1. Đầu to bằng cái bồ
Chuyện kể rằng khi Quỳnh còn nhỏ, chỉ bảy tám tuổi, cô bé này đã thể hiện sự thông minh đỉnh ngộ nhưng cũng là một đứa trẻ nghịch ngợm. Trong số các trò chơi của bọn trẻ, Quỳnh luôn tỏ ra xuất sắc.
Một đêm mùa thu, khi trăng sáng rực, Quỳnh đang chơi với đám trẻ ở sân nhà. Cô đề xuất:
– Các bạn hãy làm kiệu cho tôi ngồi, tôi sẽ dẫn đi xem một người có đầu to bằng cái bồ!
Bọn trẻ đồng lòng chấp nhận và tranh nhau làm kiệu để rước Quỳnh đi quanh sân. Sau cùng, họ yêu cầu Quỳnh giữ lời hứa của mình. Lúc ấy, trăng đã mờ, Quỳnh nói:
– Các bạn đứng đợi ở đây, tôi sẽ đi đốt lửa để soi cho các bạn thấy!
Bọn trẻ cảm thấy hơi sợ, nhưng không dám từ chối. Quỳnh thắp đèn rồi đưa đầu che vào ngọn đèn, nói:
– Nhìn kìa, trên vách đấy. Đầu to đã xuất hiện!
Mọi người đều nhìn thấy bóng đầu Quỳnh lớn bằng cái bồ. Bọn trẻ ngỡ ngàng, Quỳnh nhanh chóng rời khỏi đèn và đóng cửa buồng, kêu ầm lên. Bố nghĩ là trẻ đánh nhau, nhanh chóng chạy ra với roi, bọn trẻ bắt đầu tán loạn.
2. Cái cân thủy ngân
Trong xưa kia, có một hộ gia đình kinh doanh buôn bán, tài sản lớn nhờ một chiếc cân kỳ lạ, cán rỗng, đổ thủy ngân, đầu cân bịt đồng, bí mật không ai biết. Khi cân hàng bán cho người, họ dốc cán về đằng móc, còn khi cân hàng mua từ người khác, họ dốc cán về đằng quả. Như vậy, chiếc cân này vừa nặng vừa nhẹ, luôn mang lại lợi ích cho họ.
Không lâu sau, họ trở nên giàu có nhờ vào việc buôn bán lừa dối.
Họ có hai đứa con, thông minh và học giỏi. Mọi người khen ngợi họ là gia đình được phúc lộc ban tặng. Một ngày, họ quyết định phá bỏ chiếc cân lừa dối đó để giữ lại đức độ cho con cháu sau này.
Khi chẻ rời chiếc cân, họ phát hiện một cục máu đỏ đọng trong đó.
Từ đó, họ quyết tâm thay đổi, sống hết lòng thiện, tránh xa điều ác. Tuy nhiên, sau hai tháng, một đứa con đột ngột qua đời, và không lâu sau, đứa con còn lại cũng ra đi. Họ than khóc và tưởng rằng họ đang hứng chịu quả báo từ Trời.
Một đêm, họ cùng mơ thấy một vị Bụt đến cảnh báo: “Hãy thay đổi cuộc sống và làm việc của mình, đừng trách móc Trời. Trước đó, Trời đã sai hai con quỷ đến để xóa sổ mọi tội lỗi và hành vi xấu xí của bạn. May mắn là bạn đã hối hận kịp thời, trở nên tốt bụng và lành mạnh. Bây giờ Trời sẽ ban cho bạn hai đứa con khác để nuôi dưỡng.”
Nhìn thấy điều đó, họ không còn buồn rầu về cái chết của con cái mình nữa, và tiếp tục cuộc sống tốt lành, luôn hướng tâm về những việc lành và từ thiện. Cuối cùng, họ có thêm hai đứa con trai khác, tốt bụng và thành công, làm cha mẹ hạnh phúc trong những năm tháng già.
3. Chuyện của Nàng tiên cóc
Xưa kia, có một cặp vợ chồng nông dân hiếm hoi, đã cầu nguyện mãi mà chỉ có thai được một cô con gái, nhưng khi sinh ra, không phải là con gái mà lại là một chú cóc.
