1. Bài văn phân tích bài thơ 'Nói với con' của Y Phương số 1
Y Phương, nhà thơ độc đáo với giọng điệu riêng, là biểu tượng của dân tộc Tày. Tác phẩm 'Nói với con' là minh chứng rõ nét nhất cho phong cách sáng tác của ông. Bài thơ không chỉ là lời tâm sự chan chứa tình cha con mà còn là bức tranh sống động về cuộc sống vùng miền núi, với tình yêu thương chân thành và những giá trị truyền thống sâu sắc.
'Nói với con' không chỉ là tâm sự, mà còn là cuộc trò chuyện chân thành của người cha. Những dòng thơ tự do với cảm xúc chân thành, mộc mạc, đã đưa người đọc đến gần với câu chuyện đậm chất gia đình. Tình yêu thương, sự chia sẻ, gắn bó và sự giáo dục con cái về truyền thống là những yếu tố làm nên nét đẹp của bài thơ.
Thơ 'Nói với con' là cuộc hành trình tâm hồn qua những giai đoạn quan trọng của đời con, là những bước chân đầu tiên, là những tiếng cười, những tiếng nói của tuổi thơ. Đó là cuộc sống ấm áp, hạnh phúc và tràn ngập tình thương của một gia đình truyền thống. Y Phương đã tài tình đưa người đọc quay về quê hương, về những giá trị tốt đẹp của dân tộc.
Bài văn phân tích bài thơ 'Nói với con' của Y Phương số 1 đưa người đọc bước chân vào thế giới của tình cha con, làm sâu sắc hơn tình yêu thương và những ý nghĩa đằng sau những dòng thơ mộc mạc, chân thành của nhà thơ Tày nổi tiếng.


2. Bài văn phân tích bài thơ 'Nói với con' của Y Phương số 3
Trong văn học Việt Nam, tình cảm gia đình, tình phụ tử, tình mẫu tử luôn là đề tài quen thuộc, nhưng nhà thơ Y Phương đã mang lại sự mới mẻ cho đề tài này trong bài thơ 'Nói với con'. Ông không chỉ tỏ ra tự tin và sáng tạo mà còn tạo nên một tác phẩm độc đáo, đầy xúc động về tình cha con.
Bài thơ là lời dặn dò, khuyên bảo của người cha dành cho con trai, tràn ngập tình yêu thương và sự chân thành. Phong cách thể hiện của Y Phương độc đáo, giản dị nhưng rất chân thành, phản ánh tâm huyết của người dân tộc.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh đáng yêu của đứa trẻ mới biết đi, bước chân nhỏ bé được sự khuyến khích của cha mẹ. Những bước đi đầu tiên đều là niềm vui của người cha, là những khoảnh khắc đáng nhớ trong cuộc sống trưởng thành của đứa con.
'Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai tiếng chạm tiếng cười'
Người cha chia sẻ về những người đồng mình, những người gần gũi trong cuộc sống hàng ngày. Những bức tranh về cuộc sống đơn sơ, hạnh phúc của những người làm việc cật lực trên đất đỏ núi non được tô điểm bằng những câu thơ mộc mạc, gần gũi.
'Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài đan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa'
Thông qua những từ ngữ như 'người đồng mình', 'Đan lờ cài đan hoa', Y Phương truyền đạt tình cảm thân thuộc, yêu thương nhưng không kém phần chân thành và sâu sắc.
'Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ nhớ mãi về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời'
Bài thơ còn nhấn mạnh ý nghĩa của gia đình, nơi con được sinh ra và lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ. Ngày cưới, ngày hạnh phúc nhất của cha mẹ cũng là ngày kết nối tình yêu, hình thành gia đình hạnh phúc.
'Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh,
sống trong thung không chê thung nghèo đói'
Những dòng thơ cuối cùng là lời dạy của cha với con trai, khuyến khích con phải vượt qua khó khăn, sống lạc quan và tích cực, không chê trách đất đai nghèo đói mà hãy biến nó thành nguồn động viên, động lực để phấn đấu vươn lên.


Phân Tích Bài Thơ 'Nói Với Con' của Y Phương - Đối Sánh Số 2


4. Phân tích bài thơ 'Nói với con' của Y Phương số 5
Y Phương, người con của dân tộc Tày, là tác giả của bài thơ Nói với con. Tên bài thơ rất đơn giản, nhưng lời thơ và cảm xúc rất trong sáng. Bài thơ gồm 28 câu tự do, câu ngắn nhất chỉ hai chữ, câu dài nhất mười chữ. Đa số là những câu thơ bốn chữ năm chữ; một số câu như khẩu ngữ, mang đậm tình cha, biểu cảm chân tình và mộc mạc.
Bài thơ tràn ngập tình thương con, tự hào với quê hương. Các câu thơ:
– Người đồng mình yêu lắm con ơi
– Người đồng mình thương lắm con ơi
– Người đồng mình thô sơ da thịt
– Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Đặt ở bốn điểm quan trọng như lời hứa, thông điệp, điệp khúc tạo nên âm điệu, nhạc điệu thơ hùng vĩ. Tôi sinh ra và lớn lên bên dòng sông Hương thơ mộng, từ nhỏ đã ngấm những lời yêu thương của má, chị gái và bạn bè.
