1. Bài văn mẫu cảm nhận về bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương - mẫu số 4
Mùa xuân năm 1975 là mùa xuân không thể quên đối với đất nước chúng ta. Sau hơn 80 năm chống Pháp và 20 năm chống Mỹ, quân và dân ta đã giành được độc lập và thống nhất hai miền Nam Bắc. Trong khoảnh khắc lịch sử ấy, mọi người nhớ về người Cha già của dân tộc, vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh. Ai cũng khao khát được viếng thăm Bác và kể cho Bác nghe về những chiến thắng của chúng ta.
Viễn Phương, một trong những nhà thơ đầu tiên của phong trào văn nghệ giải phóng miền Nam, đã có cơ hội ra Hà Nội viếng lăng Hồ Chí Minh vào năm 1976. Bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời từ những cảm xúc chân thành của ông lúc đó và phản ánh cảm xúc của nhân dân miền Nam. Khổ thơ đầu tiên thể hiện sự xúc động của nhà thơ khi đặt chân đến thủ đô Hà Nội và đến nơi Bác Hồ yên nghỉ:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Lời thơ giản dị, nhà thơ nói với Bác rằng “ở miền Nam ra thăm lăng Bác”. Câu thơ thể hiện niềm tự hào và xúc động dâng trào trong lòng thi sĩ, rằng nhân dân miền Nam đã đứng dậy và chiến thắng mọi kẻ thù. Giờ đây, những người con miền Nam trở về thăm Bác.
Cặp đại từ “con - Bác” vừa thể hiện sự kính trọng vừa gần gũi. Hồ Chí Minh chính là người Cha của dân tộc Việt Nam. Biện pháp nói giảm nói tránh “thăm” làm giảm đi nỗi buồn, như đây là một cuộc đoàn tụ đầy yêu thương. Trong khung cảnh sương mờ của sáng thu, nhà thơ phải thốt lên khi thấy hàng tre xanh ngát: “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”.
Bức tranh miền quê Việt Nam yên bình được vẽ nên thật tuyệt đẹp. Cây tre là biểu tượng của tinh thần và cốt cách người Việt Nam, luôn kiên cường và ngay thẳng. Hình ảnh nhân hóa “đứng thẳng hàng” càng khẳng định điều đó. Chuyến viếng lăng Bác như là một hành trình trở về cội nguồn dân tộc, nơi có truyền thống tốt đẹp và biểu tượng dân tộc luôn hiện hữu.
Trước lăng Bác không phải là những hình ảnh tráng lệ mà là hàng tre giản dị, như những vệ binh canh gác cho giấc ngủ của Bác và chào đón đoàn người vào lăng bằng tất cả lòng thành kính:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Viễn Phương so sánh hình ảnh thực tế “mặt trời đi qua trên lăng” với hình ảnh ẩn dụ “mặt trời trong lăng”. Mặt trời là nguồn sáng duy nhất và duy nhất trên Trái Đất, vậy mà ở đây có hai mặt trời? Mặt trời còn lại chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Người là mặt trời chân lý, ánh sáng cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Người đã dẫn dắt cách mạng từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cuối cùng là thống nhất đất nước.
Câu thơ mang sắc đỏ tươi đầy sức sống, thể hiện lòng thành kính với Bác. Hai câu thơ tiếp theo chuyển sang trạng thái trầm mặc, phản ánh không khí của đoàn người vào lăng, mang theo lòng kính yêu và nỗi tiếc thương khi Bác qua đời.
Điệp từ “ngày ngày” khẳng định tình cảm của nhân dân dành cho Bác là vô hạn và luôn tồn tại, như mặt trời vẫn mọc và lặn hàng ngày. Tràng hoa dâng Bác không chỉ là hoa bình thường, mà là tràng hoa của dòng người dâng lên Bác, là những bông hoa đẹp nhất dưới ánh sáng của Bác. Bác chính là mùa xuân của đất nước, con người “bảy mươi chín mùa xuân”. Dòng người vào lăng với tất cả lòng thành kính:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.
Dẫu biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên, hình ảnh vầng trăng sáng dịu hiền tạo khung cảnh thơ mộng và hiện thực. Bác tỏa ra sự ấm áp và giản dị trong cốt cách, nhưng đứng trước Bác, nhà thơ không thể kìm nén sự xúc động: “nghe nhói ở trong tim”. Ngày Bác ra đi là nỗi mất mát lớn nhất, mặc dù đó là quy luật tự nhiên, Bác vẫn sống mãi trong lòng người dân Việt.
Khi trở về miền Nam, cảm xúc của nhà thơ trào dâng, thể hiện tình yêu và lòng thương nhớ Bác: “thương trào nước mắt”. Nhà thơ khao khát được ở gần Bác, hóa thân thành cảnh vật quanh lăng. Điệp từ “muốn” thể hiện mong muốn mãnh liệt của Viễn Phương.
Ông ước được làm “con chim hót quanh lăng”, “đóa hoa tỏa hương”, “cây tre trung hiếu”. Nhưng ước muốn lớn nhất là tiếp tục con đường cách mạng của Bác, làm “cây tre trung hiếu”, biểu tượng của nhân cách và tâm hồn người Việt, trung thành với Đảng và dân tộc. Bài thơ mang âm hưởng buồn thương nhưng kết thúc bằng một lời hứa cống hiến vì đất nước.
Với phong cách thơ chân thành và cảm xúc, Viễn Phương đã mang đến một chuyến viếng thăm chân thật nhất. Thơ bảy chữ pha lẫn lãng mạn và hiện thực, cùng với các biện pháp ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa làm tăng giá trị nội dung bài thơ.
Như Viễn Phương đã chia sẻ, bài thơ giản dị: 'Bởi tôi nghĩ, Bác của chúng ta vốn rất giản dị'. Giản dị trong câu thơ, lời thơ, và cả những suy nghĩ, ước mong. Giản dị nhưng sâu sắc, vì “Viếng lăng Bác” là kết tinh cảm xúc chân thành của nhà thơ và của nhân dân. Bài thơ là lời tưởng niệm chân thành đến vị cha già dân tộc.
Khi khép lại trang thơ, ta thấy từng đoàn người kính cẩn viếng Bác, mang theo lòng kính yêu vô hạn. Cảm xúc của Viễn Phương cũng là cảm xúc của người dân miền Nam và cả dân tộc Việt. Hy vọng rằng, sau khi học bài thơ, các em sẽ chia sẻ cảm nhận chân thành nhất về “Viếng lăng Bác”.
2. Mẫu bài văn cảm nhận về bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương - mẫu 5
Trong giai đoạn đất nước đang kháng chiến chống Mỹ và sắp giành được độc lập hoàn toàn, nhà thơ Viễn Phương có dịp ra Bắc thăm lăng Bác. Trước khi ra về, ông đã viết một bài thơ thể hiện những cảm xúc sâu lắng, tình yêu vô bờ và lòng tôn kính đối với Bác Hồ - vị lãnh tụ đã dẫn dắt cách mạng Việt Nam từ thành công này đến thành công khác:
Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy hàng tre bát ngát trong sương
Ôi! Hàng tre xanh mướt Việt Nam
Chịu bão táp mưa sa vẫn đứng vững
Đoạn thơ mở đầu gợi lên bầu không khí trang trọng và thành kính. Nhà thơ tự xưng là “con” - hình ảnh đứa con trở về thăm cha sau bao năm xa cách. Cách xưng hô này thể hiện sự gần gũi và ấm áp, như trong một gia đình. Hình ảnh hàng tre bát ngát trong sương cũng làm nổi bật phẩm chất bền bỉ và cốt cách của người Việt Nam. Tre luôn là biểu tượng của sự kiên cường và chính trực.
