1. Nam Cao
Nam Cao (1915 hoặc 1917 - 28 tháng 11 năm 1951) là một nhà văn và cũng là một chiến sĩ, liệt sĩ người Việt Nam. Ông là nhà văn hiện thực lớn (trước Cách mạng Tháng Tám), một nhà báo kháng chiến (sau Cách mạng), một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20. Nam Cao có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20. Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo bậc trung. Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên vì mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may, bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi in trên tuần báo Tiểu thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư. Trở ra Bắc, sau khi tự học lại để thi lấy bằng Thành chung, Nam Cao dạy học ở Trường tư thục Công Thành, trên đường Thụy Khuê, Hà Nội. Ông đưa in truyện ngắn Cái chết của con Mực trên báo Hà Nội tân văn và in thơ cùng trên báo này với các bút danh Xuân Du, Nguyệt.
Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi, tên trong bản thảo là Cái lò gạch cũ, với bút danh Nam Cao do Nhà xuất bản Đời mới Hà Nội ấn hành được đón nhận như là một hiện tượng văn học thời đó. Sau này khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là Chí Phèo. Phát xít Nhật thâm nhập Đông Dương, trường sở bị trưng dụng, ông rời Hà Nội, về dạy học ở Trường tư thục Kỳ Giang, tỉnh Thái Bình, rồi về lại làng quê Đại Hoàng. Thời kỳ này, Nam Cao cho ra đời nhiều tác phẩm. Ông in truyện dài nhiều kỳ Truyện người hàng xóm trên tờ Trung Bắc Chủ nhật, viết xong tiểu thuyết Chết mòn, sau đổi là Sống mòn... Trên đường đi công tác, ông bị quân Pháp phục kích và bắn chết vào ngày 28 tháng 11 năm 1951 (30 tháng 10 âm lịch), tại đồn Hoàng Đan thuộc làng Vũ Đại, xã Gia Xuân, Gia Viễn (Ninh Bình). Tuy mất sớm, nhưng ảnh hưởng của ông đến văn học Việt Nam vẫn đáng kể. Năm 1996, Nam Cao được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật. Nhà tưởng niệm Nam Cao được thành lập từ ngày 30 tháng 11 năm 2004 tại Hà Nam để tưởng niệm nhà văn này.


2. Thạch Lam
Thạch Lam (1910 - 1942), tên thật là Nguyễn Tường Vinh, là một nhà văn Việt Nam thuộc nhóm Tự Lực văn đoàn. Ông là em ruột của hai nhà văn khác cũng trong nhóm Tự Lực văn đoàn là Nhất Linh và Hoàng Đạo. Ngoài bút danh Việt Sinh, Thiện Sỹ, Thạch Lam có nhiều tên gọi khác nhau. Mất sớm cha, mẹ ông phải một mình nuôi bảy người con. Lớn lên trong cảnh khó khăn, Thạch Lam từng sống ở quê ngoại và trải qua nhiều khó khăn khi chuyển đến Hà Nội. Muốn giúp đỡ mẹ, ông đã thay đổi tuổi và tên để được học ban thành chung. Thạch Lam thi đỗ Tú tài nhưng rời bỏ học để theo đuổi sự nghiệp viết văn.


3. Nguyễn Tuân
Nguyễn Tuân (10 tháng 7 năm 1910 - 28 tháng 7 năm 1987) là một nhà văn Việt Nam. Sáng tác với phong cách tùy bút và ký, ông được coi là bậc thầy của ngôn ngữ Tiếng Việt. Các tác phẩm của Nguyễn Tuân luôn thể hiện phong cách độc đáo, tài hoa, và sự hiểu biết phong phú về ngôn ngữ. Là một trong 9 tác giả tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại theo sách giáo khoa, ông còn là diễn viên tài năng, tham gia nhiều phim nổi tiếng như 'Cánh đồng ma' và 'Chị Dậu'. Nguyễn Tuân bắt đầu sự nghiệp viết lách sau khi trải qua những biến cố đời sống và chính trị. Ông nổi tiếng từ những năm 1938 với những tác phẩm tùy bút và ký như Vang bóng một thời, Một chuyến đi... Ông còn đóng góp nhiều tác phẩm sau Cách mạng tháng Tám, trở thành cây bút tiêu biểu của văn học mới. Nguyễn Tuân mất vào ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội, được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I) năm 1996.


