khuất. Người xung quanh gọi Quân là Quất Giỏi.
Một ngày, giặc xâm lược đến. Quân xin gia đình để vào thành. Thư tặng Quất Giỏi cây bút, Mộc tặng gói gạo ngon nhất. Khi Quất Giỏi đến, vua hỏi:
– Ngươi có đủ sức đánh bại tên tướng giặc không?
Quất Giỏi giơ cây bút lên, nhưng trên đường đã đánh rơi cái đầu. Quân lấy cây roi mây và mô phỏng hành động như đang giữ một đầu. Quân thấp thoáng nói:
– Anh ta sẽ mất đầu.
Vua tiếp tục hỏi:
– Bao lâu để tiêu diệt giặc?
Quân mở bị ra, giống như đang ăn gạo. Quân nói:
– Khi tôi hết gạo, giặc sẽ kết thúc.
Vua hỏi:
– Sau chiến thắng, ngươi muốn thưởng gì?
Quân giơ cây roi sắt và chỉ vào cây chanh. Quân nói:
– Tôi muốn cây chanh quả vàng.
Vua đồng ý và nói:
– Được! Tôi sẽ thưởng cho ngươi cây chanh vàng bằng vàng.
2. Sự tích cây Quất ngày Tết
Quất Giỏi xin vua làm một cây roi sắt ba cạnh, nhỏ như cây mây, dài như cây tre. Quất Giỏi cầm roi, cưỡi voi ra trận. Tên tướng giặc chế ngựa và dẫn quân đến kinh thành. Nhìn thấy Quất Giỏi, tướng giặc chế nhạo:
– Chú này có múa roi để quét bụi áo ta à?
Trước khi tên tướng kịp nói hết, roi của Quất Giỏi đã vụt lên, tạo ra tiếng rít lạnh lùng.
Một bên của tên giặc bị rách toác. Nhưng thịt da lại lấm bấm ngay lập tức. Hắn vung đao to, đâm xuống đầu Quất Giỏi. Quất Giỏi né tránh và vung roi một cú thứ hai. Cây cỏ xung quanh như bị cơn lốc quét sạch. Tên tướng giặc tránh được đòn roi, nhưng ngay khi nói lên, hắn lại bị đòn roi thứ ba di chuyển nhanh hơn ánh sáng đánh ngang cổ. Đầu hắn rơi xuống, lăn đi bên chân voi.
Vua hoan hỉ chào đón Quất Giỏi trở về.
Vua hỏi:
– Tướng giặc đã bay đầu rồi đúng không?
Lạ thay, Quất Giỏi đã nghe được và trả lời:
– Có, nhưng chỉ là da thịt, không phải là đầu!
Vua thưởng cho Quất Giỏi cây chanh quý lóng lánh quả vàng và nói:
– Nếu muốn có vàng, hãy hái quả, muốn xua đuổi rét, hãy bẻ cành và trồng xuống đất sâu!
Quất Giỏi biết ơn vua, đưa cây quý về quê nhà.
Năm đó, thời tiết rét dữ, Quất Giỏi trở về nhìn thấy mùa màng sắp hỏng mười mươi. Thư bệnh nặng vì chịu đựng rét không nổi. Mộc đau lòng vì cây cỏ Mộc trồng sắp chết. Quất Giỏi không ngần ngại, bẻ từng cành cây chanh vàng cắm sâu xuống đất. Cơn rét bất ngờ tan đi, mây mù biến mất. Mặt trời trở lại sáng rực, mọi người khỏe mạnh trở lại. Cây cỏ đâm chồi, tiếng hò reo của chim chóc trở lại.
Bà con hạnh phúc và ngạc nhiên…
Ba người bạn trở nên gắn bó hơn. Thư học giỏi và đỗ Trạng nguyên. Mộc phát hiện giống lúa hạt to và ngon. Quân giúp đỡ bà con giết thú dữ, giữ cho mọi người yên bình. Ai cũng hạnh phúc. Mỗi năm, khi cây chanh quả vàng đầy quả là lúc nắng ấm trở lại.
Xuân về, người ta lấy tên Quất Giỏi để đặt cho cây Quất. Cây Quất bắt đầu từ đây…
Thông tin về cây Quất
Cây Quất, tên khoa học Citrus japonica, thuộc họ cam chanh. Đây là loại cây gỗ, thân cao từ 1-1,5m. Thân cây dẻo dai, vỏ màu xám và nhiều nhánh mọc xung quanh. Cây có gai nhọn dài trên thân. Quả hình tròn, khi non có màu xanh đậm và chuyển sang màu vàng cam khi chín.
Cây Quất thường được trồng làm cây cảnh trong mùa Xuân, mang ý nghĩa của sự may mắn và tài lộc. Cách trang trí cây Quất ngày Tết đa dạng và phản ánh đặc trưng văn hóa của mỗi vùng miền.
Trong y học cổ truyền, quả Quất được sử dụng như một loại thuốc chữa các vấn đề về họng, cảm lạnh, viêm bụng, v.v...
Theo truyền thuyết dân gian Việt Nam, câu chuyện Sự tích cây Quất đã truyền đạt nguồn gốc của loài cây này.