Chú cóc lớn lên, biết nói tiếng người, nhưng hình dạng xấu xí khiến cha mẹ buồn phiền, thường than thở với nhau về số phận không công bằng. Tuy nhiên, chú cóc đã giúp đỡ gia đình nhiều, coi sóc ruộng cỏ và ngăn chặn mọi nguy hiểm cho gia đình.
Một ngày, một nhóm thư sinh đi ngang qua ruộng, làm hại lúa và nhận thức được giọng nói của chú cóc. Một trong số họ, một thư sinh học nghiên cứu về thần tiên, tin rằng có sự kỳ diệu trong cuộc sống, quyết định cưới chú cóc.
Thư sinh này đã cầu xin cha mẹ và thậm chí thề sẽ không lấy vợ nếu không cưới được chú cóc. Cha mẹ thư sinh hoài nghi, nhưng cuối cùng, họ đồng ý và tổ chức lễ cưới. Khi nhóm cưới chú cóc về, mọi người bất ngờ và ngượng ngùng vì thấy mình mang về nhà một chú cóc thay vì một cô dâu xinh đẹp.
Thư sinh và chú cóc sống riêng, và thư sinh liên tục nhấm nháp hy vọng rằng chú cóc sẽ biến thành một người phụ nữ xinh đẹp. Mặc dù cóc không chú ý, cuộc sống hôn nhân vẫn tiếp tục.
Một hôm, khi thư sinh đi học, chú cóc bất ngờ biến thành một cô gái xinh đẹp. Anh thư sinh vui mừng và không ngừng ngợi khen vợ mình. Cả hai sống hạnh phúc và có nhiều đứa con, tạo nên một gia đình đầy đủ và hạnh phúc.
4. Cuộc Phiêu lưu của Khỉ và Châu chấu
Từ khi trái đất mới hình thành và mọi loài sinh sống, tất cả chúng nói chung một thứ tiếng giống như loài người. Cuộc sống giữa chúng diễn ra hòa thuận, không có loài nào bắt nạt hay đè ép loài khác. Trừ có khỉ, chúng thích ngỗ ngược, vừa chạy ở dưới đất vừa nhảy trên cây, thích bắt nạt các loài nhỏ hơn. Một hôm, khỉ đến một nơi nào đó và thấy đàn châu chấu đang bay nhảy trên bãi cỏ xanh tươi. Nhìn thấy niềm vui của đàn châu chấu, khỉ ghen tị và nảy ra một ý định tinh nghịch.
Một đàn khỉ từ nơi rừng xa kéo đến bãi cỏ. Chúng lăn qua lăn lại, phóng uế làm hỗn loạn bãi cỏ. Đàn châu chấu non, chưa biết bay chắc cánh, bị khỉ đè chết không đếm xuể. Khoàng Tý châu chấu đến gặp Khoàng Tý khỉ để kiện. Nhưng Khoàng Tý khỉ không những không nghe mà còn đe dọa:
– Những thằng này chưa bằng một lông của tao mà nói xạo à? Muốn yên thân thì cút khỏi đây ngay. Rừng này là của tao, bãi cỏ này cũng là của tao.
Khoàng Tý châu chấu tức đến nơi đuôi cánh, nhưng vẫn phân trần:
– Đầu các người nhớ rõ, miệng các người nói không đúng rồi đấy! Đây chính là đất của chúng tôi! Từ khi sinh ra, chúng tôi đã sống ở đây. Cha mẹ chúng tôi, ông bà tổ tiên chúng tôi cũng ở đây, thậm chí chết ở đây. Các người ở trên kia rừng này đó!
Đàn khỉ cười toe toét. Chúng hò reo và nhảy lên mô đất, cào bới nó. Lòng Khoàng Tý châu chấu đau như bị nát nhưng không khuất phục, mắng lũ khỉ:
– Bọn mày quá lắm! Dựa vào cơ bắp mà bắt nạt, hà hiếp chúng tao. Chúng tao bé nhỏ nhưng không sợ bọn mày! Nếu muốn đánh nhau, hãy đánh!