4. Ngô Tất Tố
Ngô Tất Tố
Ngô Tất Tố là cha của bốn con trai và ba con gái, trong đó có những cái tên nổi tiếng như tiến sĩ Cao Đắc Điểm - nhà nghiên cứu về Ngô Tất Tố. Bạn đọc có thể khám phá sâu hơn về cuộc đời và sự nghiệp của nhà văn này qua những tác phẩm và nghiên cứu của Cao Đắc Điểm.


5. Vũ Trọng Phụng
Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam vào đầu thế kỷ 20. Mặc dù cầm bút ngắn ngủi, ông để lại một kho tác phẩm ấn tượng với hơn 30 truyện ngắn, 9 tiểu thuyết, 9 phóng sự, 7 vở kịch và nhiều bài viết phê bình về chính trị, xã hội, văn hóa. Tác phẩm của ông như Số đỏ và Giông Tố đã trở thành sách giáo khoa môn Ngữ văn ở Việt Nam. Với giọng văn trào phúng châm biếm, ông được so sánh như Balzac của Việt Nam. Tuy nhiên, ông cũng đối mặt với sự kiện bị chính quyền Pháp tại Hà Nội đưa ra tòa vì 'tội tổn thương phong hóa'. Tác phẩm của ông bị cấm xuất bản từ 1954 và đến năm 1975 mới được phép xuất bản lại.
Là một nhà báo, Vũ Trọng Phụng đã viết nhiều phóng sự nổi tiếng như Cạm bẫy người và Kỹ nghệ lấy Tây. Ông còn gây tranh cãi với cuộc tranh luận về yếu tố tình dục trong tác phẩm. Ông qua đời năm 1939, để lại di sản văn hóa và một gia đình đầy đau thương.


6. Thanh Tịnh
Thanh Tịnh (1911 - 1988), tên khai sinh là Trần Văn Ninh (6 tuổi được đổi là Trần Thanh Tịnh), là một nhà thơ Việt Nam thời tiền chiến. Ông sáng tác nhiều tên tuổi khác nhau như Thinh Không, Pathé (trước 1945), Thanh Thanh, Trinh Thuần (sau 1945). Sinh tại xóm Gia Lạc, ngoại ô Huế, ông học chữ Hán và chữ Quốc ngữ từ nhỏ. Năm 1933, ông đỗ bằng Thành chung và bắt đầu sự nghiệp viết văn. Tác phẩm đầu tay là truyện 'Cha làm trâu, con làm ngựa' (1934).
Năm 1936, Thanh Tịnh xuất bản tập thơ Hận chiến trường. Sau Cách mạng tháng Tám (1945), ông làm Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Trung Bộ. Năm 1957, ông tham gia thành lập Hội Nhà văn Việt Nam và trở thành Ủy viên Ban chấp hành Hội. Ngoài sự nghiệp sáng tác, ông có đóng góp trong lĩnh vực văn hóa và quân sự. Thanh Tịnh qua đời ngày 17 tháng 7 năm 1988 tại Hà Nội.


7. Nguyên Hồng
Nguyên Hồng (1918 - 1982, tên khai sinh Nguyễn Nguyên Hồng) là một nhà văn, nhà thơ Việt Nam. Nổi tiếng với tác phẩm 'Bỉ vỏ', ông bắt đầu sự nghiệp văn chương từ năm 1936. Sống trong hoàn cảnh gia đình khó khăn, Nguyên Hồng trải qua những thăng trầm đau thương, góp phần tạo nên những tác phẩm cảm động về đời sống và tâm hồn con người. Tham gia Mặt trận Dân chủ và Hội Văn hóa Cứu quốc, ông là Đảng viên và hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam. Cuối đời, Nguyên Hồng để lại tác phẩm chưa hoàn thành 'Núi rừng Yên Thế'. Ông qua đời ngày 2 tháng 5 năm 1982 tại Tân Yên (Bắc Giang). Năm 1996, Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996).


