1. Sự tích cây chổi
Xưa kia, ở cung đình của nhà trời, có một người phụ nữ giỏi nấu ăn. Những bữa ăn của bà là tuyệt vời, khiến ai nếm cũng khó quên hương vị. Bà được Ngọc Hoàng thượng đế giao trách nhiệm nấu nướng ở thiên trù.
Tuy nhiên, bà có tật ăn vụng và tham lam. Luật lệ của nhà trời cấm chạm vào thức ăn của ngự thiện, nhưng bà vẫn lén lút đánh cắp để làm đầy kho thức ăn của mình.
Bà thường xuyên mang đồ ăn và rượu cho lão chăn ngựa, người mà bà yêu. Dù cuộc sống của họ khó khăn, lão chăn ngựa vẫn thích rượu và đồ ngon.
Một ngày, khi bà đang chuẩn bị cho tiệc của Ngọc Hoàng, bà nghe thấy lão chăn ngựa hát. Bà vội vàng chạy đón và mang rượu cho ông. Nhưng điều này đã khiến bữa tiệc của Ngọc Hoàng trở nên ảm đạm, và cả hai bị đày xuống trần gian làm nô lệ, phải quét nhà suốt năm.
Lâu sau, vì thương xót, Ngọc Hoàng cho họ được nghỉ ba ngày trong năm, cũng là những ngày Tết. Từ đó, truyền thống kiêng quét nhà trong những ngày Tết ra đời.
Câu đố dân gian 'Trong nhà có bà hay la liếm' cũng được tạo ra để nhắc nhở về sự tích của cái chổi...

2. Chuyện kể về cái cày
Cá Kình trải qua nhiều biến cố với nhà sư. Nhưng sau cuộc trò chuyện, cá Kình không chỉ giảm oán trách mà còn biết ơn nhà sư. Sau đó, cái cày được phổ cập theo hình con cá.....
Ngày xưa, có một Hòa thượng trụ trì một cảnh chùa ở gần bờ sông trong một thôn quê. Mỗi khi có việc ra tỉnh, Ngài sử dụng chiếc đò để đi. Một ngày, vào ngày 13 tháng bảy, Ngài đi qua sông để chủ lễ một đàn kỳ siêu. Khi đò đến giữa dòng sông, thuyền trở nên dao động muốn đắm. Tất cả mọi người trên đò đều hoảng sợ, nhưng Hòa thượng vẫn ngồi bình tĩnh niệm Phật.
Trong khi đó, con cá nổi lên từ dưới mặt nước, đôi mắt đỏ ngầu nhìn chăm chăm vào Hòa thượng. Nhưng Hòa thượng vẫn yên tâm niệm Phật.
Cá Kình cất giọng nói: “Hỡi hành khách ở trên đò! Nếu muốn yên bình, hãy để cho tôi nuốt chửng lão tu kia để giải quyết sự tức giận. Bạn có biết không? – Ngày trước, tôi theo lão tu, nhưng lão không giảng dạy, để tôi làm theo ý muốn, không kiềm chế. Vì thế, tôi trở nên lười biếng, chỉ quan tâm đến ăn ngủ theo thói quen, không quan tâm đến công phu tu sám, ăn chay, niệm Phật và làm việc hữu ích cho Chùa. Mỗi khi có tiệc, tôi được mang hậu đắp y để khoe với đại chúng và bổn đạo. Vì những tội ác đó, sau khi chết, tôi reinkarnasi thành cá Kình, làm loài cá diệt vong mọi nơi, làm cho tôm cá chạy tán loạn, không có thức ăn, phải chịu đói khát. Vì thế, tôi oán trách lão tu kia, nhưng đối với những người trên đò, tôi không giữ hận thù, không muốn hại ai”.
Sư Cụ mỉm cười và nói: “Ôi loài súc sanh! Lời của ngươi thật ngớ ngẩn. Ngươi không hiểu câu ngạn ngữ: Đạp gai, lấy gai mà lễ, phải không? Nếu ngươi biết rằng các tội lỗi như thế sẽ mang lại hậu quả là phải reinkarnasi thành cá, ngươi cần phải ăn năn và sám hối để có được cuộc sống tốt đẹp hơn. Ta là Thầy của ngươi, mỗi khi ta giáo huấn, ngươi bảo rằng ta quá nghiêm túc, nhưng khi ta lỏng lẻo, ngươi lại trở nên không nghiêm túc và cuối cùng phải trải qua kiếp cá. Nếu bị reinkarnasi, ngươi cần phải sám hối và báo cáo để được tụng kinh siêu độ và xả tội. Nếu muốn thoát khỏi kiếp cá, hãy tìm ai đó để cứu ngươi. Nhớ rằng, có tội mà không sám hối là không giúp ích gì cho ngươi. Loài súc sanh ơi!”