Trải qua những năm chiến tranh, tôi cảm động khi nghe tiếng ru từ một ngôi nhà ở xa: 'Nàng về nuôi cái cùng con – Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng'. Đọc thơ Y Phương, ba từ 'người đồng mình' làm xao lạnh tâm hồn tôi.
Tôi nhớ tuổi thơ, giọng nói dịu dàng của mẹ, nghĩ về Huế và đặc biệt, tôi nghĩ về Cao Bằng, nơi mà tôi chưa từng đặt chân. Thơ có sức mạnh gợi nhớ và thương nhớ. 'Người đồng mình' kết tinh tình yêu, tự hào của Y Phương với 'nước non Cao Bằng', nơi chôn những tình cảm nặng nề của mình. Hãy thưởng thức những câu thơ:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
Như chiêm ngưỡng bức tranh tứ bình với bốn hình ảnh: chân phải, chân trái, tiếng nói, tiếng cười của một đứa trẻ tập đi, tập nói. Lúc nào đó, nó dựa vào mẹ, rồi lại níu lấy tay cha. 'Bước tới' và 'chạm' làm nổi bật hình ảnh gia đình hạnh phúc: đôi vợ chồng trẻ với đứa con thơ ngây.
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Sao không yêu?
Phải yêu nhiều, yêu lắm chứ!
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Nhà văn Nguyễn Tuân đã khen ngợi lái đò sông Đà có 'bàn tay lái ra hoa'. Một nhà thơ khác thậm chí mê hoặc vẻ đẹp kiều diễm của cô gái công văn: 'mười nụ hoa trắng ngần thơm ngát bàn tay em'. Các từ như 'hoa', 'câu hát', 'tấm lòng' trong thơ Y Phương đều rất phong cách.
Đan lờ đánh cá, dưới bàn tay người Tày, những nan nứa, nan trúc, nan tre đã trở thành 'nan hoa'. Vách nhà không chỉ ken bằng gỗ mà còn ken bằng 'cầu hát'. Rừng không chỉ có gỗ quý, măng, lâm sản quý giá mà còn 'cho hoa'. Con đường không chỉ là nơi đi lại, lên xuống núi non mà còn 'cho những tấm lòng' nhân văn, con đường tình thân:
Gập ghềnh xuống biển lên non,
Con đường tình nghĩa ai còn nhớ chăng?
(Ca dao)
Với Y Phương, con đường là biểu tượng quen thuộc của quê hương. Có đường làng, đường vào rừng, đường ra sông… Đó là con đường đi học, con đường làm ăn. Đường xa là con đường đi tới mọi nơi, đến mọi miền đất nước.
Con đường tình nghĩa đó được Y Phương miêu tả một cách hàm súc, giản dị: Con đường cho những tấm lòng. Hạnh phúc ôm con thơ vào lòng, nhìn con lớn lên, suy ngẫm về tình thân làng bản quê nhà, nhà thơ nghĩ về nguồn hạnh phúc:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
'Người đồng mình' không chỉ cần sự chăm chỉ và tài năng, còn có lòng nhân ái và trung thành với quê hương. Thơ anh đậm chất hồn nhiên và tình cảm.
Y Phương là người đồng hương của Kim Đồng, quê anh có hang Pắc Bó, nơi Bác Hồ đã sống và hoạt động. Đọc thơ Nói với con của anh như thưởng thức một chén nước Cao Bằng mát lạnh, có thể làm trong, làm mát tâm hồn mỗi chúng ta.


5. Phân Tích Bài Thơ 'Nói Với Con' Của Y Phương - Phần 4
Nhà thơ Y Phương, tên thật là Hứa Vinh Sước, là người dân tộc Tày, sinh năm 1948 tại huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Sau thời gian phục vụ trong quân đội từ 1968 đến 1981, ông chuyển sang công tác tại Sở Văn hóa-Thông tin Cao Bằng. Từ năm 1993, ông được bầu làm Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật Cao Bằng. Thơ của Y Phương thể hiện tâm hồn chân thật, mạnh mẽ và giàu hình ảnh về cuộc sống miền núi.
Ôm trọn tình yêu con cái, mong ước thế hệ sau kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của tổ tiên, của quê hương, là một tình cảm cao quý luôn hiện hữu trong tâm hồn người Việt. Bài thơ 'Nói với con' của Y Phương là một phần của nguồn cảm hứng đó, thể hiện lời tâm tình, nhắn gửi của người cha đến con. Do đó, bài thơ mang đậm tình cảm, trìu mến.