Nhà thơ tiếp tục suy ngẫm khi đứng trước lăng Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rực đỏ
Ngày ngày dòng người trong nỗi thương nhớ,
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân...
Mặt trời đi qua lăng là hình ảnh của thiên nhiên, ánh sáng vũ trụ. Nhưng “mặt trời trong lăng” là hình ảnh của Bác Hồ, với trái tim cháy bỏng và tỏa sáng. Hình ảnh này thể hiện niềm cảm phục của nhà thơ đối với sự nghiệp và nhân cách của Bác. Dòng người kết thành tràng hoa dâng lên Bác, thể hiện lòng kính trọng và tình cảm của toàn dân đối với Bác.
Tiếp theo, tác giả vào trong lăng và suy ngẫm:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Dẫu biết trời xanh mãi mãi trường tồn
Mà sao vẫn thấy nhói ở trong tim
Đối với người Việt Nam, Bác Hồ vẫn sống mãi trong lòng người dân. Bác nằm trong lăng như đang nghỉ ngơi, yên bình. Vầng trăng sáng dịu là hình ảnh tượng trưng cho lòng kính yêu của nhân dân đối với Bác. Dù biết Bác không bao giờ mất, nỗi đau khi chia xa vẫn là sự thật, và đó là nỗi đau chung của mọi người. Tác giả bày tỏ sự xúc động sâu sắc khi chia tay Bác.
Mai về miền Nam, nỗi thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng...
Viễn Phương thể hiện lòng thành thực và tình cảm sâu lắng đối với Bác. Những ước nguyện như trở thành con chim, đoá hoa hay cây tre đều bộc lộ sự chân thành và cảm động. Đây là tình cảm sâu sắc và vấn vương của những người đã viếng thăm Bác.
Bài thơ kết thúc với hình ảnh cây tre - biểu tượng của phẩm chất người Việt Nam. Bài thơ không chỉ thể hiện sự tôn kính của tác giả mà còn của toàn dân miền Nam đối với vị lãnh tụ vĩ đại. “Viếng lăng Bác” đã trở thành một bài thơ được yêu thích và phổ nhạc, thể hiện tình cảm sâu sắc của nhân dân Việt Nam.
3. Mẫu bài văn cảm nhận về bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương - mẫu 6
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vĩ đại, người cha kính yêu muôn vàn của dân tộc Việt Nam. Sự ra đi của Người để lại nỗi tiếc thương khôn nguôi cho toàn thể nhân dân. Bảy năm sau, vào tháng 9 năm 1969, nhà thơ Viễn Phương vẫn đầy cảm xúc và nhớ thương Người, và từ đó sáng tác bài thơ “Viếng lăng Bác”. Bài thơ là sự thể hiện sâu sắc lòng kính trọng, nỗi xót xa và lòng biết ơn của tác giả cũng như của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
“Viếng lăng Bác” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ của Viễn Phương. Được in trong tập thơ “Như mây mùa xuân” xuất bản năm 1976, bài thơ gây ấn tượng bởi sự chân thành và lòng thành kính, biết ơn của tác giả, của đồng bào miền Nam và của nhân dân cả nước dành cho Bác. Mở đầu bài thơ, người đọc cảm nhận được niềm xúc động và tự hào của nhà thơ khi được đến thăm lăng Bác sau bảy năm từ khi Người ra đi:
Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh tươi Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Câu thơ đầu tiên như một lời chào, một lời giới thiệu đầy cảm xúc về hành trình của những đứa con từ miền Nam đến thăm Bác ở thủ đô. Viễn Phương sử dụng cách xưng hô “con -Bác” để tạo cảm giác gần gũi, thân thiết, giống như một mối quan hệ cha con ruột thịt. Nhà thơ giống như một đứa con xa nhà lâu ngày mới trở về thăm cha kính yêu. Đồng thời, động từ “thăm” được dùng như một cách nói giảm nhẹ nỗi đau mất mát của cả dân tộc.
Hình ảnh “hàng tre bát ngát” hiện lên trong sương sớm là hình ảnh thực tế mang dáng dấp của quê hương thân yêu, giản dị. Nó cũng là biểu tượng cho tinh thần kiên cường của người Việt Nam, vượt qua muôn vàn khó khăn để thống nhất đất nước theo di ngôn của Bác, rồi trở về với lòng kính trọng trước anh linh của Người. Những hình ảnh này kết hợp tạo nên một trường liên tưởng độc đáo, làm cho lăng Bác hiện lên như một làng quê yên bình. Tác giả bước theo dòng người vào lăng, với tâm trạng dâng trào niềm thành kính và ngưỡng mộ sâu sắc:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một Mặt Trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Nhà thơ tiếp tục sáng tạo những hình ảnh độc đáo. Hình ảnh “Mặt trời đi qua trên lăng” miêu tả ánh sáng của thiên nhiên, vũ trụ, chiếu sáng mọi vật. Trong lăng Bác – nơi Bác yên nghỉ lại có một “mặt trời” khác “rất đỏ”. “Mặt trời trong lăng” là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ kính yêu, thể hiện lòng biết ơn của tác giả đối với vị lãnh tụ như vầng thái dương chiếu sáng, che chở cho dân tộc.
Từ “ngày ngày” khẳng định quy luật bất biến của thời gian, miêu tả dòng người lặng lẽ, trang nghiêm mỗi ngày vào lăng Bác để bày tỏ lòng thành kính với người cha kính yêu. Họ đại diện cho người Việt Nam từ ba miền Bắc Trung Nam và 54 dân tộc anh em trên khắp Tổ Quốc. Họ kết thành hình ảnh “tràng hoa” biểu tượng cho những gì tinh túy nhất của đất nước và con người Việt Nam dâng lên Bác.
Nhà thơ cũng sử dụng hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để diễn tả bảy mươi chín năm cuộc đời của Bác, là bảy mươi chín mùa xuân tươi đẹp, tràn đầy ý nghĩa. 79 mùa xuân ấy đã hy sinh để mang đến cho dân tộc một mùa xuân độc lập, tự do và hạnh phúc vĩnh cửu. Đứng trước di hài của Bác, trái tim nhà thơ trào dâng cảm xúc nghẹn ngào không thể kìm nén, lay động trái tim hàng triệu người:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Viễn Phương tiếp tục dùng phép nói giảm nhẹ “giấc ngủ bình yên” để giảm bớt nỗi đau mất mát về sự ra đi của Bác. Nhà thơ miêu tả chân thực khung cảnh xúc động: Bác nằm trong lăng, gương mặt trở nên hồng hào, dịu hiền như vầng trăng dưới ánh đèn mờ ảo. “Trời xanh” và “ánh trăng” là hình ảnh thể hiện sự vĩnh cửu của thiên nhiên đồng thời cũng là hình ảnh ẩn dụ cho tình cảm của nhân dân với Bác. Cặp quan hệ từ “vẫn biết – mà sao” diễn tả cảm xúc nghẹn ngào. Dù biết rằng Người sẽ sống mãi trong lòng dân tộc, sự thật là Bác đã ra đi mãi mãi vẫn khiến nhà thơ “nghe nhói trong tim”.