Sư Cụ kết thúc lời nói, cá Kình lặn xuống dưới nước.
Sau bảy ngày đêm tụng kinh tại chùa, cá Kình lên mặt nước và nói: “Bạch Thầy, nhờ công đức của Thầy và chư Tăng Ni, tôi đã được giải thoát, thoát khỏi kiếp cá và trời Dục Giới. Trước khi lên trời, tôi đến đây để tạ ơn Thầy và chư Tăng Ni. Tôi đề nghị để lại xác thân cá Kình ở Chùa để mỗi ngày, chư Tăng Ni sẽ dùng gậy đánh đầu tôi, nhắc nhở những người tu hành biếng nhác, thích khoe khoang, tự đại, không tuân thủ luật lệ. Đồng thời, để nhắc nhở họ nhớ đến trách nhiệm tu tâm, hành đạo, tránh xa khỏi sự lạc lõng và niệm Phật tu thiền, giữ cho tâm tinh tấn, nghiêm túc thực hiện luật lệ.
Chính vì sự kể chuyện như trên mà từ ngày ấy, cái cày mới có hình dạng con cá, để làm kỷ niệm và đánh thức tinh thần người tu hành.
“Ta nhớ hôm nào sông nước vắng
Chuông Chùa lay động ánh sương chiều
Lời Kinh, tiếng “Mõ” như thầm nhắn
Cuộc đời hồi sinh buổi chiều tà “

3. Sự Tích Cây Trầu Cau
Ngày xửa ngày xưa, trong họ Cao có hai anh em trai, chúng rất giống nhau, người khác nhìn không phân biệt ai là anh, ai là em. Khi cả hai mười bảy mười tám tuổi, cha mẹ đều qua đời. Thiếu cha dạy bảo, hai anh em quyết định tìm ông đạo sĩ họ Lưu để học hỏi. Họ nỗ lực và được thầy yêu quý như con cái. Thầy Lưu có một con gái xinh đẹp, mọi người đều không sánh kịp.
Khi cô gái thấy hai anh em đẹp và tốt bụng, lòng mến mộ nảy lên. Để tìm ra ai là anh, ai là em, cô gái mời cả hai ăn cháo. Khi thấy người em nhường người anh ăn, cô gái nhận ra anh em và quyết định chọn anh làm chồng.
Từ khi anh có vợ, tình cảm giữa hai anh em không còn như trước. Người em buồn bã, nhưng anh không để ý. Một ngày, cả hai cùng đi nương, về nhà, người em vào trước; khi anh bước vào, chị dâu chạy ra ôm, tưởng anh là chồng mình. Người em kêu lên, cả hai đều xấu hổ. Anh nghi ngờ em có tình cảm với vợ mình, và từ đó, anh trở nên lạnh lùng hơn với em.
Một chiều, khi cả hai vắng nhà, người em ngồi nhìn ra khu rừng xa xôi, cảm thấy cô đơn và buồn bã. Cô quyết định rời đi. Chàng đi, đi mãi đến khu rừng trước mặt, theo đường mòn vào rừng sâu. Đêm đã buông xuống, trăng đã lên, nhưng chàng vẫn tiếp tục. Khi đến một con suối rộng, chàng không thể lội qua, ngồi nghỉ bên bờ. Chàng khóc thảm thiết, tiếng suối hò reo vang lên, lấn át tiếng khóc. Đêm trôi qua, sương mù xuống, chàng chết mà vẫn ngồi trơ trơ, biến thành một tảng đá.
Anh chị trở về nhà, không thấy em đâu, đi tìm theo con đường vào rừng. Chàng đi mãi, cuối cùng đến con suối xanh biếc không lội qua được, ngồi bên bờ, tựa vào một tảng đá. Chàng không ngờ đấy chính là em mình! Đêm dần buông, sương xuống nhiều hơn, chàng khóc than đau đớn, ngất xỉu và chết, biến thành một cây không cành, mọc thẳng bên tảng đá.
Vợ không thấy chồng đâu, đi tìm và cũng theo con đường vào rừng. Nàng đi mãi, đến suối nước xanh biếc. Nàng ngồi tựa vào cây không cành bên tảng đá, vật mình than khóc. Nàng không ngờ đấy chính là chồng và em mình. Nàng rơi vào tuyệt vọng, khóc than giữa tiếng suối hùng vĩ. Chưa đến nửa đêm, nàng đã trở thành cây leo quấn chặt cây không cành mọc bên tảng đá.