Khỉ cười khịt răng nói:
– Dám thách đánh nhau với bọn tao à? Mỗi đứa mày liệu có chịu nổi một cú đánh tay của tao không?
Khoàng Tý châu chấu cứng cỏi đáp lại:
– Trưa mai chúng tao sẽ gặp mày ở đây.
Đàn khỉ cười rống và lăn mình ra bãi cỏ ngủ ngon lành.
Khoàng Tý châu chấu về gặp bầu đàn châu chấu, gọi tất cả tên tuổi lão trẻ đến bàn việc đánh nhau với khỉ để trả thù. Nghe Khoàng Tý của mình nói muốn đánh nhau với khỉ, ban đầu nhiều con run sợ. Có con thậm chí bàn lui nói:
– Khoàng Tý à! Ta lớn không bằng một ngón chân của khỉ, đánh chúng ta không nổi đâu. Hãy chạy đi nơi khác để nhường cho chúng ta đồng cỏ này thôi!
Nhưng tiếng nói đó không kịp dứt thì cả đàn đã đồng lòng phản đối:
– Không được! Đồng cỏ xanh tốt này là của tổ tiên ta, là của chúng ta, không thể để cho bọn khỉ làm gì thì làm. Cái lý không thế. Đất đai của ai người ấy ở chứ. Ta đi mãi được à! Kẻ khác muốn cướp, ta phải đánh nhau thôi!
Một con châu chấu già bị lũ khỉ giẫm què một chân, cũng tham gia:
– Tuổi tôi đã già, sức yếu, nhưng thù này chưa trả thì chưa thể nhắm mắt được. Ta nhỏ người sức yếu, nhưng hãy cùng nhau nghĩ cách, hợp nhất sức mạnh, sẽ lớn lên, mạnh mẽ hơn. Khi chúng đến, hãy bay mỗi chúng ta đậu lên trán, đầy cả chúng nó. Khi chúng giơ chân, ta nhanh chân nhảy đi, chúng nó sẽ tự giẫm què, tự đánh nhau đến khi đầu óc chúng nó rối bời. Chúng ta sẽ thắng dễ dàng!
Đàn châu chấu hò reo và thích thú. Khoàng Tý châu chấu chọn những con khỏe nhất để đầu tiên ra trận. Mọi thứ đã sắp xếp xong, tất cả cùng một lòng. Đêm đó, châu chấu già bay đến lượm đàn khỉ:
– Này các loài khỉ ơi! Tôi già rồi, sức yếu, Khoàng Tý châu chấu đã đuổi tôi đi, không cho tôi tham gia. Tôi nghe đồn các người sắp đánh nhau với lũ chúng nó. Tôi xin hiến kế để các người tiêu diệt hết chúng nó đi. Các người là những người tốt bụng, tôi xin gợi ý điều này: chúng tôi biết, họ hàng nhà tôi có cánh, có thể bay đến bất cứ đâu, nhưng họ lại sợ gậy gộc. Nếu các người muốn chiến thắng mà không tốn sức, hãy kiếm mỗi người một đoạn gậy cứng. Khi chúng nó đến, các người mang gậy ra và đập mạnh, hễ chúng nó đậu đâu, chỉ cần đánh một nhát, chúng nó sẽ tan nát như đập một giọt nước. Chỉ cần nhìn loáng mắt, chúng nó sẽ chết hết!
Châu chấu già nói xong và chỉ vào chân què của mình nói tiếp:
– Đây các người xem, một chân tôi què vì bị đàn cáo dùng gậy quật. May mà tôi chưa mỏi cánh nên còn bay thoát được.
Đàn khỉ ngốc nghếch nghe châu chấu già nói liền tin ngay. Sáng hôm sau, từ khi bình minh chưa rạng, đàn khỉ đã sẵn sàng với mỗi con mang theo một đoạn gậy. Chờ mãi, không thấy đàn châu chấu nào, Khoàng Tý khỉ sai người đến gặp Khoàng Tý châu chấu.
Lần thứ nhất, Khoàng Tý châu chấu nói:
– Chúng tôi đang bận ngủ!