Để hiểu sâu hơn về cái hay, cái đẹp của bài thơ này, chúng ta cần khám phá cách suy nghĩ và thể hiện tình cảm của người dân miền núi. Đó là cách sử dụng ngôn ngữ mộc mạc, hồn nhiên, thể hiện qua ngôn từ và hình ảnh thơ. Y Phương khéo léo sử dụng lời ví von, so sánh, phổ biến trong thơ của các dân tộc thiểu số để thể hiện chủ đề của bài thơ 'Nói với con'.
Mượn lời tâm hồn cha mẹ, nhà thơ nhắc nhở về nguồn gốc của mỗi người, qua đó thể hiện niềm tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ và phẩm chất tốt đẹp của dân tộc và quê hương. Bố cục bài thơ gồm hai phần. Phần đầu tiên mô tả cuộc sống lớn lên trong tình yêu thương của cha mẹ, trong cuộc sống đầy lao động của quê hương. Phần thứ hai thể hiện tự hào về sức sống mạnh mẽ, bền bỉ của dân tộc và truyền thống tốt đẹp của quê hương. Niềm mong ước chân thành là thế hệ sau sẽ tiếp tục truyền thống đó.
Với bố cục như vậy, bài thơ lan từ tình cảm gia đình ra mở rộng và nâng cao thành tình cảm quê hương, đất nước. Từ những kí ức gắn bó với từng người, mở ra thành lập lẽ sống chung. Chủ đề của bài thơ được tác giả dẫn dắt và thể hiện tự nhiên, mạch lạc, đậm chất cá nhân nhưng vẫn mang ý nghĩa phổ quát.
Tình yêu thương của cha mẹ, sự che chở của quê hương đối với con cái là vô hạn. Con lớn lên trong tình yêu thương, sự hỗ trợ của cha mẹ, trong cuộc sống nghiệt ngã của quê hương. Bốn câu thơ đầu tiên, bằng hình ảnh giản dị, đã phản ánh sinh động không khí gia đình ấm áp, thân thiện:
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười.
Cách diễn đạt tư duy của nhà thơ là độc đáo. Khi đứa con chập chững biết đi, từng bước đi, từng tiếng nói, tiếng cười của chơi chơi xổ sốu được cha mẹ chăm sóc, bảo vệ, niềm vui mừng chào đón. Ngôi nhà luôn tràn đầy tiếng nói, tiếng cười. Đứa con phát triển trong cuộc sống lao động chăm chỉ của cha mẹ, trong bối cảnh thiên nhiên tươi đẹp, thơ mộng của quê hương.
Nhìn con lớn lên từng ngày, cha mẹ càng yêu thương mảnh đất mình sống, phần mảnh đất do tổ tiên, ông bà để lại. Câu thơ nảy mình từ trái tim chứa đựng nghĩa lớn tình sâu: Người đồng mình yêu lắm con ơi! Nhà thơ tự hào về những người sống trên mảnh đất quê hương đã nuôi dưỡng con mình nên con người đầy văn hóa. Cuộc sống lao động chăm chỉ và vui vẻ của đồng bào được nhà thơ mô tả qua những hình ảnh như trong thần thoại:
Đan lờ cài nan hoa,
Vách nhà ken câu hát.
Các động từ cài, ken không chỉ diễn đạt động tác lao động cụ thể mà còn thể hiện sự hòa hợp, gắn kết giữa thực tế và lãng mạn trong cuộc sống vật chất, tinh thần của những người sống ở vùng cao. Rừng núi quê hương che chở, nuôi dưỡng nhiều thế hệ về cả tâm hồn và lối sống:
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Chính quê hương đã tạo nên cuộc sống hạnh phúc, lâu dài:
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Cha tự hào về người đồng mình sống khó khăn nhưng mạnh mẽ, phóng khoáng, gắn bó sâu sắc với quê hương dù vất vả, đói nghèo. Người cha mong con hãy trung thực với quê hương, biết chấp nhận và vượt qua khó khăn bằng ý chí và niềm tin vững chắc:
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình mộc mạc nhưng giàu chí khí và nghị lực. Họ có thể thô sơ da thịt nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, về khí phách. Họ mong muốn xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp. Những con người ấy, thông qua lao động chăm chỉ, đã tạo nên những truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc và quê hương:
Người đồng mình thô sơ da thịt,
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con,
Người đồng mình tự đục đá kè cao quê hương.
Còn quê hương thì làm phong tục.
Người cha mong muốn con biết ơn và tự hào với dân tộc, quê hương, để có đủ tự tin và sức mạnh bước chân vững trên đường đời:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Bài thơ có cấu trúc chặt chẽ, cách diễn đạt tự nhiên, giọng điệu tinh tế, trìu mến, hiện rõ nhất ở những câu thơ mang tính chất cảm thán: Người đồng mình yêu lắm con ơi, Người đồng mình thương lắm con ơi; ở những lời tâm tình, dặn dò chân thành: Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn, Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con, Con ơi … Nghe con. Tác giả đã thành công trong việc tạo ra những hình tượng thơ vừa cụ thể vừa mang tính chất khái quát, mộc mạc nhưng vẫn giàu chất thơ, mang đậm sắc thái hồn nhiên, chân thực và gợi cảm của thơ ca miền núi.