Chuyện đau lòng này khiến mọi người thương xót. Một ngày, vua Hùng đi ngang qua, người dân kể lại cho vua nghe. Vua quyết định thử nghiệm bằng cách nghiền lá cây leo và quả cây không cành lại với nhau, kết quả là hương vị cay cay thơm ngon. Mùi thơm của họ Cao lan tỏa trong vùng, làm đỏ màu nước tảng đá. Người dân đặt tên cây mọc thẳng là cây cau, cây leo quấn là cây trầu, còn tảng đá làm giữa để làm chua ngọt, môi đỏ.
Tình cảm của ba người vẫn tồn tại trong mối lương duyên. Về sau, trong mọi sự kiện của người Việt Nam, miếng trầu luôn là bắt đầu cho câu chuyện, làm nên mối quan hệ và truyền thống ẩm thực của dân tộc Việt Nam.

4. Sự tích Tháp Bút Kim Nhan
Một học trò nghèo sắp thi nhưng thiếu đủ đồ, được đàn thú giúp đỡ. Trong đó, cóc đã đánh cắp bút và nghiên của Ngọc Hoàng, khiến bút biến thành ngọn núi Kim Nhan.
Học trò đóng vai người lao động chăm chỉ, đêm đốt củi học bài. Cha mẹ khuyên nhắc anh giữ sức khỏe, nhưng anh không nghe. Trước kỳ thi, anh đau đầu vì không có đủ đồ. Bỗng rừng nổi gió, hàng trăm con thú xuất hiện. Chú hổ nói chúng sẽ giúp anh sắm đủ đồ. Bầy thú làm nhanh chóng, chỉ thiếu nghiên mực và bút. Chú cóc đề xuất đánh cắp của Ngọc Hoàng.
Ngày lên đường, anh học trò cảm ơn đàn thú và nhận được đầy đủ đồ. Nhưng anh yếu đến mức không thể đi được. Bầy thú lại giúp nấu ăn, đưa gánh và đồ đạc cho anh. Trong lúc đó, trời đánh cắp bút và mực, cóc bị đánh chết, nghiên vỡ tạo nên ngọn núi Kim Nhan. Tháp Bút Kim Nhan mỗi ngày mọc cao, mang lại điềm lành và nho học cho vùng đất.

5. Chuyện về cái Lồng đèn
Một nhà sư vân du làm lồng đèn hình cá chép để làm cho cá chép thành tinh tưởng rằng đó là đồng loại, không hại người nữa...
Ngày xưa, dọc theo bờ sông, có một ngôi làng đông đúc và phồn thịnh. Bất ngờ, dưới sông xuất hiện một con cá chép thành tinh. Con cá này thường xuất hiện vào đêm trăng tròn tháng tám, săn người để ăn thịt. Dân làng tìm cách chống cự, nhưng mỗi năm đến rằm tháng tám, nhiều người vẫn trở thành nạn nhân của con cá chép thành tinh. Làng trở nên thê thảm, hoang tàn.
Một ngày, có một nhà sư vân du đến và nghe dân làng kể về thảm họa. Ông chỉ dẫn họ làm lồng đèn hình cá chép lớn, bên trong là nan tre, bên ngoài phủ vải. Đến rằm trung thu, dân làng treo lồng đèn trước cửa, thắp đèn sáp bên trong. Khi con cá chép thành tinh xuất hiện, thấy lồng đèn cá chép, nó tưởng đó là nhà của đồng loại nên không tấn công.
Thói quen làm lồng đèn cá chép trở thành truyền thống, mỗi năm đến rằm trung thu, dân làng lại làm lồng đèn. Tục này ngày càng lan rộng và trở thành niềm vui trong ngày Trung Thu. Lồng đèn cá chép sau đó được biến thành nhiều kiểu khác nhau như cá hóa long, thỏ, rồng, và nhiều hình thức sáng tạo khác.

6. Rét nàng Bân
Nàng Bân, con của Ngọc Hoàng, bị thua kém chị em về tính chậm chạp. Khi lấy chồng, nàng chỉ xong việc may áo cho chồng khi mùa rét đã kết thúc. Ngọc Hoàng, thương con, đã làm trời rét thêm vài hôm để chồng nàng có cơ hội thử áo. Từ đó, rét nàng Bân ra đời.
Nàng Bân, dù là con của Ngọc Hoàng nhưng khác biệt với các chị em về tính cách chậm chạp và vụng về. Dù vậy, nàng vẫn được cha mẹ yêu thương. Ngọc Hoàng và Hoàng Hậu, thương con nhưng không biết giúp thế nào, đã quyết định tìm chồng cho nàng để nàng học hỏi thêm về công việc nội trợ trong gia đình.