8. Nguyên Ngọc
Nguyên Ngọc (sinh năm 1932) là bút danh của một nhà văn, nhà báo, biên tập, dịch giả, nhà nghiên cứu văn hóa, giáo dục nổi tiếng của Việt Nam. Nổi tiếng với tác phẩm 'Đất nước đứng lên', ông có sự nghiệp đa dạng từ nhà văn quân đội đến nhà hoạt động xã hội. Gắn bó với chiến trường Tây Nguyên, Nguyên Ngọc được biết đến với bí danh Nguyễn Trung Thành trong giai đoạn hoạt động ở khu V. Sáng tác nhiều tác phẩm xuất sắc như 'Rừng xà nu' và tiểu thuyết về cuộc kháng chiến chống Pháp. Ông cũng là người đóng góp quan trọng trong việc đổi mới và phát triển báo Văn nghệ, giúp nảy sinh nhiều tên tuổi văn hóa sau này. Sau thời kỳ Đổi mới, ông nghỉ hưu và rút khỏi hoạt động biên tập.
Nguyên Ngọc còn được biết đến với tình cảm trân trọng và động viên các tác giả nổi tiếng như Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Phạm Thị Hoài. Tuy nhiên, sau đó, ông phải đối mặt với phê phán chính thức từ một số lãnh đạo Đảng Cộng sản vì được cho là 'chệch hướng'. Dù vậy, đó không làm mất đi đóng góp và tầm quan trọng của Nguyên Ngọc trong văn hóa Việt Nam.


9. Nguyễn Minh Châu
Nguyễn Minh Châu (20 tháng 10 năm 1930 - 23 tháng 1 năm 1989) là một nhà văn có tầm ảnh hưởng quan trọng đối với văn học Việt Nam trong giai đoạn chiến tranh và thời kỳ đầu của đổi mới. Ông là một cây bút văn xuôi tiêu biểu của nền văn hóa Việt Nam 1954 - 1975. Nguyễn Minh Châu sinh năm 1930, quê ở làng Văn Thai, tên nôm là làng Thơi, xã Sơn Hải, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Tên khai sinh của ông là Nguyễn Thí, nhưng chỉ tới khi đi học, ông được đổi tên thành Minh Châu. Trong những ghi chép cuối cùng, Ngồi buồn viết mà chơi ông viết trong những ngày nằm viện ở Bệnh viện Quân y 108, Nguyễn Minh Châu tự nhận xét về bản thân mình: 'Từ nhỏ tôi đã là một thằng bé rụt rè và vô cùng nhút nhát. Tôi sợ từ con chuột nhắt cho đến ma quỷ. Lớn lên, đến gần sáu chục tuổi, đến nơi đông người, tôi chỉ muốn lẻn vào một xó khuất và chỉ có như thế mới cảm thấy được yên ổn và bình tâm như con dế đã chui tọt vào lỗ'. Năm 1945, ông tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Huế với bằng Thành chung. Tháng 1 năm 1950, ông học chuyên khoa trường Huỳnh Thúc Kháng tại Nghệ Tĩnh và sau đó gia nhập quân đội, học ở trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956, ông công tác tại Ban tham mưu các tiểu đoàn 722, 706 thuộc sư đoàn 320.
Từ năm 1956 đến 1958, Nguyễn Minh Châu là trợ lý văn hóa trung đoàn 64 thuộc sư đoàn 320. Năm 1961, ông theo học trường Văn hóa Lạng Sơn. Năm 1962, Nguyễn Minh Châu về công tác tại phòng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông được kết nạp vào Hội nhà văn Việt Nam năm 1972. Nguyễn Minh Châu qua đời ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội, thọ 59 tuổi.Năm 2000, nhà văn được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật. Năm 1960, Nguyễn Minh Châu viết truyện ngắn đầu tay Sau một buổi tập. Trong sự nghiệp sáng tác kéo dài ba thập kỷ (1960-1989), khép lại với chuyện vừa Phiên chợ Giát viết năm 1989, ông để lại 13 tập văn xuôi và một tiểu luận phê bình. Các tác phẩm chính của ông là Cửa sông (tiểu thuyết, 1966), Những vùng trời khác nhau (truyện ngắn, 1970), Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972), Miền cháy (tiểu thuyết, 1977), Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977) Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1983), Bến quê (truyện ngắn, 1985), Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987), Cỏ lau (truyện vừa, 1989)...