Truyện ngụ ngôn về cây Quất ngày TếtChuyện kể về cây Quất trong ngày Tết
Truyện kể về thời điểm cây cỏ trên trái đất chưa có tên, và cách mà chúng đều nhận được danh xưng của mình. Bài học từ cây Thì Là là sự cần thiết của sự kiên nhẫn và nhận biết giá trị bản thân.
Vào một ngày xưa, trời gọi mọi cây lên để đặt tên cho chúng. Mỗi loại cây đều hứng khởi và cử một đại diện lên trời để nhận tên.
Trên bãi rộng, cây lớn, cây nhỏ, cây cao, cây thấp đứng đông đúc. Trời ngồi trên gò cao, liên tục đặt tên cho từng loại cây:
– Cây dừa sẽ là chú này;
– Cây cau sẽ là chú kia;
– Cây mít sẽ là chú nọ;
– Cây nhãn sẽ là chú kia;
– Cây hồng sẽ là chú kia…
Trời đang đặt tên mệt nhoài mà vẫn chưa xong.
Bắt đầu, trời nói câu dài. Nhưng sau đó, trời chỉ nói ngắn gọn:
– Cây cải là chú này;
– Cây ớt là chú kia;
– Cây tỏi là chú kia…
Khi tất cả cây đã có tên, trời nghĩ rằng đã xong, nhưng đột nhiên có một cây lại đến xin đặt tên. Trời thấy cây nhỏ xinh, thanh mảnh, lá nhỏ xoe. Trời tò mò hỏi:
– Chú bé nhỏ xíu, có ích gì mà muốn có tên?
Cây nhỏ trả lời ngay:
– Thưa Trời, con rất hữu ích. Khi nấu canh riêu cá hay làm chả cá, chả mực mà thiếu con, thì đó là mất cảm giác ngon lành.
Trời cười và nói:
– Ừ, ta sẽ suy nghĩ một cái tên. Tên của chú sẽ là…
Trời chưa kịp nghĩ, cây nhỏ đã vụt đi mất. Nó vui mừng nói với bạn bè: Trời đã đặt tên cho tôi là cây “Thì Là“!
Chuyện kể về cây Thì Là
Truyện kể về cây xấu hổ, mà nhiều người gọi là sự tích cây hoa trinh nữ. Đây là câu chuyện về tấm lòng trong sạch của một cô gái xinh đẹp và nguồn gốc của cây xấu hổ ngày nay.
Làm thế nào để giữ được vẻ đẹp trinh trắng, cây xấu hổ chính là câu chuyện thú vị này.
Ngày xửa ngày xưa, có một cô gái tên là Trinh, nổi tiếng với vẻ đẹp mảnh mai và tấm lòng lương thiện. Cô phải gánh rau đi chợ để nuôi mẹ già và em dại. Trên đường, bất kỳ ai tán tỉnh cô cũng bị từ chối nhẹ nhàng. Cô luôn giữ vẻ e thẹn, đầu hạ thấp, che đôi mắt đen huyền đằng sau hàng lông nheo dài.
Anh học trò con nhà giàu đã đem lòng yêu cô. Mặc dù gặp từ chối nhiều lần, anh vẫn không thể quên vẻ đẹp và tính cách của Trinh. Đến khi gia đình anh quyết định đính hôn cho anh, tình cảm của anh càng trở nên phức tạp.
Trở về làng cũ sau một thời gian xa cách, anh học trò bất ngờ gặp lại Trinh. Nhưng cô đã từ giã cuộc sống này từ lâu. Anh vô cùng tiếc nuối khi hiểu ra rằng mình đã hôn lên đóa hoa trinh nữ, biểu tượng của sự trong sạch và cao quý.
Sự tích cây xấu hổ là bài học về vẻ đẹp tinh khôi và tình yêu thuần khiết, khiến người ta suy ngẫm về giá trị của tấm lòng trong sạch trong cuộc sống ngày nay.
Chuyện kể về cây xấu hổ
Cách đây rất lâu, khi loài người chưa hiện hình, trái đất hoang vu. Ngọc Hoàng quyết định tạo ra một chàng trai từ đất và nước thần. Sau khi dạy chàng biết săn bắn và xây nhà, Ngọc Hoàng đưa chàng xuống trần gian.
Chàng trai chỉ biết săn bắn, không biết trồng trọt, làm cho trái đất trở nên khô cằn. Ngọc Hoàng sai một Tiên nữ xuống giúp chàng, nhưng họ lại mải mê yêu nhau. Ngọc Hoàng tức giận và biến chàng thành nghìn hạt cát, còn Tiên nữ ôm chàng nhỏ lẻ và khóc lóc. Mặc cho sự khuyên bảo của thần Mưa và thần Gió, nàng không rời bỏ chàng.
Nàng khóc mãi cho đến khi cơ thể biến thành cây Xương Rồng, với thân cây chông gai chống cự và rễ chôn sâu vào lòng cát. Nếu chạm vào cây, sẽ thấy dòng nhựa trắng như nước mắt của cô gái, được gọi là Xương Rồng.