Chồng của nàng Bân cũng là người trên giới nhà trời và nàng yêu chồng rất nhiều. Khi mùa rét đến, nàng quyết tâm làm chiếc áo ngự hàn cho chồng. Mặc dù vụng về, khi bắt đầu rét, nàng Bân loay hoay, tìm kiếm vật liệu, nhưng gặp nhiều khó khăn. Tới thời điểm trời đã sang xuân, nàng chỉ mới may xong đôi cổ tay. Nhiều người trên trời đã chế giễu:
“Nàng Bân may áo cho chồng
May ba tháng ròng mới trọn cổ tay”.
Tuy nhiên, nàng Bân vẫn không bao giờ từ bỏ. Nàng may áo suốt qua tháng Giêng và hết tháng Hai, đến khi áo mới hoàn thành, trời lại hết rét. Nàng Bân cảm thấy buồn bã. Thấy con gái buồn, Ngọc Hoàng xót xa và đã làm trời rét thêm vài hôm để chồng nàng có thể thử áo. Từ đó, truyền thống ra đời, mỗi năm khoảng tháng Ba, dù mùa rét đã qua, có những ngày đặc biệt rét, được gọi là rét nàng Bân. Có câu tục ngữ: “Tháng Giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng Ba rét nàng Bân” được hình thành từ đó.

7. Sự tích 1000 con hạc giấy
Một tiểu thư giàu có yêu một thư sinh nghèo. Họ đã chết vì thách thức của huyện quan để có thể ở bên nhau. Khi chàng thư sinh qua đời, nàng tiểu thư cũng muốn chôn cạnh mộ người yêu.
Chuyện kể rằng có một tiểu thư đài các con gái huyện quan đắm chìm trong tình yêu với một thư sinh nghèo. Hai trái tim trẻ đẹp này đến với nhau bằng tình yêu tinh khôi của tuổi trẻ.
Thông tin này đến tai huyện quan, ông ta giận dữ và ngăn chặn mọi cách. Hóa ra huyện quan không hài lòng với chàng thư sinh vì ông đã sắp xếp hôn cho con trai một thương gia giàu có. Bị cấm đoán, tiểu thư sống trong nỗi buồn thấu tận tâm hồn, sắc xuân của nàng héo úa. Tình yêu giữa tiểu thư và thư sinh càng trở nên mãnh liệt dưới sự cấm cản ngày càng gia tăng. Cuối cùng, huyện quan gọi chàng thư sinh và đặt một điều kiện: nếu anh có thể xếp đúng 1.000 con hạc giấy trong vòng ba ngày đêm, anh sẽ được cưới tiểu thư.
Trong ba ngày liên tiếp, chàng thư sinh nỗ lực xếp hạc giấy. Đêm trước khi thời hạn ba ngày kết thúc, anh vừa hoàn thành con thứ 999 thì kiệt sức và ngất xỉu. Vài ngày sau, anh qua đời. Người ta chôn anh ở một ngọn đồi hoang vắng sau chợ huyện. Một thời gian sau, người ta phát hiện trên mộ chàng thư sinh xuất hiện con hạc giấy thứ 1.000 ướt máu.
Tiểu thư không biết về câu chuyện này, cũng không biết về cái chết của người yêu. Nàng buộc phải chấp nhận cuộc sống mới và lên kiệu hoa về nhà chồng. Trước ngày cưới, nàng tình cờ biết về chàng thư sinh và con hạc giấy thứ 1.000 ở mộ vắng. Đau lòng, nàng mắc bệnh nặng. Trước khi qua đời, nàng cầu xin được chôn bên cạnh mộ người yêu.
Sau một khoảng thời gian, người ta đến thăm mộ hai người và thấy hai cây lạ mọc lên từ hai nấm mồ. Hai thân cây mọc ra hai cành cây, gắn liền với nhau không bao giờ rời xa, dù trời có mưa gió hay tuyết phủ. Từ đó, truyền thuyết Ngàn cánh hạc giấy và tình yêu đẹp của hai người được kể với câu tục ngữ: “Như chim liền cánh, như cây liền cành”. Dân gian sau này còn sáng tác nhiều bài hát về Ngàn cánh hạc giấy để bày tỏ nỗi lòng của những người yêu đương bị cách trở.

8. Hồ Tây - Bí mật của Thủ đô
Hồ Tây hay Hồ Trâu Vàng xuất phát từ việc khi Nguyễn Minh Không chữa được bệnh cho hoàng tử Trung Quốc thì được ban thưởng đồng đen. Khi về nước, đồng đen được đúc thành chuông phát ra tiếng ngân đến tận Trung Quốc làm cho trâu vàng lồng lên chạy theo hướng tiếng chuông. Lúc đó, nhà vua đã sai ném chuông lẫn trâu vàng xuống hồ tạo nên hồ Tây ngày nay.