Phép ẩn dụ “nghe nhói” nhấn mạnh nỗi đau xót tột cùng của nhà thơ khi đối diện với sự thật. Suy nghĩ về việc phải trở về miền Nam, xa Bác, nỗi xúc động của tác giả bộc lộ thành tiếng nấc vỡ òa:
Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…
Những giọt nước mắt tiếc thương không thể kìm nén. Lời thơ đầy nức nở, nghẹn ngào. Niềm khát khao chân thành muốn ở gần Bác được bộc lộ qua loạt động từ “muốn làm”. Viễn Phương muốn làm con chim để cất tiếng hót quanh lăng Bác, làm cây tre trung thành như lính canh giấc ngủ của Người. Những hình ảnh ẩn dụ này chỉ những gì tinh túy của thiên nhiên, thể hiện ước nguyện của nhà thơ và toàn dân: Muốn ở bên, canh giữ giấc ngủ của Người. Đặc biệt, hình ảnh “cây tre trung hiếu” tạo kết cấu đầu cuối tương ứng, khẳng định lòng trung thành vô hạn của đồng bào miền Nam và toàn dân đối với Đảng và Bác Hồ.
Trải qua thời gian, bài thơ vẫn chạm đến trái tim người đọc nhờ nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Bài thơ viết theo thể tám chữ sáng tạo, kết hợp khéo léo giữa tự sự và trữ tình. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, đậm chất Nam Bộ và sử dụng hình ảnh thơ chân thực gợi nhiều liên tưởng. Sử dụng thành công các biện pháp nói giảm, nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ... Bài thơ thể hiện nỗi đau xót, lòng nhớ thương và tình cảm chân thành với Bác Hồ. Đây là nén tâm hương kính dâng lên Người.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương đã đóng góp lớn cho thi ca về Bác. Dù bao năm qua đi, bài thơ mãi là tác phẩm đầy xúc cảm, gửi gắm những giá trị tốt đẹp vĩnh cửu của nhà thơ và toàn dân dành cho Bác.
4. Bài văn phân tích bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương - mẫu 7
Viễn Phương là một trong những cây bút nổi bật của nền văn nghệ giải phóng miền Nam trong giai đoạn chống Mỹ cứu nước. Sau khi miền Nam được giải phóng vào năm 1976 và đất nước thống nhất, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành tại Hà Nội. Nhân dịp này, Viễn Phương đã ra thăm miền Bắc và vào lăng viếng Bác Hồ. Ông đã viết bài thơ “Viếng lăng Bác” để thể hiện lòng thành kính và biết ơn đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
Ở khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh thiên nhiên xung quanh lăng Bác:
“Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác
Trong sương mờ, thấy hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh tươi của Việt Nam
Trải qua bão táp vẫn đứng vững vàng.”
Câu thơ mở đầu mang một sự giới thiệu đầy cảm xúc: “Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác”. Cách xưng hô “con” - gọi “Bác” tạo nên sự thân mật, ấm áp và đậm chất Nam Bộ. “Con” từ miền Nam xa xôi đến đây với mong ước được gặp Bác Hồ - người cha vĩ đại. Tác giả dùng từ “thăm” thay vì “viếng” để giảm bớt nỗi đau và mất mát, dù sự ly biệt vẫn không thể tránh khỏi. Hình ảnh đầu tiên mà “con” nhìn thấy là “hàng tre bát ngát”. Tre là hình ảnh quen thuộc, biểu trưng cho phẩm chất và đức tính của người Việt. Kết hợp với hình ảnh “bão táp mưa sa” - ẩn dụ cho những khó khăn trong cuộc sống, tác giả khẳng định phẩm chất kiên cường của người Việt Nam, dù gặp giông bão vẫn “đứng vững vàng”. Tiếp theo, nhà thơ đã khắc họa hình ảnh đoàn người vào lăng viếng Bác:
“Ngày ngày mặt trời di chuyển trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng sáng đỏ
Dòng người ngày ngày trong nỗi thương nhớ
Dâng tràng hoa chúc mừng bảy mươi chín mùa xuân…”
Hai câu thơ đầu tiên tạo nên hình ảnh hai mặt trời. “Ngày ngày mặt trời di chuyển trên lăng” - là mặt trời của thiên nhiên, theo quy luật của thời gian. “Thấy một mặt trời trong lăng sáng đỏ” - hình ảnh ẩn dụ ví Bác như “mặt trời” soi sáng đời sống của người dân. Bác đã mang lại tự do cho nhân dân, và lòng biết ơn vô hạn của dân tộc không thể diễn tả hết. Hai câu thơ tiếp theo gợi hình ảnh dòng người nối dài, tương tự như nỗi nhớ dành cho Bác. “Ngày ngày” được lặp lại tạo nên cảm giác về một sự tồn tại vĩnh cửu. “Tràng hoa” là hình ảnh ẩn dụ cho những người từ khắp nơi tụ về viếng Bác. Dòng người vẫn tiếp tục vào lăng, mặc dù Bác đã ra đi, nhưng nỗi tiếc thương và nhớ nhung vẫn còn mãi. Không gian và thời gian dường như đứng lại trước hình ảnh của Bác:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu dàng
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao cảm thấy nhói ở trong tim!”
Cuộc đời của Bác Hồ chưa bao giờ yên ổn khi đất nước còn bị xâm lược. Ngày nay, khi đất nước đã thống nhất, Bác lại ra đi mãi mãi, để lại nỗi tiếc thương vô hạn. Nhà thơ dường như muốn giảm bớt sự ra đi ấy: “Bác nằm trong giấc ngủ bình yên”. Dù thế, hình ảnh Bác như “vầng trăng sáng dịu dàng” biểu trưng cho vẻ thanh thản, bình yên của Bác lúc này. Dù Bác không còn hiện diện, Người vẫn sống mãi trong lòng dân tộc. Tuy vậy, cảm giác xót xa và tiếc nuối vẫn trào dâng trong trái tim.
Trước khi trở về, Viễn Phương đã bày tỏ niềm mong mỏi:
“Ngày mai về miền Nam, lòng đầy nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa tỏa hương ở đây
Muốn làm cây tre trung hiếu ở chốn này.”
Đó là lời hứa của nhà thơ trước khi trở về miền Nam. Dù muốn trở thành gì, nhà thơ đều mong được ở bên Bác, tận trung và tận hiếu với Người.
Quả thật, khi đọc bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương, người đọc mới cảm nhận sâu sắc tình cảm mà nhân dân Việt Nam dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhà thơ chỉ là người thay mặt diễn tả lòng yêu mến đó.
5. Bài văn phân tích bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương - mẫu 8
Viễn Phương là một thi sĩ với phong cách thơ mộc mạc và tinh tế, mang đến cho người đọc những cảm xúc sâu lắng và bâng khuâng. Bài thơ 'Viếng lăng Bác' của ông thể hiện tình cảm chân thành và cảm xúc chân thật của một người con miền Nam khi được thăm lăng Bác. Những vần thơ giản dị mà đầy cảm xúc đã bày tỏ lòng thành kính và sự xúc động khi đứng trước lăng của vị lãnh tụ vĩ đại.
“Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác
Nhìn thấy trong sương mờ hàng tre xanh bát ngát”
Lời xưng hô “con” thể hiện sự gần gũi, thân thiết như tình cảm của một đứa con đối với cha. Sau bao ngày mong mỏi, giờ đây người con ấy đã có dịp được thăm lăng Bác, niềm xúc động và nghẹn ngào trào dâng khi gặp Bác, mang theo trái tim của hàng triệu người miền Nam. Trước lăng là hàng tre xanh trong sương sớm, vẫn hiên ngang, như đang chở che và bảo vệ Bác.