10. Kim Lân
Nguyễn Văn Tài (sinh 1 tháng 8 năm 1920 - mất 20 tháng 7 năm 2007), thường được biết đến với bút danh Kim Lân, là một nhà văn Việt Nam. Ông nổi tiếng với các tác phẩm như Vợ nhặt, Làng. Ngoài ra ông còn ghi dấu ấn qua vai diễn Lão Hạc trong phim Làng Vũ Đại ngày ấy. Ông quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn (nay thuộc phường Đông Ngàn, thành phố Từ Sơn), tỉnh Bắc Ninh. Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, ông chỉ được học hết bậc tiểu học rồi phải đi làm. Kim Lân bắt đầu viết truyện ngắn từ năm 1941. Tác phẩm của ông được đăng trên các báo Tiểu thuyết thứ bảy và Trung Bắc chủ nhật. Một số truyện (Vợ nhặt, Đứa con người vợ lẽ, Đứa con người cô đầu, Cô Vịa...) mang tính chất tự truyện nhưng đã thể hiện được không khí tiêu điều, ảm đạm của nông thôn Việt Nam và cuộc sống lam lũ, vất vả của người nông dân thời kỳ đó. Bút danh Kim Lân của ông được lấy từ tên của nhân vật Đổng Kim Lân trong Tuồng Sơn Hậu, một vai ông đã từng diễn.
Ông được dư luận chú ý nhiều hơn khi đi vào những đề tài độc đáo như tái hiện sinh hoạt văn hóa phong phú ở thôn quê (đánh vật, chọi gà, thả chim...). Các truyện: Đôi chim thành, Con mã mái, Chó săn... kể lại một cách sinh động những thú chơi kể trên, qua đó biểu hiện một phần vẻ đẹp tâm hồn của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám - những người sống cực nhọc, khổ nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, tài hoa. Sau Cách mạng tháng Tám, Kim Lân tiếp tục làm báo, viết văn. Ông vẫn chuyên về truyện ngắn và vẫn viết về làng quê Việt Nam - mảng hiện thực mà từ lâu ông đã hiểu biết sâu sắc. Những tác phẩm chính: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962). Sinh thời ông sống tại Hà Nội. Nǎm 2001, Kim Lân được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Ông từ trần năm 2007 tại Bệnh viện Hữu Nghị Hà Nội, sau một thời gian dài chống chọi với căn bệnh hen suyễn, hưởng thọ 87 tuổi. Trong cả hai giai đoạn sáng tác, tuy viết không nhiều nhưng giai đoạn nào Kim Lân cũng có những tác phẩm hay. Là một cây bút truyện ngắn vững vàng, ông đã viết về cuộc sống và con người ở nông thôn bằng tình cảm, tâm hồn của một người vốn sinh trưởng từ đồng ruộng.


11. Tô Hoài
Tô Hoài tên khai sinh là Nguyễn Sen (27 tháng 9 năm 1920 - 6 tháng 7 năm 2014) là một nhà văn Việt Nam. Một số tác phẩm đề tài thiếu nhi của ông được dịch ra ngoại ngữ. Ông được nhà nước Việt Nam trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học - Nghệ thuật Đợt 1 (1996) cho các tác phẩm: Xóm giếng, Nhà nghèo, O chuột, Dế mèn phiêu lưu ký, Núi Cứu quốc, Truyện Tây Bắc, Mười năm, Xuống làng, Vỡ tỉnh, Tào lường, Họ Giàng ở Phìn Sa, Miền Tây, Vợ chồng A Phủ, Tuổi trẻ Hoàng Văn Thụ. Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thôn Cát Động, Thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ trong một gia đình thợ thủ công. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam). Bút danh Tô Hoài gắn với hai địa danh: sông Tô Lịch và phủ Hoài Đức.
Bước vào tuổi thanh niên, ông đã phải làm nhiều công việc để kiếm sống như dạy trẻ, bán hàng, kế toán hiệu buôn... nhưng có những lúc thất nghiệp. Khi đến với văn chương, ông nhanh chóng được người đọc chú ý, nhất là qua truyện Dế Mèn phiêu lưu ký. Năm 1943, Tô Hoài gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc. Trong chiến tranh Đông Dương, ông chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực báo chí, nhưng vẫn có một số thành tựu quan trọng như Truyện Tây Bắc. Từ năm 1954 trở đi, ông có điều kiện tập trung vào sáng tác. Tính đến nay, sau hơn sáu mươi năm lao động nghệ thuật, ông đã có hơn 100 tác phẩm thuộc nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn, truyện dài kỳ, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận và kinh nghiệm sáng tác. Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 2014 tại Hà Nội, hưởng thọ 94 tuổi. Ông viết văn từ trước năm 1945, với các thể loại truyện phong phú, đa dạng. Các tác phẩm chính của ông là: Dế Mèn phiêu lưu ký (truyện dài, 1941). Giăng thề (tập truyện ngắn, 1941). O chuột (tập truyện ngắn, 1942). Quê người (tiểu thuyết, 1942). Nhà nghèo (tập truyện ngắn, 1944). Cỏ dại (hồi kí, 1944)...