Thần Mưa buồn bã từ cô con gái, nơi chỉ có Cát và Xương Rồng mà không có giọt mưa. Thần Gió vẫn tức giận, tạo ra những cơn bão cuốn hạt cát nhỏ, nhưng tình yêu của họ vẫn không bị chia rẽ. Bởi vì… tình yêu sẽ chiến thắng mọi thử thách!
Chuyện kể về cây Xương Rồng
9. Sự tích cây Thanh Long
Sự tích cây Lúa là một truyện thần thoại của Việt Nam, giải thích về việc cây Lúa ra đời và cũng là nguồn gốc của việc cúng nữ thần Lúa ở một số nơi.
1. Nữ thần Lúa
Nữ thần Lúa, một cô gái xinh đẹp, dáng người ẻo lả và tính hay hờn dỗi.
Nàng là con gái của Ngọc Hoàng. Sau những trận lụt lội, cây cỏ bị diệt, Ngọc Hoàng gửi Nữ thần Lúa xuống trần gian nuôi sống loài người.
Nữ thần làm phép cho giống cây mọc và sinh trưởng mạnh mẽ. Lúa chín tự về nhà không cần gặt và phơi khô. Chỉ cần ngắt bông bỏ vào nồi là có cơm.
2. Nữ thần hờn dỗi và câu chuyện Sự tích cây Lúa
Một ngày, khi sân chưa dọn dẹp, lúa ùn ùn kéo về. Cô gái tức giận và đập đầu bông lúa, mắng:
– Bò về mà chẳng chờ dọn dẹp gì cả!
Nữ thần Lúa dẫn lúa vào sân, thấy sân bẩn thỉu, cô bị đập đầu bông lúa. Tức lắm, Nữ thần nói:
– Muốn mệt thì ta giúp. Từ nay, lúa phải được hái bằng liềm, chở về bằng tre.
Thế từ đó, Nữ thần Lúa không cho lúa tự về. Người phải xuống ruộng lấy từng bông. Để giảm bớt công sức, họ phát minh ra liềm hái để cắt lúa nhanh chóng. Lúa cũng không tự biến thành cơm, phải phơi khô, xay giã thành gạo.
Nữ thần Lúa còn giữ lòng hờn dỗi. Đôi khi, nàng cấm lúa nảy mọc, làm cho người phải cấy lúa bằng tay. Sau mỗi vụ thu hoạch, người ta phải cúng thần Lúa, hay còn gọi là cúng cơm mới. Những ngày hội cúng thần Lúa được tổ chức ở làng, bản là dịp vui, có rước bông lúa, là truyền thống phổ biến trong nhiều vùng miền.
Chuyện kể về cây Lúa
Vào một năm khan hiếm, cây cỏ héo úa vì nước khan hiếm, bản làng trở nên hoang vắng do nạn đói. Một mẹ và đứa con, chỉ còn lại hai mình, đối mặt với khó khăn. Mẹ mắc bệnh, và đứa con, Aưm, mới 7 tuổi, trở thành chỗ tựa cho người mẹ. Mỗi ngày, Aưm dậy sớm để vào rừng kiếm măng, hái nấm, quả để mang về nuôi sống mẹ.
Nhưng hạn hán trở nên nặng nề hơn. Có những lúc Aưm đi cả ngày mà không tìm thấy thứ gì để ăn. Một hôm, đói và mệt mỏi, cậu ngủ bên bờ suối. Trong giấc mơ, cậu thấy một con chim cầm quả lạ, màu vàng như mái tóc của cậu. Chim đặt quả lạ vào tay Aưm rồi bay đi. Khi tỉnh dậy, Aưm nhận ra quả lạ vẫn ở trên tay. Ngạc nhiên, cậu bóc vỏ thì thấy những hạt màu vàng tăm tắp. Aưm thử nhai một hạt, cảm nhận vị ngọt và bùi. Hạnh phúc, cậu mang quả lạ về nhà.
Mẹ vẫn nằm bệnh trên giường. Thấu hiểu nỗi đau đói, Aưm nhanh chóng tỉa những hạt lạ, giã và nấu để mời mẹ ăn. Mẹ dần tỉnh táo, nhìn con trai hiếu thảo. Với ít hạt còn lại, Aưm gieo vào mảnh đất trước nhà. Mỗi ngày, cậu chăm sóc cây lạ. Dù phải đi cả ngày tìm nước, Aưm vẫn giữ một gáo nước để tưới cây. Dưới sự chăm sóc đầy mê tín, cây nhanh chóng lớn, đẹp mắt. Không lâu sau đó, cây bắt đầu đua nhau nở hoa, kết quả.
Mùa hạn đã qua, bà con trở về bản cũ. Aưm cung cấp những quả lạ có râu vàng như mái tóc của cậu để làm hạt giống. Được biết đến với lòng nhân ái của mình, người dân đặt tên cây có quả lạ là cây Aưm, hay còn gọi là cây ngô. Nhờ có cây ngô, những người dân Pako không còn đối mặt với đói khát.
Chuyện kể về cây Ngô