“Ôi hàng tre xanh tươi của Việt Nam
Dẫu bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng”
Trước lăng Bác, tác giả nghĩ về tinh thần kiên cường của người Việt Nam. Cây tre là biểu tượng cho sức sống bền bỉ và sự trường tồn của dân tộc, dù phải đối mặt với khó khăn, vẫn đứng vững. Hàng tre xanh là hình ảnh của sự kiên trì và bền bỉ của người Việt, làm tăng thêm nỗi thương nhớ khi vào lăng viếng Bác.
“Ngày ngày mặt trời di chuyển qua lăng
Thấy một mặt trời trong lăng tỏa sáng đỏ”
Ánh mặt trời thiên nhiên vẫn mãi chiếu sáng bên lăng Bác, mang nguồn sống và ánh sáng cho nhân loại. Bác cũng như mặt trời ấy, là nguồn sáng dẫn đường và ấm áp trong trái tim mọi người. Hình ảnh này thể hiện sự tôn kính sâu sắc của tác giả đối với Bác Hồ, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
“Ngày ngày dòng người đến với lòng thương nhớ
Với những tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Bác vẫn ở đó, và người dân từ khắp nơi đến dâng hoa và bày tỏ lòng thương nhớ. Những tràng hoa đẹp nhất được dâng lên Bác, như biểu tượng cho sự tri ân và công lao của Người đối với dân tộc. Những tràng hoa là kết quả của tình yêu thương và lòng kính trọng đối với Bác, dù nỗi xúc động vẫn mãi hiện hữu.
“Bác yên nghỉ trong giấc ngủ bình yên
…
Mà sao lòng vẫn nhói đau”
Bác đang yên nghỉ trong ánh trăng dịu dàng, ánh trăng như sự ấm áp và gần gũi của Bác. Dù biết rằng Bác vẫn sống mãi trong lòng người, nhưng sự ra đi của Bác vẫn khiến trái tim cảm thấy đau đớn. Đó là sự tiếc nuối và xót xa khi phải chia tay với vị lãnh tụ vĩ đại.
“Ngày mai về miền Nam, nước mắt dâng trào
Muốn thành con chim hót quanh lăng Bác
Muốn thành đoá hoa tỏa hương nơi đây
Muốn thành cây tre trung hiếu bên lăng”
Những ước nguyện giản dị nhưng chứa đựng tình cảm sâu nặng. Tác giả muốn trở thành con chim hót, đoá hoa hay cây tre bên lăng, để mãi gần gũi và phục vụ Bác. Đó là lòng khao khát sâu sắc của Viễn Phương và cũng là tiếng lòng của tất cả những người còn sống gửi đến Bác.
“Bác Hồ - niềm tin thiết tha nhất của dân tộc và nhân loại”, hình ảnh Bác luôn trường tồn và bền bỉ theo thời gian. Bài thơ “Viếng lăng Bác” là sự kết tinh của những cảm xúc chân thành, thể hiện sự tôn kính sâu sắc và tình cảm mộc mạc của tác giả đối với Bác Hồ.
6. Bài phân tích cảm nhận về bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương - mẫu 9
Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, người đã cống hiến cả cuộc đời vì sự nghiệp cách mạng và hạnh phúc của nhân dân. Sự ra đi của Người để lại nỗi đau khôn nguôi và tình yêu thương sâu sắc từ toàn thể dân tộc. Trong hàng triệu tác phẩm viết về Bác, bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương nổi bật với những dòng thơ đầy cảm xúc. Đọc bài thơ, ta như cảm nhận được sóng trào của tình cảm chân thành và sự kính trọng của miền Nam dành cho vị cha già kính yêu của dân tộc.
Sau khi đất nước được thống nhất, vào năm 1976, Viễn Phương có cơ hội quý báu để viếng lăng Bác, niềm vui và tự hào ngập tràn:
“Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác”
Lời xưng hô “con” thể hiện sự kính trọng và tình cảm thân thiết, như một người con gửi đến cha. Đây là sự gần gũi, tình cảm chân thành của nhân dân miền Nam dành cho Bác, như tình ruột thịt gắn bó. Trong buổi sáng ở thủ đô, mọi người đều mang trong lòng những cảm xúc lớn lao, mong muốn đứng lâu trước lăng Bác để cảm nhận trọn vẹn.
“Ôi! Hàng tre xanh của Việt Nam
Dù bão táp mưa sa vẫn đứng vững”
Những cây tre xanh, mạnh mẽ, vững chãi trước thử thách, như biểu tượng của sự kiên cường và trung thành của người Việt Nam. Dù phải đối mặt với khó khăn, họ vẫn đứng vững, tiếp tục bước tới vinh quang của tự do và độc lập. Những cây tre xanh như hiện thân của lòng tự hào về nhân dân Việt Nam, luôn bên Bác và bảo vệ Người, dù Bác đã ra đi, tỏa bóng mát trên nơi Người an nghỉ. Mọi thứ nơi đây đều cao đẹp và thiêng liêng:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rực đỏ”
“Ngày ngày dòng người đi trong lòng thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Hai hình ảnh mặt trời: mặt trời thiên nhiên và mặt trời trong lăng Bác, thể hiện sự bất tử và vinh quang của Bác. Mặt trời thiên nhiên mang ánh sáng và sự sống, còn mặt trời trong lăng là hình ảnh ẩn dụ cho ánh sáng cách mạng và lòng bác ái của Bác. Sự hiện diện của Bác luôn được tri ân qua những tràng hoa tươi đẹp dâng lên, tượng trưng cho lòng kính trọng và yêu thương của nhân dân. Bảy mươi chín mùa xuân là những năm tháng cống hiến của Bác cho đất nước.
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu dàng
Dù biết trời xanh luôn mãi mãi
Mà sao lòng vẫn đau nhói!”
Bác nằm yên nghỉ trong giấc ngủ ngàn thu, giữa ánh trăng thanh thoát. Vầng trăng như sự cao đẹp và ấm áp của Bác. Dù biết rằng Bác sẽ mãi tồn tại trong lòng mỗi người, nhưng sự ra đi vẫn khiến trái tim cảm thấy đau đớn. Lời thơ bày tỏ sự xúc động sâu sắc, khi phải chia xa Bác.
“Ngày mai về miền Nam, lòng dâng trào nước mắt
Muốn thành con chim hót quanh lăng Bác
Muốn thành đoá hoa tỏa hương nơi đây
Muốn thành cây tre trung thành bên lăng”
Cảm xúc mãnh liệt khi phải chia tay Bác khiến tác giả khao khát trở thành con chim, đoá hoa, hay cây tre bên lăng, để luôn gần gũi với Bác. Đó là lòng kính trọng và yêu mến không chỉ của Viễn Phương mà của toàn thể nhân dân miền Nam đối với Bác.
Bài thơ 'Viếng lăng Bác' không cầu kỳ mà chân thành, thể hiện lòng kính trọng và yêu thương đối với Bác. Dù chưa có cơ hội gặp Bác, nhưng qua những vần thơ, ta càng thêm tự hào và kính yêu Bác, mãi ghi nhớ công ơn lớn lao mà Bác đã dành cho dân tộc.
7. Bài phân tích cảm nhận về bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương - mẫu 10
Bác Hồ - một anh hùng vĩ đại và là niềm tự hào của dân tộc. Suốt cả cuộc đời, Người đã dâng hiến tất cả vì đất nước và nhân dân. Khi Bác ra đi, cả dân tộc trải qua nỗi mất mát vô hạn, và nỗi đau ấy vẫn ám ảnh trái tim hàng triệu người Việt. Trong hàng ngàn bài thơ và lời ca về sự ra đi của Bác, bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương nổi bật với sự thể hiện sâu sắc của lòng kính trọng, lòng biết ơn và nỗi tiếc thương.