Bài thơ đã truyền đạt thành công điều tâm huyết nhất mà người cha muốn gửi gắm cho con. Đó chính là tự hào với sức sống mạnh mẽ, bền bỉ, với truyền thống tốt đẹp của quê hương và niềm tin vững chắc khi bước vào đời. Qua bài thơ, độc giả có thể cảm nhận được tình cảm thắm thiết của cha mẹ đối với con cái nói chung và tình yêu quê hương sâu sắc của nhà thơ Y Phương nói riêng.


6. Phân tích bài thơ 'Nói với con' của Y Phương - Số 7
Viết về tình cảm gia đình, niềm tự hào đối với quê hương và sự ước vọng của mẹ cha dành cho con cái, muốn con khôn lớn trưởng thành là một trong những chủ đề được trở đi trở lại nhiều lần trong suốt chiều dài nền văn học. Ta có thể bắt gặp hình ảnh người mẹ Tà ôi địu con lên rẫy hát ru con thấm đượm nghĩa tình cách mạng trong bài thơ "Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ" của Nguyễn Khoa Điềm hay đó là hình ảnh người mẹ đưa nôi hát ru con với lời ru ngọt ngào, tha thiết trong bài thơ "Con cò" của Chế Lan Viên...
Mỗi nhà thơ, bằng sự trải nghiệm và tình cảm chân thành xuất phát từ trái tim, hòa cùng những rung cảm mãnh liệt của nghệ thuật đã diễn tả thật hay, thật độc đáo, mới mẻ về những tình cảm thiêng liêng, cao đẹp ấy. Y Phương – một nhà thơ dân tộc Tày, với một phong cách thơ hồn nhiên, trong sáng, chân thật, giàu hình ảnh cũng đã góp mình vào chủ đề đó qua bài thơ "Nói với con" (1980).
Bài thơ là lời tâm tình sẻ chia của người cha dành cho con với niềm hi vọng người con sẽ tiếp nối, phát huy được những phẩm chất truyền thống cao đẹp, quí báu của "người đồng mình", làm cho quê hương, dân tộc mình ngày một vững mạnh hơn.
Trước hết, mở đầu bài thơ là lời tâm tình của người cha nói với con về cội nguồn sinh dưỡng: con lớn lên bởi tình yêu của cha mẹ và quê hương. Đầu tiên, người cha nói về tình cảm gia đình – cái nôi đầu tiên nuôi dương người con khôn lớn trưởng thành:
"Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười"
Bằng những hình ảnh cụ thể, giàu tính chất tạo hình " chân phải", "chân trái", "tiếng nói", "tiếng cười", nhà thơ đã dựng lên trước mắt người đọc hình ảnh của một em bé đang chập chững tập đi và bi bô tập nói bên cạnh cha mẹ. Từ đó, Y Phương gợi tả được không khí gia đình thật ấm áp, hạnh phúc, tràn ngập tiếng cười nói của trẻ thơ.
Đồng thời nhà thơ đã cho người đọc thấy được từng bước đi, từng tiếng cười nói của chơi chơi xổ sốu được cha mẹ nâng niu, chăm sóc, mong chờ. Đó là tình cảm gia đình ruột thịt, là công lao trời bể lớn lao và thiêng liêng mà cha mẹ dành cho con cái, muốn người con luôn phải khắc cốt ghi tâm.
Bên cạnh tình cảm gia đình, người cha muốn nói cho con biết về cội nguồn sinh dưỡng rộng lớn hơn đó là tình làng,quê hương nghĩa xóm:
Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Với cách tư duy giàu hình ảnh của người miền núi, nhà thơ Y Phương đã miêu tả thật chân thực, sinh động cuộc sống lao động thật nghĩa tình và thơ mộng của "người đồng mình". "Người đồng mình" là để chỉ những người vùng mình, miền mình, những người cùng sống trên một miền đất, quê hương, cùng dân tộc.
Câu thơ sử dụng từ ngữ hô gọi "con ơi" kết hợp với từ tình thái "yêu lắm" làm cho lời thơ trở nên ngọt ngào, chan chứa niềm tự hào với tình yêu thương quê hương da diết. Cuộc sống lao động cần cù và vui tươi của "người đồng mình" được gợi lên qua một số những hình ảnh rất cụ thể, giàu sức gợi: "đan lờ" – dụng cụ đánh bắt cá của người dân miền núi, dưới bàn tay khéo léo đã thành "cài nan hoa"; những ngôi nhà sàn không chỉ được dựng lên bằng những tấm ván gỗ mà còn được tạo nên bởi những "câu hát" - chiều văn hóa, lối sống của "người đồng mình".
Những động từ "đan", "cài", "ken" vừa có tác dụng diễn tả những động tác lao động; lại vừa cho thấy những phẩm chất cần cù, chịu khó, yêu lao động, yêu cuộc sống, chan chứa niền vui của những bàn tay khéo léo, tài hoa của người dân miền núi. Cũng nói về quê hương, người cha còn nhắc tới "rừng núi" và những "con đường" của "người đồng mình":
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng.