Hồ Tây mới đầu chỉ là tên chung chỉ hồ ở phía tây bắc kinh thành. Gọi mãi trở thành tên riêng là Hồ Tây. Trong dân gian, Hồ Tây còn được gọi là hồ Trâu Vàng và còn có tên khác là Dâm Đàm (đầm mù sương). Theo tài liệu nghiên cứu của ông Bùi Văn Nguyên trong “Cảnh trí Hồ Tây” xuất bản năm 1978″ thì tên Dâm Đàm còn được sử dụng đến năm 1573 (đời nhà Trần, nhà Lý). Khi vua Lê Thế Tông lên ngôi, người ta mới tránh gọi hồ là Dâm Đàm, vì tên húy của vua là Duy Đàm, thay vào đó là Hồ Tây.
Sách “Tây Hồ chí” còn ghi, Hồ Tây có từ thời vua Hùng. Lúc ấy, nơi đây là một bến ở cạnh sông Hồng, thuộc động Lâm Ấp, nên gọi là bến Lâm Ấp của thôn Long Đỗ. Mãi tới thời Hai Bà Trưng, bến này thông với sông Hồng. Chung quanh bến Lâm Ấp là một rừng lim rậm rạp có nhiều hang động. Người già ở địa phương còn cho biết, khi đánh cá, thỉnh thoảng họ vớt được những khúc gỗ lim ở dạng trầm tích. Về địa lý, Hồ Tây là hồ ngoại sinh, có dạng lòng chảo. Hồ tạo thành chủ yếu là do tác dụng xâm thực của sông Hồng. Nhưng trong dân gian có nhiều truyền thuyết về sự hình thành Hồ Tây.
Truyền thuyết Hồ Trâu Vàng kể lại rằng, đời nhà Lý, ở nước ta có Nguyễn Minh Không sang Trung Quốc chữa bệnh cho con vua Tống. Khi hoàng tử khỏi bệnh, vua Tống trả ơn bằng cách cho phép Minh Không vào kho báu lựa đồ theo ý thích và muốn lấy bao nhiêu cũng được Minh Không hóa phép chỉ lấy đồng đen (vì đồng đen được coi là “mẹ” của vàng) và thu hết cho vào một bao mang về dâng vua Lý. Vua sai đem chỗ đồng đen ấy đúc thành cái chuông. Chuông đúc xong mang ra đánh thử. Tiếng chuông vang xa ngàn trùng đến tận Trung Quốc. Nghe tiếng chuông ngân, trâu vàng ở bên ấy lồng lên chạy về nơi phát ra tiếng chuông. Đến khu rừng phía bắc Thành Thăng Long thì tiếng chuông im bặt. Trâu vàng mất hướng đi, lồng lên đi tìm và giẫm nát cả một khu rừng, còn đất thì lún xuống thành hồ. Những nơi trâu đi thành sông mà ngày nay còn lại di tích, đó là sông Kim Ngưu. Nhà vua đã sai ném cả chuông lẫn trâu vàng xuống hồ để trâu khỏi lồng lên. Và hồ ấy chính là Hồ Tây ngày nay. Truyền thuyết còn kể, nếu ai sinh đủ 10 người con trai thì có thể đến hồ gọi trâu vàng về. Một lần có người đến gọi được trâu vàng lên khỏi mặt nước, dắt trâu vào bờ. Bỗng nhiên, thừng bị đứt, trâu vàng chui ngay vào hang ở gần đó. Nơi đó nhân dân lập đền thờ gọi là đền Kim Ngưu trên đường vào phủ Tây Hồ hiện nay. Về sau mới biết, người gọi trâu chỉ có 9 con trai ruột và 1 con trai nuôi.