Bài thơ mở đầu bằng lời của tác giả:
“Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác”
Lời xưng hô “con” thể hiện sự gần gũi và tình cảm thân thiết. Viễn Phương sử dụng từ “thăm” như một cách giảm bớt nỗi đau, nhưng sự buồn bã vẫn rõ ràng. Đây là dấu hiệu của sự yêu thương và kính trọng sâu sắc, cho thấy sự gần gũi như ruột thịt giữa Bác và nhân dân.
“Ôi hàng tre xanh Việt Nam
Dẫu bão táp mưa sa vẫn đứng vững”
Hình ảnh hàng tre xanh, biểu tượng của sự kiên cường và bền bỉ của người Việt Nam, dù phải đối mặt với thử thách, vẫn đứng vững. Những cây tre xanh quanh lăng Bác như những người con của dân tộc, bảo vệ và gìn giữ Người. Dù Bác còn sống hay đã ra đi, nhân dân Việt Nam luôn ở bên Người.
“Ngày ngày mặt trời đi qua lăng Bác
Nhìn thấy một mặt trời trong lăng rực đỏ”
“Ngày ngày dòng người đi trong lòng thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Hai hình ảnh mặt trời: một là mặt trời thực tế của thiên nhiên, và một là hình ảnh ẩn dụ cho Bác Hồ, cho thấy sự sáng ngời và vĩnh cửu của Người. Bác giống như mặt trời, mãi mãi sống trong trái tim dân tộc. Những dòng người đến viếng Bác được ví như những tràng hoa tươi đẹp, dâng lên lòng biết ơn và kính trọng. “Bảy mươi chín mùa xuân” là hình ảnh tượng trưng cho cuộc đời cống hiến của Bác.
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu dàng
Dù biết trời xanh luôn mãi mãi
Mà sao trái tim vẫn cảm thấy đau”
Vầng trăng sáng nhẹ nhàng như tâm hồn cao đẹp của Bác. Dù biết Bác luôn tồn tại trong trái tim mỗi người, nhưng sự ra đi vẫn gây nỗi đau sâu sắc. Câu thơ bày tỏ sự đau đớn và tiếc thương của tác giả và toàn dân.
“Mai về miền Nam, lòng dâng trào nước mắt”
Khi phải rời xa Bác, cảm giác tiếc nuối và buồn bã không thể diễn tả được. Tác giả bộc lộ sự khao khát mãnh liệt:
“Muốn là con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương nơi đây
Muốn thành cây tre trung thành bên lăng”
Điệp ngữ “muốn làm” thể hiện sự khao khát mãnh liệt của tác giả, mong muốn trở thành con chim, đoá hoa, hay cây tre gần gũi với Bác. Đó không chỉ là ước nguyện của Viễn Phương mà còn là của toàn dân miền Nam, của toàn thể dân tộc. Đọc bài thơ, ta càng trân trọng công lao và nhân cách của Bác, hiểu rằng thành công của một tác phẩm không chỉ từ sự lấp lánh của thực tại mà từ sự chân thành và tình cảm sâu sắc của người nghệ sĩ. 'Viếng lăng Bác' thực sự xứng đáng với thành công đó.
8. Bài văn cảm nhận về bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương - mẫu 11
Trong các tác phẩm thơ ca viết về Bác Hồ, 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương nổi bật với sự xúc động sâu sắc. Bài thơ là bức chân dung cảm động của lòng thương nhớ và sự kính yêu vô hạn mà nhà thơ dành cho Bác Hồ vĩ đại.
Câu thơ mở đầu 'Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác' như là một lời tâm sự của một đứa con từ xa trở về để thăm Bác Hồ kính yêu. Tình cảm này phản ánh lòng kính trọng chung của đồng bào miền Nam dành cho vị lãnh tụ của dân tộc.
Nhà thơ lặng lẽ quan sát từ xa lăng Bác, cảm xúc dâng trào khi nhìn thấy hàng tre xanh. Cây tre, với hình ảnh xanh tươi và đứng thẳng, gợi nhớ đến tâm hồn Bác và tinh thần kiên cường của nhân dân Việt Nam. Dù Bác đã ra đi, nhưng tâm hồn Người vẫn mãi gắn bó với quê hương:
“Ôi! Hàng tre xanh Việt Nam
Dẫu bão táp mưa sa vẫn đứng vững.”
Hình ảnh cây tre như là biểu tượng của phẩm chất cao quý và lòng tự hào dân tộc, thể hiện sự kiên cường và thanh cao của người Việt Nam qua bốn nghìn năm lịch sử.
Trong thơ ca hiện đại Việt Nam, hình ảnh mặt trời thường được nhắc đến như là biểu tượng của sự sáng chói và bất tử. Viễn Phương đã sáng tạo một cách diễn đạt mới mẻ:
“Ngày ngày mặt trời đi qua lăng Bác,
Nhìn thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.”
“Mặt trời rất đỏ” tượng trưng cho lòng yêu nước và đạo đức sáng ngời của Bác. Mặt trời thiên nhiên bất tử, cũng như sự nghiệp của Bác Hồ. Dòng người đến viếng Bác như những tràng hoa tươi đẹp dâng lên Người, phản ánh lòng kính trọng và biết ơn vô hạn. Mỗi người đến viếng Bác đều dâng lên Người những thành tựu và hoa trái của đất nước.
Khổ thơ cuối cùng chứa đựng cảm xúc dồn nén và sâu lắng. Lời hứa chân thành của nhà thơ trước khi trở lại miền Nam là vô cùng cảm động. Từ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” diễn tả nỗi lưu luyến và buồn thương khi phải rời xa Bác. Nhà thơ mong muốn trở thành 'con chim hót', 'đóa hoa tỏa hương', và 'cây tre trung hiếu' để mãi sống bên Người và đền đáp công ơn. Những câu thơ của Viễn Phương vừa dạt dào cảm xúc vừa sáng tạo, thể hiện sự biết ơn và tình cảm sâu sắc của nhân dân Việt Nam đối với Bác Hồ. Câu thơ cuối của Viễn Phương nâng cao tâm hồn chúng ta với niềm tin và lòng tự hào:
“Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi,
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.”
Chúng ta cảm thấy cần sống xứng đáng và đẹp để trở thành “cây tre trung hiếu” của đất nước:
“Mai về miền Nam, thương trào nước mắt,
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác,
Muốn làm đóa hoa tỏa hương nơi đây,
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
Hình ảnh “cây tre trung hiếu” là biểu tượng đầy sáng tạo của lòng trung thành và hiếu nghĩa của người Việt đối với sự nghiệp cách mạng của Bác. Dù Bác đã ra đi, hình ảnh và công đức của Bác vẫn sống mãi trong trái tim dân tộc. Bài thơ của Viễn Phương thể hiện chân thành tình cảm của hàng triệu người Việt Nam đối với lãnh tụ Hồ Chí Minh.
9. Bài văn cảm nhận về tác phẩm 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương - mẫu 12
Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại và người cha kính yêu của dân tộc Việt Nam, đã để lại một khoảng trống không gì lấp đầy được khi ra đi. Bảy năm sau ngày Bác mất, vào tháng 9 năm 1969, nhà thơ Viễn Phương viết bài thơ “Viếng lăng Bác” để thể hiện lòng kính trọng, sự xót thương và biết ơn sâu sắc của cá nhân cũng như của toàn thể nhân dân đối với vị lãnh tụ. Bài thơ được in trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1976, nổi bật với cảm xúc chân thành và sự tôn kính của nhà thơ cũng như của đồng bào miền Nam và nhân dân cả nước dành cho Bác. Những dòng đầu tiên của bài thơ gợi lên xúc cảm mạnh mẽ khi nhà thơ từ miền Nam ra thăm lăng Bác sau bảy năm:
Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác
Hàng tre bát ngát hiện lên trong sương sớm
Ôi! Hàng tre xanh xanh của Việt Nam
Giữa bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng.