Rừng không chỉ cho gỗ, cho măng tre mà còn cho cả "hoa". "Hoa" là sản phẩn của thiên nhiên, là sự kết hợp những gì tinh túy nhất, đẹp đẽ nhất, lãng mạn nhất của trời và đất mà rừng núi quê hương đã ban tặng cho con người nơi đây. Còn "con đường" là sợi dây liên kết gắn bó, chặt chẽ của những "người đồng mình".
Những "con đường" ấy được tạo nên bởi những "tấm lòng" nhân hậu, bao dung. Đó là con đường ra thung ra suối, con đường vào làng vào bản, con đường tới trường, tới lớp, con đường ra ruộng, ra đồng... Chính những con đường đó đã gắn bó tình đoàn kết của những con người nơi đây.
Như vậy, thiên nhiên rừng núi không chỉ ban tặng cho con người cái đẹp của tạo hóa mà còn che chở, nuôi dưỡng con người cả về tâm hồn, lối sống. Từ tình cảm quê hương, người cha đột ngột chuyển sang nói với con về tình cảm riêng tư của "ngày cưới":
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời.
Không ít người đã thắc mắc về sự chuyển biến đột ngột này. Y Phương chia sẻ: tình cảm của những đôi trai gái, của cha mẹ được nảy nở, bắt nguồn từ tình yêu đối với quê hương, tình yêu đối với cuộc sống lao động. Như vậy, nhà thơ quan niệm: khi con người sống gắn bó với quê hương, với lao động thì con người sẽ tìm được tình yêu, hạnh phúc.
Vì thế, người con từ đó được ra đời không chỉ là xuất phát từ sự kết tinh tình yêu của cha mẹ mà còn xuất phát từ là tình cảm rộng lớn của quê hương. Và quê hương đã cho con nghĩa tình, đã bao bọc, chở che con ngay từ khi bắt đầu con cất tiếng khóc chào đời.
Từ việc nhắc lại cội nguồn sinh dưỡng ở khổ đầu, đến khổ hai, người cha tiếp tục ngợi ca những đức tính cao đẹp của người đồng mình, gợi cho con lòng tự hào về quê hương, dân tộc, dặn dò con cần phát huy và sống thật xứng đáng với truyền thống của quê hương mình:
Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.
Câu thơ đầu được điệp lại "Người đồng minh thương lắm con ơi" nhưng đã có sự thay đổi chút ít. Nếu như câu thơ ở khổ đầu là "yêu" tức là xuất phát từ tình cảm chân thành, từ trái tim tha thiết thì đến câu thơ ở khổ hai này lại là: "thương". "Thương" là một trạng thái tình cảm không chỉ xuất phát từ trái tim yêu thương chân thành nữa mà còn gói gém cả sự sẻ chia, đồng cảm ở trong lòng.
Chính vì thế, "người đồng mình" – những con người cùng miền đất, quê hương, dân tộc cùng chí hướng đã đoàn kết, gắn bó, sẻ chia và đồng cảm với nhau mà dựng xây quê hương mình trở nên ngày một giàu đẹp hơn.
Hai câu tiếp: Sức sống bền bỉ, mạnh mẽ, kiên cường của "người đồng mình". Nghệ thuật đối lập tương phản: " cao đo – xa nuôi", "nỗi buồn – chí lớn", tác giả đã diễn tả những trạng thái khác nhau của "người đồng mình". "Nỗi buồn – chí lớn" là khái niệm vô hình nhưng đã được tác giả hình dung cụ thể như có hình, có khối.
"Người đồng minh" buồn, lo lắng, khắc khoải ở trong lòng vì trước mắt họ là biết bao nhiêu là khó khăn, gian nan thử thách; khi mà cả quê hương họ còn chưa vươn tới được tầm cao nhân văn, vẫn còn quanh quẩn với cái đói, cái nghèo. Nhưng "Người đồng mình" không bao giờ nhụt chí, mạnh mẽ, vững vàng đối diễn với những khó khăn, thách thức ấy mà đưa quê hương tiến lên phía trước, trở nên giàu mạnh, phát triển, văn mình.
Câu thơ giản dị , mộc mạc nhưng đã diễn tả được tinh thần, ý chí quật cường, mạnh mẽ của người dân vùng cao. Niềm tự hào về con người quê hương gắn liền với những phẩm chất quí báu mà người cha muốn truyền cho con:
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc.
Nhà thơ đã sử dụng rất nhiều những hình ảnh để nói tới cuộc sống của người miền núi như: "đá gập ghềnh", "thung nghèo đói" "lên thác xuống ghềnh" có ý nghĩa diễn tả những khó khăn, vất vả, nghèo đói và nhọc nhằn mà họ đã và đang phải đương đầu. Điệp ngữ "sống ... không chê" (2 lần), kết hợp với nhịp thơ nhanh, dồn dập và biện pháp so sánh "như sông như suối" có tác dụng diễn tả sức sống mạnh mẽ, mãnh liệt, bền bỉ của những người con miền núi cao trước cuộc sống khó khăn, vất vả khi mà chiến tranh lùi xa không được bao lâu.