Một truyền thuyết khác kể rằng. Xưa kia ở núi đá Tản Viên, có hang mà con cáo (hồ tinh) chín đuôi hay lên quậy phá làm hại nhân dân. Thấy vậy Thượng Đế sai Long Vương dâng nước phá hang của cáo. Cáo chín đuôi bỏ chạy. Quân thủy của Long Vương đuổi theo bắt cáo. Nơi cáo bị giết thịt trở thành cái đầm sâu gọi là Đầm Xác Cáo mà ngày nay gọi là Hồ Tây. Ở vùng Xuân Đỉnh đến nay vẫn còn có làng Cáo. Có lẽ địa danh này có liên quan đến truyền thuyết về Đầm Xác Cáo. Dân gian còn kể: Ngày xưa Trấn Vũ là một người có tài và có công trừ yêu, dẹp giặc nhiều lần, nhưng không chịu làm quan. Ông chỉ muốn đi tu cho đủ chín kiếp mười đời để thành Phật. Lý do tu đủ 10 đời cũng được nhân dân tương truyền lại. Qua rất nhiều thử thách, đã có lần ông bị Phật Bà phạt vì không dám đỡ đẻ cho một phụ nữ gặp trên đường. Ông bị Phật Bà cho rằng bản lĩnh tu hành chưa cao, tránh khó khăn và bắt Trấn Vũ tu thêm một kiếp nữa. Ông đã có ý chán nản, nhưng thực tế cuộc sống, những người ông gặp đã củng cố lòng kiên nhẫn của ông. Ông tiếp tục tu hành để trở thành người có đạo đức cao siêu, vừa có phép thuật siêu cao (mà sau này ông là một trong bốn vị thần của Hà Thành).Ngày ấy, ở phương bắc có bà Hoàng bị hủi không ai chữa nổi. Nhà vua cho người cầu thầy thuốc giỏi về chữa trị. Trấn Vũ được mời chữa trị và chữa khỏi. Khi vua ban thưởng, ông không nhận gì chỉ xin đồng đen. Vì có phép thuật, nên nhà vua mất rất nhiều đồng đen vào cái túi nhỏ của Trấn Vũ. Vua ra lệnh không ai được chở giùm, mặc kệ Trấn Vũ. Ông đã dùng mũ làm thuyền để chở đồng đen về nước đúc chuông. Câu chuyện tiếp theo giống như truyền thuyết Hồ Trâu Vàng kể ở trên.
Con cáo yêu tinh chín đuôi vẫn thỉnh thoảng hiện về hại dân, nên mọi người cầu thánh Trấn Vũ trừ yêu. Thánh sai làm một cái thuyền và một bộ dây thật bền. Thánh tự buộc mình vào đầu dây, lặn xuống hồ. Yêu tinh nuốt thánh vào bụng, thánh giật dây cho dân làng kéo lên và dùng dao nhọn mổ bụng yêu tinh để thánh ra. Mọi việc xong xuôi, có một lần vào buổi tối, trên đường về nhà, thánh gặp một người con gái xin vào trú mưa. Đến đêm cô gái bị đau bụng nguy kịch, thánh xoay xở hết cách. Cuối cùng thánh nhớ câu truyền: “Đau bụng lấy bụng mà chườm; Nhược bằng không khỏi, hoắc hương với gừng”… Phật Bà hiện lên cho rằng thánh còn trần tục. Bị oan ức, thánh tự mổ bụng lấy ruột gan vứt khắp mọi nơi. Mãi về sau, thánh mới được Phật Bà xét lại cho tu thành quả. Ruột của ông vứt xuống hồ thành Bạch Xà (nay thuộc địa bàn Quảng Bá); bao tử của thánh thành Kim Quy (nay thuộc địa bàn thôn Tây Hồ). Hai con vật này lại trở thành yêu tinh giết hại dân làng, xương chất thành đống (chính là nơi trường Chu Văn An hiện nay). Trời lại sai thánh trừ yêu. Kim Quy thánh giẫm dưới chân, còn Bạch Xà thánh quấn vào bên kia. Từ đó dân sống ven Hồ Tây mới yên ổn làm ăn.
Hồ Tây và hồ Trúc Bạch xưa kia chỉ là một. Vì Hồ Tây lớn quá, nhân dân ba làng Trúc Yên, Yên Phụ, Yên Quang mới đắp con đê chắn ngang để giữ phần cá về phía mình. Con đê đó nay trở thành đường Thanh Niên.

9. Sự tích đền Bà Đế
Bà Đế vốn là một cô gái siêng năng và có tiếng hát lay động lòng người. Khi Chúa Trịnh nghe được đã say mê và đi tìm. Cho đến khi bà mang thai vì thuyền hoa của Chúa chưa kịp đến đoán mà bà đã bị chết oan. Cuối cùng, khi chúa đến đã lập đền thờ cho bà.
Tương truyền vào năm 1718, ở phía đông nam vùng Ngọc Ðồ Sơn có đôi vợ chồng họ Ðào, đã hai mươi năm không có con. Hai vợ chồng tu thân, tích đức, cầu xin trời phật cho một mụn con. Trời phật động lòng, chứng giám, rồi báo mộng cho người vợ được mang thai. Tròn ngày, tròn tháng, đứa bé ra đời và được đặt tên là Ðào Thị Hương. Từ khi sinh ra, người đứa trẻ đã toả hương thơm ngát, phát ánh hào quang và đi đến đâu cũng có làn mây che đến đó. Càng lớn lên đứa trẻ (Bà Ðế) càng xinh đẹp, lộng lẫy.