Những câu thơ mở đầu như một lời chào xúc động từ những đứa con miền Nam đến thăm Bác. Sự xưng hô “con - Bác” thể hiện mối quan hệ thân thiết và gần gũi, như một người con từ phương xa trở về thăm cha. Từ “thăm” được sử dụng để giảm nhẹ nỗi đau mất mát của cả dân tộc.
Hình ảnh “hàng tre bát ngát” trong sương sớm là biểu tượng của quê hương Việt Nam, tượng trưng cho sự kiên cường của con người Việt Nam vượt qua mọi khó khăn để bảo vệ đất nước theo di ngôn của Bác. Những hình ảnh này gợi lên một không gian yên bình trước lăng Bác.
Nhà thơ tiếp tục thể hiện sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc:
Ngày ngày mặt trời chiếu sáng trên lăng
Nhưng trong lăng có một mặt trời rực đỏ
Dòng người ngày ngày đến với niềm thương nhớ
Như tràng hoa dâng lên bảy mươi chín mùa xuân.
Hình ảnh “mặt trời” trong lăng là một ẩn dụ cho Bác Hồ, thể hiện niềm biết ơn như ánh sáng chiếu rọi. “Ngày ngày” nhấn mạnh sự liên tục của thời gian và dòng người không ngừng đến lăng Bác để thể hiện tình cảm của mình. Hình ảnh “tràng hoa” và “bảy mươi chín mùa xuân” thể hiện sự hy sinh và cống hiến của Bác cho dân tộc.
Trước di hài của Bác, tâm trạng nhà thơ trào dâng xúc động:
Bác yên giấc ngủ dưới ánh trăng dịu
Trời xanh mãi mãi, mà sao trái tim lại đau
Nhà thơ sử dụng phép nói giảm “giấc ngủ bình yên” để bày tỏ nỗi đau mất mát. Hình ảnh “trời xanh” và “ánh trăng” là biểu tượng của sự vĩnh cửu và tình cảm của nhân dân với Bác, nhưng sự thật Bác đã ra đi khiến trái tim nhà thơ “nhói đau”.
Cuối cùng, nhà thơ bộc lộ ước muốn mãnh liệt:
Mai về miền Nam, nước mắt rơi nhiều
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương nơi đây
Muốn làm cây tre trung hiếu nơi chốn này…
Những giọt nước mắt không thể kìm nén thể hiện nỗi đau và sự nhung nhớ. Những ước muốn của nhà thơ, từ việc làm con chim hót đến cây tre trung hiếu, biểu thị mong muốn mãi gần gũi và bảo vệ giấc ngủ bình yên của Bác. Hình ảnh “cây tre trung hiếu” kết thúc bài thơ, khẳng định lòng trung thành vô hạn với Bác và Đảng.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương không chỉ chạm đến trái tim người đọc mà còn thể hiện giá trị vĩnh cửu của tình cảm và lòng biết ơn dành cho Bác. Bài thơ, với cấu trúc sáng tạo và ngôn từ giản dị, vẫn mãi là nén tâm hương chân thành gửi đến Người.
10. Bài văn phân tích bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương - mẫu 1
Viễn Phương là một trong những cây bút tiên phong của văn nghệ giải phóng miền Nam trong cuộc chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ của ông thường nhẹ nhàng, đầy cảm xúc, phản ánh những ước mơ và khát vọng của người dân Nam Bộ. Bài thơ 'Viếng lăng Bác' là một tác phẩm tiêu biểu của ông, thể hiện lòng thành kính và sự xúc động sâu sắc của tác giả cùng mọi người khi đến viếng lăng Bác.
Bài thơ 'Viếng lăng Bác' được Viễn Phương sáng tác vào tháng 4 năm 1976, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc thắng lợi và đất nước thống nhất, lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh mới được khánh thành. Viễn Phương cùng đoàn đại biểu miền Nam đầu tiên ra thăm miền Bắc, khi vào lăng viếng Bác, ông đã viết nên bài thơ này. Bài thơ phản ánh lòng thành kính và niềm xúc động sâu sắc của tác giả cũng như của mọi người đối với Bác.
Khổ thơ đầu tiên thể hiện cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác vào sáng sớm. Sau hơn hai mươi năm xa cách, người con miền Nam mới được trở về thăm Bác, nỗi xúc động nghẹn ngào hiện rõ:
'Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác'
Câu thơ giản dị như một lời thông báo nhưng chứa đựng tình cảm sâu sắc. Nhà thơ dùng 'con' và 'Bác' - cách xưng hô vừa thân mật vừa thành kính, gợi cảm giác gần gũi và lòng yêu mến. Viễn Phương không nói 'ra viếng' mà là 'ra thăm' - như đứa con đi xa giờ mới về thăm cha, thăm nơi Bác an nghỉ. Nỗi đau như được giấu kín trong giọng thơ đầy ngậm ngùi. Hình ảnh đầu tiên ấn tượng của nhà thơ là 'hàng tre bát ngát':
'Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.'
Hình ảnh hàng tre từ xa đến gần gợi nhiều liên tưởng trong lòng nhà thơ: cây tre đã trở thành biểu tượng của con người Việt Nam kiên cường, bất khuất. Hình ảnh 'hàng tre bát ngát quanh lăng' như hình ảnh nhân dân Việt Nam quây quần bên Bác, canh giữ giấc ngủ yên bình cho Người. Người con miền Nam gặp lại hình ảnh quen thuộc của quê hương trong không gian trang nghiêm quanh lăng Bác. Thán từ 'ôi' thể hiện sự xúc động và ngạc nhiên của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác.
Khổ thơ thứ hai diễn tả cảm xúc của nhà thơ khi mặt trời lên cao, hình ảnh mặt trời gợi nhiều liên tưởng:
'Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.'
Hai câu thơ sáng rõ với hình ảnh mặt trời: mặt trời của thiên nhiên 'ngày ngày đi qua trên lăng' và 'mặt trời trong lăng rất đỏ'. 'Mặt trời trong lăng' là hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ: mặt trời thiên nhiên đem lại ánh sáng và sự sống, còn mặt trời Bác mang lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Mặt trời ấy rất đỏ như nhiệt huyết cách mạng, như trái tim yêu thương của Bác. Sự kết hợp giữa mặt trời thiên nhiên và mặt trời Bác không chỉ thể hiện lòng biết ơn mà còn ngợi ca sự bất tử của Người. Nhìn dòng người vào lăng viếng Bác, nhà thơ cảm thấy xúc động:
'Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân'
Cấu trúc 'ngày ngày... đi' khẳng định quy luật tất yếu: còn mặt trời trên lăng thì còn dòng người xếp hàng vào viếng Bác. Dòng người được liên tưởng như 'kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân', mỗi người là một bông hoa dâng lên Bác với tình cảm và lòng biết ơn. Hình ảnh 'bảy mươi chín mùa xuân' khẳng định cuộc đời Bác là những mùa xuân vĩnh hằng của dân tộc.