Qua đó, nhà thơ thể hiện niềm tự hào về "người đồng mình" với sức mạnh, ý chí thật phóng khoáng, đoàn kết, gắn bó thiết tha của họ đối với nơi chôn rau cắt rốn của mình. Từ đó, người cha mong muốn con: phải sống có tình, có nghĩa, thủy chung với quê hương, đất nước, dân tộc mình; biết chấp nhận và sẵn sàng vượt qua những khó khăn, thử thách bằng ý chí, nghị lực và niềm tin tất thắng.
Đến bốn câu thơ tiếp theo mạch tâm tình nhắn nhủ của người cha dành cho con vẫn được tiếp nối nhưng đã chuyển sang giọng điệu triết lí sâu sắc:
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Nghệ thuật đối lập tương phản: giữa ngoại hình và tâm hồn. Hình ảnh "thô sơ da thịt" diễn tả vẻ đẹp mộc mạc, bình dị, chân chất, khẳng khái của "người đồng mình". Nhưng họ không hề "nhỏ bé" về tâm hồn mà rất giàu lòng tự trọng, giàu chí khí, niềm tin cao đẹp với khát vọng dựng xây, phát triển quê hương. Muốn vậy, "người đồng mình" phải lao động:
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục.
Câu thơ có hai lớp nghĩa tả thực và ẩn dụ. Và tác giả đã miêu tả cuộc sống lao động của họ qua cụm từ "tự đục đá" thường thấy của người dân miền núi cao. Công việc của họ rất vất vả, nặng nhọc nhưng họ sẵn sàng tự nguyện làm vì sự phát triển của quê hương mình.
Nhưng hình ảnh "kê cao quê hương" còn là hình ảnh ẩn dụ, biểu tượng cho lòng tự hào, tự tôn dân tộc của "người đồng mình". Chính những con người cần cù, nhẫn nại, bằng đôi tay lao động của mình đã làm nên quê hương, làm nên phong tục tập quán lâu đời tốt đẹp của dân tộc.
Kết thúc bài thơ là lời nhắn nhủ, dặn dò người con phải tự hào về truyền thống quê hương, lấy những tình cảm ấy làm hành trang bước vào đời:
Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.
Hình ảnh "thô sơ da thịt" được lặp lại lần hai có tác dụng khẳng định và nhấn mạnh lại niềm mong muốn của người cha dành cho con: Người đồng mình tuy mộc mạc, chân chất, bình dị, bộc trực, khẳng khái nhưng không hề nhỏ bé về tâm hồn, luôn vươn tới những lẽ sống cao đẹp. Vì thế, trên đường đời, con phải thật tự tin, tự hào về quê hương, sống xứng đáng với "người đồng mình", không cúi đầu trước giông tố khó khăn, vất vả ở phía trước.
Bởi đằng sau con luôn có tình cảm chở che, nâng đỡ của cha mẹ, gia đình, của quê hương và đặc biệt trong bản thân con chất chứa phẩm chất quí báu của "người đồng mình". Hai tiếng "nghe con" ở cuối bài thơ chứa đựng biết bao nhiêu là yêu thương và niềm tin của người cha dành cho con, nhẹ nhàng, xao xuyến.
Tóm lại, bằng bố cục chặt chẽ, dẫn dắt tự nhiên, bằng những hình ảnh cụ thể mà vẫn giàu chất thơ, "Nói với con" đã thể hiện tình cảm gia đình ấm cúng, ca ngợi truyền thống cần cù, sức sống mạnh mẽ của quê hương và dân tộc mình. Điều lớn lao nhất mà người cha truyền đến được cho con chính là lòng tự hào về quê hương và niềm tự tin khi bước chân vào đời.
Khi biết tự hào một cách chính đáng thì sẽ có lòng tự tin vững chắc. "Lên đường/ Không bao giờ nhỏ bé được / Nghe con" – bài thơ là lời nhắc nhở thấm thía mỗi con người về nghĩa tình gắn bó với truyền thống, với quê hương và ý chí vươn lên trong cuộc sống.


7. Phân tích bài thơ 'Nói với con' của Y Phương số 6
“Đôi bàn tay êm ái của cha
Đưa con vào giấc ngủ nồng thắm
Trăng cao chưa tròn, ánh sáng mơ mộng
Con thở nhẹ, giấc ngủ yên bình”.
(Hai bàn tay ân cần – Huy Cận)
Tình cha dành cho con, như tình mẹ ru con, là nguồn yêu thương bền vững từ thời xa xưa. Bài thơ “Nói với con” của Y Phương chạm đến tâm hồn cha, lưu giữ những thì thầm của người cha dành cho con trên hành trình trưởng thành.
“Cha dắt con bước trên cát mịn
Bóng trăng soi sáng con đường
Cha lặng lẽ nhìn cuối bức tranh thiên nga.