Lần thứ hai, Khoàng Tý châu chấu lại nói:
– Chúng tôi đang bận ăn! Nếu muốn chết, thì đợi đi!
Châu chấu tiếp tục giữ thế cho đến khi mặt trời lên đỉnh, khi cánh châu chấu đã cứng và bụng khỉ đói meo. Đàn châu chấu mới rào rào bay tới. Lũ khỉ bị tấn công bất ngờ, hoảng sợ. Châu chấu nhảy lên đầu khỉ, đá và phóng uế bừa bãi.
Đàn khỉ tức giận đánh nhau với lũ châu chấu ở đâu thì tới. Lũ khỉ đánh lộn, kêu la inh ỏi. Châu chấu càng bay lung tung, đậu lung tung, trêu chọc lũ khỉ. Bọn khỉ đánh lẫn nhau mạnh mẽ hơn. Chỉ trong thoáng chốc, xác khỉ rơi rụng trên bãi cỏ, mỗi con nằm đó, lòi mắt, nhe răng trắng nhạt!
Vậy là kết thúc đời sống của nhóm khỉ ác, cưỡng bức và hà hiếp. Châu chấu trở lại bãi cỏ, hòa mình vào niềm vui nhảy múa như xưa.
5. Trải nghiệm phơi sách, phơi bụng
Làng Quỳnh tồn tại một ông lão hiếu kỳ. Lão này dốt nhưng lại thích học hỏi, thỉnh thoảng ghé nhà Trạng mượn sách. Nhưng rõ ràng là lão không đọc được. Quỳnh, bận rộn, khi thấy lão xuất hiện ầm ĩ ở cổng, liền vội vác chiếc chõng tre ra sân, cởi áo nằm phơi bụng. Lão hiếu kỳ bước vào và hỏi:
– Ông đang làm gì vậy?
Quỳnh trả lời:
– À, chả có gì cả! Hôm nay trời nắng, tôi đang phơi sách để tránh ẩm mốc đấy
– Sách ở đâu?
Quỳnh chỉ vào bụng mình:
– Sách đây, đầy ắp ở trong bụng này!
Hiểu rõ là bị từ chối, ông lão rụt rè lẻn về.
Trong một lần khác, lão mời Quỳnh đến nhà. Muốn xóa đi mối nhục trước đó, lão bắt chước, đánh trận, nằm giữa sân đợi khách…
Quỳnh bước vào, lão lên tiếng giọng hát con vẹt, bắt chước…
– Hôm nay được cái nắng tôi nằm phơi sách cho khỏi mốc
Đột nhiên, Quỳnh cười lớn, vỗ tay vào cái bụng mỡ và nói:
– Bụng của ông chứa đựng những thứ ngon lành chưa tiêu hóa, phải phơi để không bị mốc à. Chứ ở đó làm gì có sách mà phơi!
Ông lão trố mắt ngạc nhiên:
– Làm sao thầy biết?
Quỳnh lại cười to, lắc đầu về cái bụng béo phì của ông lão:
– Ông nghe rõ đấy chứ? Bụng ông kêu “Ong óc” đây này! Tiếng cơm, tiếng gà, tiếng cá, lợn… Chứ không phải tiếng sách. Thôi, ngồi lên, mặc áo và vào nhà đi.
Ông lão rụt rè làm theo lời Quỳnh và ngồi chờ khách một cách miễn cưỡng.
6. Hạnh phúc trong sự khôn khéo và yêu thương
Xưa kia, có một người phụ nữ làm nghề dệt vải. Nàng thông minh và khéo léo, nhưng lấy phải một người chồng đơn độn không giỏi nghề gì. Một ngày, nàng đưa mấy tấm vải cho chồng và bảo anh ta mang ra chợ bán. Nàng nhắc nhở: – “Nếu không bán được với giá bốn quan mỗi tấm, thì đừng bán đấy, hiểu chưa!”
Chồng mang vải ra chợ đi khắp nơi, rao giảng mà không có ai mua. Cuối cùng, một ông cụ già mua được hai tấm. Nhưng ông ta lại không có tiền ngay. Ông cụ nói với chồng:
– Chờ tí, anh đến nhà tôi lấy tiền nhé! Nhà tôi ở trong làng này thôi.