Khổ thơ thứ ba diễn tả cảm xúc của nhà thơ khi vào trong lăng viếng Bác. Niềm xúc động khi đối diện với Bác hiện rõ:
'Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền'
Không gian như ngừng lại trước hình ảnh vĩnh hằng: Bác nằm ngủ yên dưới ánh sáng dịu nhẹ của vầng trăng. Gam màu chuyển từ rực rỡ sang dịu nhẹ phù hợp với không khí tĩnh lặng trong lăng, vầng trăng nâng niu giấc ngủ của Bác. Hình ảnh 'vầng trăng' vừa gợi sự thanh cao của Bác vừa gợi những vần thơ đầy trăng của Người. Niềm xúc động và nỗi xót xa của người con miền Nam thể hiện qua hai câu thơ sau:
'Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim'
Hình ảnh 'trời xanh' như 'mặt trời' và 'vầng trăng' gợi sự vĩ đại và bất tử của Bác. Trong tâm tưởng mỗi người con miền Nam, Bác vẫn sống mãi như trời xanh. Dù vậy, khi trở về thực tại, nỗi xót xa khi Bác không còn nữa khiến lòng nhà thơ đau đớn 'nghe nhói ở trong tim'. Cấu trúc 'vẫn biết... mà sao' thể hiện sự hòa hợp trong cảm xúc khi đối diện với Bác. Khổ thơ cuối thể hiện ước nguyện của nhà thơ khi nghĩ đến việc trở về miền Nam:
'Mai về miền Nam thương trào nước mắt'
Câu thơ giản dị nhưng đằm thắm: dù chưa về miền Nam mà đã thấy nhớ và lưu luyến 'thương trào nước mắt'. Tình cảm ấy tạo động lực cho những ước nguyện hóa thân vào cảnh vật quanh lăng để mãi ở bên Bác:
'Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đấy
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.'
Nhà thơ muốn làm con chim hót quanh lăng, đóa hoa tỏa hương, và cây tre trung hiếu quanh lăng. Những ước nguyện này, dù nhỏ bé nhưng rất đẹp, thể hiện lòng dâng hiến cho Bác và dân tộc. Điệp ngữ 'muốn làm' tạo nhịp thơ dồn dập, nhấn mạnh những ước nguyện chân thành của nhà thơ. Kết thúc bài thơ, hình ảnh 'cây tre trung hiếu' lặp lại từ khổ thơ đầu, tạo nên kết cấu đầu cuối hài hòa, thể hiện lòng trung thành của người con miền Nam, của nhân dân Việt Nam với Bác.
Bài thơ thành công với nghệ thuật đặc sắc, thể thơ tám chữ đan xen bảy chữ và chín chữ phù hợp với nội dung cảm xúc. Giọng điệu bài thơ vừa trang nghiêm vừa thiết tha, thể hiện sự thành kính và xúc động khi vào lăng Bác. Hình ảnh thơ sáng tạo kết hợp giữa thực tế và biểu tượng, với nhiều ẩn dụ đẹp như 'mặt trời', 'trời xanh', 'tràng hoa'. Bài thơ là nén tâm hương kính dâng lên Bác, góp phần làm phong phú đề tài Bác Hồ trong thơ ca hiện đại. 'Viếng lăng Bác' đã trở thành tiếng lòng chung của mỗi người Việt Nam đối với Bác, là một trong những tác phẩm thành công nhất viết về Người sau khi Bác ra đi.
Với thể thơ tám chữ và giọng điệu vừa trang nghiêm vừa thiết tha, bài thơ đã thể hiện lòng thành kính và xúc động của nhà thơ cùng mọi người đối với Bác khi vào lăng. Bài thơ không chỉ là tiếng lòng của tác giả mà còn là tiếng lòng chung của tất cả mọi người, và vì vậy bài thơ sẽ mãi sống trong lòng người đọc.
11. Bài viết cảm nhận về bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương - mẫu 2
Viễn Phương, một trong những cây bút tiên phong của phong trào văn nghệ giải phóng miền Nam trong thời kỳ chống Mỹ, đã tạo ra những tác phẩm thơ nhỏ nhẹ, tràn đầy cảm xúc và mộng mơ ngay cả trong bối cảnh chiến tranh ác liệt. 'Viếng lăng Bác' là một tác phẩm tiêu biểu của ông giai đoạn sau năm 1975.
Bài thơ 'Viếng lăng Bác' được viết vào tháng 4 năm 1976, một năm sau khi miền Nam được giải phóng và đất nước được thống nhất. Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa được khánh thành, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân cả nước được thăm viếng. Tác giả, một người con của miền Nam, sau ba mươi năm hoạt động và chiến đấu ở chiến trường Nam Bộ, đã rất mong mỏi được đến thăm Bác. Đến lúc này, khi đất nước đã thống nhất, ông mới thực hiện được ước nguyện của mình, và tình cảm với Bác trở thành nguồn cảm hứng cho bài thơ này.
Bài thơ chia thành 4 phần, tương ứng với 4 khổ thơ, thể hiện sự chuyển động cảm xúc trong một cuộc viếng thăm, từ thời gian đến không gian. Toàn bộ bài thơ tràn đầy xúc động thiêng liêng, thành kính, tự hào, và nỗi đau của nhà thơ từ miền Nam vừa được giải phóng. Tình cảm của một người con từ nơi xa xôi, giờ đây trở về bên Bác, được thể hiện rõ trong khổ thơ này:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa, đứng thẳng hàng”.
Câu thơ mở đầu như một thông báo giản dị, nhưng chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa. Nhà thơ khẳng định mình từ miền Nam, nơi đã trải qua nhiều gian khổ. Điều này không chỉ đơn thuần là việc thăm một công trình kiến trúc hay di hài của một vĩ nhân, mà còn là sự trở về để báo công, để được Bác ôm vào lòng và khen ngợi. Cách xưng hô “con” ở đầu bài thơ thể hiện sự gần gũi và chân thành, đồng thời cũng diễn tả nỗi xúc động của người con khi gặp lại cha sau bao năm xa cách.
Tác giả dùng từ “thăm” thay vì “viếng”, để giảm bớt nỗi đau thương mất mát, và khẳng định rằng Bác vẫn sống mãi trong trái tim nhân dân miền Nam. Từ “thăm” cũng gợi sự thân thiết, gần gũi: Con về thăm cha – thăm nơi Bác nằm, để thoả lòng khao khát và nhớ mong bấy lâu.
Câu thơ không sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật nhưng lại rất gợi cảm, chứa đựng cảm xúc dồn nén. Cách xưng hô và dùng từ của Viễn Phương giúp người đọc cảm nhận được tình cảm sâu sắc và nhớ thương của một người con đối với cha, cũng như tình cảm chung của cả dân tộc Việt Nam đối với Bác Hồ kính yêu.
Hình ảnh hàng tre trong thơ không chỉ là sự tả thực mà còn mang tính tượng trưng, biểu tượng. Hàng tre là hình ảnh quen thuộc, gắn bó với làng quê Việt Nam, biểu trưng cho sức sống mãnh liệt và tinh thần bất khuất. Dù bão táp mưa sa, tre vẫn đứng vững, biểu thị sự kiên cường và đoàn kết của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ. Hàng tre quanh lăng Bác còn là biểu tượng cho sức sống bền bỉ và sự kiên cường của dân tộc.