Bà Ðế rất khéo tay, siêng năng mọi việc. Hàng ngày bà đi chăn trâu, cắt cỏ, tay làm, miệng hát, tiếng hát ngân vang cả núi rừng. Người ta nói rằng, tiếng hát của bà làm chim ngừng hót, sóng ngừng vỗ, đất trời lặng đi để lắng nghe.
Vào năm 1736, chúa Trịnh Giang về kinh lý Ðồ Sơn. Chúa cùng đoàn người dạo thắng cảnh bằng thuyền rồng trên núi Ðộc. Xúc động trước tiếng hát mượt mà, chúa truyền cho quân lính đi tìm người hát. Khi gặp được bà với vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, chúa yêu mến và quyến luyến không rời. Khi về kinh đô, chúa có hẹn ngày về đón bà.
Bà mang thai, trong lòng rất lo sợ, ngày đêm trông ngóng thuyền hoa của chúa. Hàng Tổng biết chuyện đòi phạt tiền. Nhà nghèo không có tiền nộp phạt, hàng tổng đem bà ra khu núi Ðộc rồi dìm bà xuống biển. Trước khi chết, bà ngửa mặt lên trời khóc than rằng: “Phận gái thân cô, gặp chúa yêu thương tôi đâu dám chống, nhìn mẹ cha, hàng xóm tôi đâu dám quên. Xin trời phật chứng giám cho lòng con. Khi con bị dìm xuống nước, nếu có oan ức, trời phật cho con nổi lên ba lần”.
Quả nhiên bà nổi lên ba lần, mọi người ai nấy đều kinh sợ. Sau một tháng, thuyền hoa của chúa về rước bà về kinh. Biết chuyện oan khuất, chúa Trịnh Giang cho xây đền, lập đàn giải oan cho bà. Ðền bà được vua Tự Ðức về thăm ban sắc phong: Ðông Nhạc Ðế Bà – Trịnh chúa phu nhân.
Người đời sau thương tiếc và khâm phục lòng thuỷ chung của bà. Nhiều danh nhân đã đề thơ ca ngợi:
“Lòng sáng như băng trời đất biết
Nỗi niềm thành kính quỷ thần hay
Ðế Bà hương lửa nghìn thu ấy
Ðể giải hồn oan cõi thế này”
Từ bấy đến nay, khách thập phương tấp nập đến du lịch Đồ Sơn trẩy hội đền Bà Ðế. Người ta đến để xin tài, xin lộc và đặc biệt cùng bà giải mọi nỗi oan khuất mà mình gặp phải.

10. Sự tích hoa ngô đồng
Một người đàn ông đàn rất hay và đã phải lòng một cô gái tuổi xuân thì nên ông đành giấu kín cảm xúc của mình. Cô gái và chàng trai hai người đều là học trò của ông, họ đã yêu nhau. Ông vừa vui vừa buồn bã, ông bị cảm nặng rồi qua đời....
Ngày xửa ngày xưa tại một vùng nào đó có một người đàn ông đánh đàn rất hay. Tiếng đàn của người đàn ông hay đến nỗi ai nghe thấy cũng đều phải khen ngợi. Người đàn ông có một cây đàn hình dạng năm cánh và khi ông gãy đầu có đủ các cung bậc của cảm xúc như vui, buồn, giận, hờn,…
Đi đâu cây đàn cũng luôn được ông mang theo. Ông luôn muốn mình gặp được học trò có tài để truyền dạy nghề của mình và ông còn mong muốn sẽ tìm được người phụ nữ có thể chung sống trong quãng thời gian còn lại.
Một ngày, ông đã gặp cha con nhà nọ khi đi đò, con gái của người đàn ông nọ mới 16 tuổi nhưng lại có một vẻ đẹp không ai sáng bằng. Đó là một nét đẹp trong sáng và cao quý lạ thường cô gái rất thích đánh đàn. Vào một ngày người đàn ông nhận ra người con gái này đều có những phẩm chất của người phụ nữ ông luôn mong muốn. Nhưng lứa tuổi của ông thì lệch rất nhiều so với cô gái đang độ tuổi xuân.
Ông đành giấu kín nỗi lòng của mình. Một hôm ông chủ nhà đã xin ông dạy đàn cho người con của bạn mình. Đó là một người có tài đánh đàn và chỉ cần nghe qua là nhớ mãi. Thấy vậy ông thầy dạy đàn lại nghĩ biết đâu đây lại là người học trò mà ông mơ ước. Rồi ông bảo với người chủ nhà đưa con của người bạn đến.