Con mơ về những chuyến phiêu lưu
Cha cho con chiếc buồm trắng ước mơ.
Để con bước đi…”.(Những chiếc buồm)
Hoàng Trung Thông đã mô tả hình ảnh đẹp, đáng yêu của tình cha con. Y Phương, là nhà thơ mang dòng máu dân tộc, chia sẻ tâm tình qua bài thơ “Nói với con”. Dù sử dụng ngôn từ mộc mạc, hình ảnh giản dị, bài thơ chạm đến trái tim với giai điệu nhẹ nhàng, lòng cha truyền đạt những điều ý nghĩa, tình con gửi gắm về quê hương.
Bài thơ sử dụng thể thơ tự do, âm điệu nhẹ nhàng, theo dõi cảm xúc. Toàn bài thể hiện cách cha nói, suy nghĩ, và viết của người dân tộc, giản dị nhưng chân thành, trìu mến, thông qua hình ảnh cha nói chuyện với con, tình cảm dạy dỗ ấm áp và đáng tin cậy. Con lớn lên trong tình yêu thương, sự hỗ trợ của cha mẹ, và cuộc sống an lành của quê hương.
Bài thơ bắt đầu bằng hình ảnh cụ thể, độc đáo, trí tưởng tượng, và cách cha nói với con:
“Chân phải bước đến cha
Chân trái bước đến mẹ
Một bước kề tiếng nói
Hai bước chạm tiếng cười”.
Bốn câu thôi nhưng tạo nên bức tranh gia đình ấm cúng. Việc con học đi, từng bước mỗi tiếng nói, cười được cha mẹ dìu dắt, chăm sóc. Cha mừng vui khi con học đi, cả đêm cha nằm thầm thì, từng bước của con là niềm hạnh phúc của cha.
Con trưởng thành trong lao động, công sức của cha mẹ, trong cảnh đẹp tự nhiên của quê hương. Nhìn con lớn lên, cha mẹ hạnh phúc. Con là cuộc sống, là tất cả với mẹ cha. Bà mẹ Tà ôi biểu lộ niềm vui khi con đang làm việc:
“Mặt trời trên đồi
Mặt trời của mẹ, con nằm trên lưng”.(Nguyễn Khoa Điềm)
Cha mẹ yêu con, yêu mảnh đất chôn nhau làm nên con người, làm nên mảnh đất của tổ tiên. Niềm tự hào về dân tộc mình lên tiếng từ trái tim chân thành của cha:
“Người đồng mình yêu con lắm
Đan lờ cài nan hoa
Khúc nhạc truyền đến góc nhà”.
Các động từ “cài”, “ken” vừa nói lên hành động cụ thể, vừa thể hiện sự hòa hợp, gắn kết giữa thực tế và lãng mạn trong cuộc sống vật chất và tinh thần của người miền cao. Cuộc sống tinh thần nên thơ, nên nhạc, giúp công việc trở nên nhẹ nhàng, và con người có thêm niềm vui, niềm tin vào cuộc sống. Người cha muốn nói với con rằng mảnh đất nơi ta lớn lên là nguồn hạnh phúc vô tận:
“Rừng nở hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất cuộc đời”.
Quê hương tạo nên cuộc sống hạnh phúc lâu dài cho cha mẹ. Trong hạnh phúc ấy, con cái là hoa trái, là kết quả ngọt ngào của tình yêu. Phẩm chất của người đồng mình và mong muốn của cha về con được thể hiện rõ nét qua từng câu thơ. Quê hương là niềm tự hào, và người cha muốn con hiểu rõ điều đó. Người cha nhắc nhở con xứng đáng với những điều tốt đẹp mà dân tộc đã truyền lại, và quê hương đã ban tặng:
“Người đồng mình thương con lắm
Cao đo lòng không buồn bã
Trời xa nuôi dưỡng tâm hồn lớn
Dẫu cuộc sống nhưng cha muốn
Sống trong điều kiện khó khăn
Nhưng sống tự do, vững vàng
Như dòng suối, như thác nước
Không lo sự vất vả”.
Đó là cách sống bản lĩnh, kiên cường vượt qua mọi khó khăn để khẳng định phẩm chất và giá trị của mình. Những thử thách, những khó khăn chỉ là cơ hội để người đồng mình trở nên vững mạnh, kiên trì, tự tin hơn, như lời của cụ Phan Bội Châu:
Đường đời bằng phẳng cả
Người anh hùng có hơn ai”.
Cha, mẹ và những người tiền bối đã sống như vậy. Cha muốn con phát huy phẩm chất ấy để trả ơn quê hương, đồng bào. Người cha còn giúp con hiểu biết: vẻ ngoài giản dị của người đồng mình chứa đựng một tâm hồn cao quý:
“Người đồng mình thô sơ như da thịt
Nhưng không có ai là nhỏ bé cả
Người đồng mình tự mình đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì trở thành phong tục”.