Chồng hỏi:
– Nhà ông ở đâu?
– Tôi ở nơi “chợ đông không ai bán, chỗ kèn thổi tò le, chỗ cây tre một mắt”. Đến đó, tôi sẽ trả tiền ngay.
Chiều, chồng đi tìm nhưng không tìm thấy. Người ta chỉ nói với anh ta:
– Anh này bị lừa rồi, chỗ ông ta nói không ai biết đâu cả!
Anh ta đi mãi không tìm thấy, buộc phải về nhà với bộ mặt thất vọng.
Vợ hỏi chồng tại sao, anh ta kể lại toàn bộ câu chuyện. Vợ nói:
– Dễ thôi mà! “Chỗ chợ đông không ai bán” là trường học, “chỗ kèn thổi tò le” là bụi lau vì gió thổi giống như tiếng kèn, “chỗ cây tre một mắt” là bụi hành hoặc tỏi gì đó. Anh đi tìm người đó ở trường học, gần đó có bụi lau và vườn trồng hành tỏi.
Ngày sau, chồng đi tìm lại và gặp ông cụ kia. Đó là một thầy giáo. Khi thấy anh ta đến, ông liền hỏi xem có ai gợi ý cho anh biết về địa chỉ không. Anh ta trả lời: – “Tôi tìm ông suốt một buổi chiều hôm qua. May nhờ có vợ tôi chỉ cho”. Ông thầy nghĩ: -“Người đàn bà này hẳn là một cô gái thông minh tài trí, ít người sánh kịp”. Hôm đó có giỗ, ông giáo mời anh ta ngồi ăn cỗ. Anh ta no nê và còn được ông giáo tặng về một phần cơm. Khi trả tiền, ông giáo còn gửi cho anh ta một gói khác và bảo đưa về biếu vợ. Trong đó chỉ có một cục phân trâu ở giữa cắm một cành hoa nhài. Anh ta không hiểu nhưng mang về nhà.
Vợ thấy, hiểu ý ông thầy muốn trêu chọc mình:
Con vợ khôn lấy thằng chồng dại
Như bông hoa lài cắm bãi cứt trâu
Ngẫm nghĩ về “món quà”, nàng càng buồn bực, trách chồng dốt nát để mang về cho mình một lời trêu chọc chua cay. Nàng cảm thấy duyên phận thật khó khăn, nước mắt lăn dài. Nàng ném cái thoi, bảo dạ:
– “Thân thế ta thật chả ra gì. Trên đời có bao nhiêu người khôn ngoan tài giỏi, còn ta thì lấy nhầm một thằng chồng u mê đần độn!”. Trong tâm trạng phiền muộn, nàng chạy ra bờ sông, muốn nhảy xuống nước tự tử. Nhưng rồi nàng nghĩ lại và quay về nhà.
7. Một truyền kỳ về người phụ nữ kiên cường
Xưa kia ở vùng Bắc Ninh, nơi nổi tiếng với những cô gái đẹp, có một người phụ nữ làng Cách bi tên là Nguyên Hanh. Nàng lấy chồng và có một con trai, nhưng rồi chồng sớm qua đời. Dù còn trẻ đẹp, nàng quyết định sống côi thân để nuôi con.
Trong làng có tên lý trưởng là người mạnh mẽ, thường xuyên trêu chọc nàng. Để tránh gặp phiền toái, nàng từ chối và nói chờ đến khi nào nàng đoạn tang chồng. Một ngày, tên lý trưởng đuổi theo nàng khi về từ chợ, nhưng nàng chạy về nhà, lạy bàn thờ chồng và đưa con lên chùa Kim Giang tu học.
Khi con trai 7 tuổi, nàng đưa con trở về, tổ chức lễ tế chồng và mời họ hàng, xóm làng đến dự. Tên lý trưởng đến để trêu chọc, nhưng nàng tự cắt mặt tên trước mặt đông đảo và kể lịch sử nhục nhã mà tên đã làm với nàng. Nàng nói rằng bà chỉ sống đến nay vì con trai còn nhỏ, giờ có thể trả nợ cho chồng. Nói xong, nàng tự cắt đứt một bên vú đã bị tên lý trưởng trêu chọc trước đây, rồi ngã xuống chết. Họ đưa tên lý trưởng lên trình án và trừng phạt.