Cô gái luôn chăm sóc chu đáo cho thầy dạy. Một hôm người bạn của chủ nhà đưa con trai đến, một cậu con trai mười bảy tuổi. Cậu con trai đã đánh thử cho ông thầy dạy đàn nghe và ông vô cùng kinh ngạc bởi đây là tiếng đàn ông chưa từng được nghe bao giờ. Một tiếng đàn sâu lắng rất trong sáng.
Cô gái và chàng trai nhanh chóng trở nên thân thiết. Hai người hay trò chuyện hay đi hái hoa cùng nhau và ông thầy dạy đàn vừa mừng và cũng làm ông đau khổ. Chàng trai rất chịu khó tập đàn và ngày một hay hơn. Tiếng đàn rất có hồn và dễ đi vào lòng người với những giai điệu buồn hoặc vui.
Và rồi đôi trai gái cũng đã yêu nhau từ khi nào không hay. Thấm thoát đã hai năm trôi qua cô gái ngày càng xinh đẹp và chàng trai ngày càng tài năng hơn. Không chỉ có tiếng đàn hay anh còn tự mình viết lên nhưng bản nhạc mới rất gần gũi với cuộc sống.
Rồi một ngày nhà vua tổ chức cuộc thi chọn người tài giỏi. Người thầy đã đưa học trò cũng mình đến kinh thành dự thi. Sau mấy ngày thi cả hai học trò của người thầy đều được khen thưởng. Chàng trai đã được chọn làm người trẻ tuổi đánh đàn hay nhất, cô gái được mọi người yêu thích và ngưỡng mộ nhất.
Sau khi dự tiệc chiêu đãi nhà vua liền ra lệnh mời thầy dạy đàn vào gặp vua. Nhưng người thầy đã ra đi và có để lại cho hai học trò của mình một bức thư. Trước lúc người thầy đi xa, ông đã quay lại từ biệt người chủ nhà và thông báo chuyện đoạt giải của chàng trai và cô gái.
Đêm hôm đó ông ngồi một mình trên bãi cát ven sông. Dòng sông như sáng lấp lánh dưới ánh trăng. Vừa uống rượu, ông vừa ôm cây đàn vào lòng đánh lên những âm thanh đầu tiên của làn điệu đang ngân nga trong lòng ông. Rượu ngon, trăng sáng, ông chìm đắng trong tiếng đàn và cảm thấy mình như đang chơi vơi giữa lưng trời, ở con sông đang sáng rực.
Nhưng cũng lúc này chàng trai và cô gái đã về tới nhà. Sáng hôm sau, trời còn chưa sáng ông đã trở dậy và âm thầm ra đi không cho một ai hay biết. Thế nhưng vẫn có một người hay biết. Đó là cô gái. Lặng lẽ nhìn người thầy ra đi trong sương sớm, cô khẽ ôm lấy mặt để khỏi bật khóc và đưa tay lau hai giọt nước mắt vừa trào ra.
Sau một thời gian trôi qua, một hôm có người đã mang cây đàn và bình rượu của thầy dạy đàn đến biếu ông chủ nhà. Và được người khách cho biết ông thầy đã mất được mấy hôm do bị cảm nặng. Cả ba người đều vô cùng buồn bã khi biết tin này. Trước khi chết người thầy luôn đánh một bản nhạc quen thuộc rất hay của mình. Chàng trai rất muốn đánh lại bản nhạc của thầy. Rồi chàng cầm đàn so dây tiếng đàn cất lên làm mọi người.
Ông chủ nhà cùng chàng tria và cô gái đã lập bàn thờ và bia ở trong vườn. Cây đàn và bình rượu được treo ngay cạnh bàn thờ của người thầy. Một bình rượu đầy một loại rượu mà ông vẫn hay uống. Rồi vào một ngày trong mùa xuân mọi người ra thắp hương cho người thầy mọi người đều bất ngờ khi trong miệng bình lại mọc lên hai cái lá con to khỏe vươn dài.
Một thời gian sau, cây trổ hoa. Hoa có màu đỏ tươi, năm cánh nhỏ xíu và túm tụm vào nhau nhìn xa như những vết máu đỏ li ti… Mọi người gọi loài hoa ấy là hoa ngô đồng.
Ngày nay ở nước ta cây hoa ngô đồng được trồng tại Huế. Trong Đại Nội ở Huế hiện nay có rất nhiều cây hoa ngô đồng. Đến với Huế vào tháng 2 đến tháng 5 âm lịch bạn sẽ được ngắm, thưởng thức loài hoa đẹp này. Nhưng người thưởng thức hoa lại không hẳn ai cũng biết về sự tích hoa ngô đồng đầy u buồn này. Một sự tích hoa mang nhiều đau thương.