Hàng tre như những đội quân danh dự cùng những loài cây khác tụ họp quanh lăng Bác, bảo vệ giấc ngủ của Người. Dù chỉ là một khổ thơ ngắn, nhưng nó thể hiện những cảm xúc chân thành và thiêng liêng của nhà thơ và của nhân dân đối với Bác. Tác giả đã sử dụng một ẩn dụ nghệ thuật tuyệt đẹp để diễn tả cảm nhận khi đứng trước lăng Bác:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”
Hình ảnh “mặt trời đi qua trên lăng” là thực, gợi ra sự kỳ vĩ và bất tử. “Mặt trời trong lăng” là ẩn dụ cho Bác Hồ, một nguồn ánh sáng và sức mạnh vĩ đại của dân tộc. Mặt trời là nguồn cội của sự sống, và Bác Hồ là nguồn sáng dẫn lối cho sự nghiệp cách mạng. Hình ảnh dòng người vào thăm lăng, được miêu tả qua hình ảnh “tràng hoa”, vừa là thực tế, vừa mang nghĩa ẩn dụ về tình cảm của những người con dâng lên Bác.
Những dòng người bất tận xếp hàng vào lăng thành những tràng hoa, dưới ánh mặt trời của Bác, trở thành những bông hoa đẹp nhất dâng lên 79 mùa xuân của Người. Hình ảnh này thể hiện sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc của nhà thơ và nhân dân đối với Bác Hồ.
Khi vào trong lăng, không khí trở nên yên tĩnh và trang nghiêm. Hình ảnh “vầng trăng sáng dịu hiền” gợi lên tâm hồn cao đẹp và thanh thản của Bác, và trăng cũng là hình ảnh quen thuộc trong thơ của Người. Sự đau xót của nhà thơ được biểu hiện qua mâu thuẫn giữa sự vĩnh hằng của “trời xanh” và nỗi đau khi Bác đã ra đi. Đó không chỉ là nỗi đau của tác giả mà của toàn dân Việt Nam, khi nghĩ đến sự ra đi của Bác khi đất nước đã thống nhất.
Nhà thơ cảm thấy nỗi đau đột ngột, không thể nói thành lời, qua hình ảnh “trời xanh” mãi mãi và cảm giác đau đớn trong tim. Trong khổ thơ cuối, nhà thơ bộc lộ sự chia xa và nỗi lưu luyến khi phải trở về miền Nam:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này…”
Câu thơ “Mai về miền Nam thương trào nước mắt” thể hiện sự lưu luyến và nỗi đau khi phải chia tay. Từ “trào” diễn tả cảm xúc mãnh liệt và sự bịn rịn. Nhà thơ ao ước được hóa thân thành những hình ảnh thiên nhiên quanh lăng để luôn ở bên Bác. Những ước nguyện này thể hiện lòng kính yêu và sự trung thành vô hạn với Bác, và là lời hứa của nhà thơ và của nhân dân miền Nam.
Bài thơ 'Viếng lăng Bác' thể hiện niềm xúc động, thành kính, tự hào và nỗi đau của nhà thơ từ miền Nam ra thăm lăng Bác. Giọng điệu thơ trang nghiêm và sâu lắng, với nhịp thơ chủ yếu chậm và một khổ thơ cuối nhịp nhanh hơn. Hình ảnh thơ kết hợp giữa thực và ẩn dụ, biểu tượng, mang lại giá trị biểu cảm sâu sắc.
12. Bài viết cảm nhận về bài thơ 'Viếng lăng Bác' của Viễn Phương - mẫu 3
Chúng ta cảm nhận ở nhà thơ trước hết là tấm lòng thành kính, biết ơn của một người con chưa bao giờ được gặp Bác:
'Con từ miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng'
Khi chiến tranh kết thúc, hòa bình đã trở lại ở miền Nam, năm 1976, nhà thơ Viễn Phương cùng đồng bào miền Nam đã có dịp ra Hà Nội viếng Bác. Tác giả như một người con từ xa trở về thăm cha của mình. Nhà thơ bộc lộ sự xúc động nghẹn ngào khi chưa kịp thể hiện lòng thành kính trước công ơn của Bác thì Bác đã ra đi. Hình ảnh 'hàng tre' thể hiện hình ảnh của mỗi người dân Việt Nam kiên cường, bất khuất và ngay thẳng. Chúng ta cảm nhận được sự tự hào sâu sắc của tác giả về việc là một người dân Việt Nam. Nhà thơ cũng như bao người khác, đều biết ơn Hồ Chủ Tịch kính yêu!
Từ lòng thành kính và biết ơn dành cho Người, tác giả còn thể hiện nỗi đau xót trước sự ra đi của Bác:
'Bác nằm trong lăng giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim'
Hình ảnh Bác đang ngủ say giữa 'một vầng trăng sáng dịu hiền' cho thấy tâm hồn cao đẹp và sự hiền dịu của Người. Nhà thơ cảm thấy mất mát sâu sắc: 'Mà sao nghe nhói ở trong tim!'. Động từ 'nhói' diễn tả sự bật ra của cảm xúc, nhà thơ không thể kìm nén được nữa, từng cơn đau cứ quặn lên trong tim. Dù tác giả biết rằng, Bác đã ra đi nhưng vẫn ở mãi trong lòng mỗi người dân Việt Nam, nhà thơ vẫn không giấu nổi sự xúc động của mình. Chỉ những người vô cùng yêu thương và kính trọng Người mới có thể có những cảm xúc và nỗi đau lớn như vậy. Ta thấy ở tác giả tình cảm dành cho Bác, cũng như tình cảm của cả miền Nam. Nhưng xúc động nhất có lẽ là ở khổ thơ cuối, khi nhà thơ thể hiện ước muốn cháy bỏng và tâm nguyện được cống hiến cho dân tộc và đất nước:
'Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này'
Những giọt nước mắt của tác giả là những giọt nước mắt của sự đau xót và lưu luyến khi vừa mới đến thăm Người được một chút, giờ đã phải rời xa. Trở lại miền Nam là thực tại, không nỡ rời xa là ý muốn trong tâm tưởng của nhà thơ. Để quên đi thực tại đau xót này, nhà thơ đã tự nhủ với lòng mình, đã bộc lộ mong ước được hóa thân vào những cảnh vật quanh lăng Bác để được mãi mãi ở bên Người. Điệp từ 'Muốn làm' thể hiện ước muốn mãnh liệt của nhà thơ. Tác giả muốn trở thành con chim để hót quanh lăng Bác mỗi sáng mai, muốn trở thành đóa hoa tô điểm thêm cảnh vật quanh lăng, tỏa hương thơm ngát... và muốn trở thành cây tre để trung hiếu với Người:
'Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này'
Hình ảnh cây tre được tác giả sử dụng rất khéo léo, xuất hiện ở đầu bài thơ và quay lại ở cuối bài thơ. Kết cấu này tạo ra tính biểu tượng cho hình ảnh cây tre, vừa là biểu tượng cho con người Việt Nam, vừa thể hiện tấm lòng của tác giả đối với Người. Xúc động biết bao trước tình cảm của nhà thơ đối với Bác!
Với tư cách là một người dân Việt Nam sống trong thời buổi hiện đại, khi chiến tranh đã kết thúc, dù chúng ta không thể hiểu hết hoàn cảnh và khó khăn trước đây, nhưng vẫn cảm nhận được công lao to lớn của Bác dành cho đất nước qua những lời thơ của nhà thơ Viễn Phương. Ông thực sự đã viết rất hay, mạch cảm xúc tự nhiên, lắng đọng từ việc thăm lăng Bác, qua đó gieo vào lòng người đọc sự xúc động, tình cảm mến yêu dành cho cả Hồ Chủ tịch và những người dân miền Nam như tác giả.
Đọc bài thơ Viếng lăng Bác, ta hiểu lý do tại sao bài thơ được phổ nhạc sau này. Đó chính là bởi những cảm xúc chân thành từ tấm lòng của người viết, từ sự vĩ đại và cao cả của Bác Hồ kính yêu...