Con trai của bà là Nguyễn Cao, sau này thi đỗ và làm quan cuối triều vua Tự Đức. Sau khi mất nước, ông trở về làng dù rất nghèo. Người Pháp đề nghị ông làm quan, nhưng ông từ chối, để lại dấu vết của mình để chứng minh tình yêu nước. Ông tự mổ bụng, rút gan ra ngoài và tự tử khiến người Pháp phải thán phục. Dân gian thường nói về mẹ con bà: 'Mẹ anh hùng sinh con hào kiệt'.
8. Chuyện kể về thành phố Cao Lãnh
“Vùng Đồng Tháp Mười bay thẳng cánh,
Nước Tháp Mười lấp lánh cá tôm.”
Trải qua ruộng lúa phì nhiêu, cá tôm lấp lánh, sen nở bạt ngàn; và còn có một câu chuyện thú vị về một địa danh không phải ai cũng biết: Cao Lãnh. Xưa kia, có đôi vợ chồng tên Đỗ Công Tường, hay còn gọi là ông Lãnh, từ miền trung lên đây để lập nghiệp. Họ đã có một cuộc sống khá thành đạt. Ông Lãnh, tính cách chính trực, được dân làng chọn làm chức câu đương, người giải quyết các vụ án tại làng.
Ông bà Lãnh trồng một vườn quýt, và nơi đây trở thành chợ nơi hàng xóm đến trao đổi, mua bán. Cuối cùng, nơi đó trở thành chợ Cầu Ông Lãnh ngày nay.
Năm Canh Thìn (1820), khi dịch tả hoành hành, ông Lãnh và bà quyết định cầu nguyện để bảo vệ làng khỏi đại dịch. Họ lập bàn thờ giữa sân chợ, kêu gọi sự giúp đỡ của trời đất và thần thánh để bảo vệ dân làng khỏi đau đớn và chết chóc. Điều đáng chú ý là họ đã hy sinh cuộc sống của mình để cầu nguyện cho sự an lành của cộng đồng.
Sau khi cầu nguyện, ông bà duy trì chế độ chay ba bữa. Tuy nhiên, vào sáng thứ tư, bà Lãnh mắc bệnh và qua đời. Trong khi lo lắng về việc an táng, ông Lãnh cũng bị bệnh và rời bỏ thế giới này. Sau khi chôn cất ông bà, dịch tả cũng chấm dứt tự nhiên. Người ta tin rằng nhờ sự hy sinh của họ, làng quê đã được cứu thoát. Để tưởng nhớ và tri ân, dân làng xây dựng miếu ngay trên mộ của họ và thờ phụng họ như là Chủ Chợ.
Chợ vườn quýt từ đó được biết đến với tên gọi Câu Lãnh, và do việc chép lệch đọc tên, nó trở thành Cao Lãnh. Tên Cao Lãnh từ đó trở nên phổ biến hơn, và chợ Cao Lãnh ngày nay ngày càng phát triển và thịnh vượng.
9. Hạ bệ mãng xà
Dưới bàn tay tài năng của kẻ thợ săn liều lĩnh, một cuộc chiến đấu gay cấn với mãng xà kinh hoàng đã bắt đầu. Những trận đánh ác liệt và mưu mô khôn lường sẽ hé lộ bí mật của cuộc hành trình này.
9. Trừ tận diệt mãng xà
Trong một hang núi huyền bí, cách đây lâu lắm rồi, tồn tại một con mãng xà khổng lồ. Thân hình nó to lớn, đầu mào đỏ như quả quýt, mắt ánh lên như hai viên ngọc. Đi qua mọi nơi, nó gây ra cơn bão hủy diệt, cuốn trôi cây cỏ, làm cho mọi thứ trở nên hỗn loạn. Để chấm dứt sự hủy diệt, nhà vua đã ra lệnh xây dựng một đền và hàng năm cử một người để dâng cúng cho mãng xà. Nhưng cuộc chiến đấu giữa một chàng trai dũng cảm và con quái vật hùng mạnh mới thực sự là điều quyết định số phận của làng xưa.
Chàng trai trẻ tuổi, từng được nuôi dưỡng bởi một nhà sư ở ngôi chùa trên đỉnh núi, sở hữu bí kíp võ nghệ và thanh gươm quý giá. Trang bị đầy đủ, anh quay trở về làng và thấy một đền sáng rực ánh đèn dầu. Anh bước vào và phát hiện một cô gái trẻ bị trói, đang chờ đợi để làm nạn nhân tiếp theo của mãng xà. Không chần chừ, anh giải thoát cô gái và quyết định thay thế cô để đối đầu với quái vật hung bạo.
Trận chiến ác liệt diễn ra trong đêm tối. Anh dũng cảm đối mặt với mãng xà khát máu, bằng thanh gươm tinh nhuệ của mình. Mặc dù gặp phải những thử thách khó khăn, anh không bao giờ từ bỏ. Với những đòn đánh táo bạo, thanh gươm của anh chém trúng mãng xà, khiến nó đau đớn và quật ngã. Anh đã chiến thắng quái vật và mang lại sự an bình cho làng.
Nhưng hạnh phúc không kéo dài khi một viên quan xấu xa lợi dụng tình hình và lừa dối nhà vua rằng anh ta mới là người hạ mãng xà. Nhưng sự thật đã được phơi bày khi chàng trai trẻ đưa ra bằng chứng - mảnh gươm gãy trong đầu của mãng xà. Sự công bằng đã được thiết lập khi anh được phong làm quận công và nhận lấy tình yêu của công chúa, điều mà viên quan xấu xa không thể chiếm đoạt.
10. Chiến thuật độc đáo trước kỳ kinh
Trong thách thức đối mặt với mãng xà, người ta phải tìm ra những mẹo tinh xảo để đối đầu. Đồng thời, học cách vượt qua những thử thách của cuộc sống hàng ngày.
Vào một ngày đông lạnh, Quỳnh hành trình tới Thăng Long để gặp bà con. Cuộc đường dài, chỉ có một ít tiền giữ lưng. Đến ngày thứ ba, tiền đã cạn kiệt, trời âm u, mưa phùn rơi, và gió bắc làm cảm giác lạnh buốt. Khi đến làng, bụng đói còn khó chịu hơn. May mắn, Quỳnh gặp một đứa bé đang dắt trâu về, và cô mừng rỡ hỏi đường vào nhà ấp trưởng.
Ấp trưởng nổi tiếng giàu có và quyền lực. Sau một số lời trò chuyện, ông quyết định mời Quỳnh ở lại và chuẩn bị bữa cơm chiêu đãi. Tuy nhiên, sau vài ngày, khách mà không rời đi, và vào bữa tối, khi Quỳnh giả vờ chờ đợi cơm và rượu, ông ấp trưởng rơi vào tình thế khó xử. Quỳnh rón rén rời phòng riêng của mình, mang theo một bọc nhỏ có ba gói vuông, và thực hiện một kịch bản tinh tế để lừa ông.
Quỳnh giữ một bút, giả vờ chấm chấm và lẩm nhẩm đọc tên của ba gói vuông như là những loại độc dược quý tộc. Bằng cách này, cô tạo ra bức tranh giả mạo để lừa ông ấp trưởng. Cuộc sống của Quỳnh rơi vào tình thế nguy hiểm khi ông ấp trưởng quyết định kiểm tra và phát hiện ra sự thật. Ngay sau đó, mọi sự kiện diễn ra theo một kịch bản không ngờ.
Sáng hôm sau, quân lính đến nhà ông ấp trưởng và đưa Quỳnh về kinh thành để đối diện với chúa. Trong buổi xét xử, mọi thứ được làm sáng tỏ và chúa phát hiện ra mưu đồ lừa dối của ấp trưởng. Quỳnh được thả và ấp trưởng bị trừng phạt. Trước khi rời đi, Quỳnh không quên mỉm cười và nói một số lời khéo léo đối với chúa, để lại một ấn tượng mạnh mẽ.