Người dân tộc sống giữa núi rừng, thiên nhiên hùng vĩ. Họ đã cống hiến tất cả để xây dựng quê hương từ không. Họ nghèo, nhưng giàu lòng kiên cường, sức sống bền bỉ, làm nên giá trị cao quý của truyền thống dân tộc và quê hương. Họ đã tự mình đi vào đá núi vĩnh cửu. Tinh thần ấy không khác gì tinh thần của Nguyễn Công Trứ:
“Mang tiếng ở trên trời đất
Phải có danh gì với núi sông”.
Sống trong một dân tộc giàu truyền thống như thế, thế hệ mới phải sống sao cho xứng đáng? Người cha nhắc nhở con:
“Con ơi, thô sơ nhưng da thịt
Hãy bước đi
Con không bao giờ là nhỏ bé, hãy lắng nghe”.
Ngắn gọn, tinh tế nhưng cảm nhận sâu sắc! Hãy giữ vững và phát huy tốt đẹp truyền thống của dân tộc, quê hương. Chỉ khi đó, con mới xứng đáng là người con thành công, đáp lại tình yêu của mẹ cha và người đồng bào. Hãy luôn nhớ về tình thương mà cha mẹ dành cho con để sống một cuộc đời đầy ý nghĩa:
“Nuôi con để đạt được mục tiêu vuông tròn
Mẹ thầy dầu dưỡng mòn cả xương
Con ơi, giữ trọn tấm lòng hiếu trung
Sớm và chiều học hỏi, đừng làm mất công mẹ thầy”.(Ca dao)


8. Phân Tích Bài Thơ 'Nói Với Con' của Y Phương Số 9
Y Phương, nhà thơ dân tộc Tày, sinh ra và lớn lên giữa vùng đất non cao. Với lối thơ mộc mạc, giản dị, ông đã gửi gắm tâm tư, tình cảm chân thành của con người nơi đây. Bài thơ Nói với con của ông nổi tiếng với tình cảm gia đình thiêng liêng và sâu sắc.
Nói với con là tác phẩm ông sáng tác khi đứa con đầu lòng ra đời. Bài thơ tràn ngập niềm hạnh phúc của một người cha lần đầu trải nghiệm hương vị làm cha. Đồng thời, nó còn là thông điệp về ý thức của người cha muốn truyền đạt, muốn con hiểu rõ về cội nguồn của mình và luôn tự hào về nơi sinh ra.
Bài thơ mở đầu bằng cách làm cho người con nhận ra rằng nguồn cội của mình là tình yêu thương của cha mẹ và sự đùm bọc của cộng đồng.
Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười
Với những hình ảnh cụ thể và sự lặp lại cấu trúc, Y Phương tạo ra một bức tranh gia đình tươi vui, ấm cúng và hòa quyện. Bốn dòng thơ liên tiếp qua các động từ 'bước, chạm, tới' và mục tiêu của người con là hai chữ đơn giản mà sâu sắc: mẹ - cha.
Điều giản dị đó có lẽ làm lộ ý nghĩa lớn lao và thiêng liêng: mẹ cha là đích đến, là nơi chúng ta tìm về, là chốn bình yên để chúng ta nương tựa sau những cơn bão cuộc đời.
Không chỉ thế, con còn được lớn lên trong sự cưu mang, đùm bọc của làng thôn xóm: 'Đan lờ cài nan hoa/.../Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời'. Cách gọi thân thiện 'người đồng mình' thể hiện tình cảm thân thiết, trìu mến của người dân tộc Tày. Họ là những người thuộc vùng miền, cùng một nền văn hóa.
Chỉ với bảy câu thơ, Y Phương đã làm thấy cuộc sống lao động vui vẻ, sôi động của họ. Họ đan lờ bằng nan hoa, ken vách nhà bằng những câu hát. Người đồng mình yêu lao động, yêu cái đẹp và biết cách làm cho cuộc sống trở nên phong cách. Và thiên nhiên mơ mộng, đầy tình nghĩa đã nuôi dưỡng con về tâm hồn, lối sống. Quê hương đã ban cho con những điều tốt đẹp nhất, như chiếc nôi thứ hai nuôi dưỡng con lớn lên.
Y Phương không chỉ giúp con hiểu về nguồn gốc của mình mà còn dạy con tự hào về những phẩm chất tốt đẹp của người đồng mình:
'Người đồng mình thương lắm con ơi/.../Còn quê hương thì con phải giữ phong tục'.
Người đồng mình có nhiều phẩm chất tốt đẹp: ý chí, kiên cường, bền bỉ. Những khó khăn, thách thức mà họ phải đối mặt trong cuộc sống chỉ là để kiểm tra bản lĩnh. Câu thơ chất chứa, sâu sắc, với tầm quan trọng cao thể hiện sự hiểu biết và đồng cảm với cuộc sống của những con người miền núi.
Cho dù cuộc sống gặp nhiều khó khăn, họ vẫn trung thành với quê hương. Từ 'sống' lặp lại như lời khuyên của cha về cách sống trong cuộc sống và kích thích sức sống mãnh liệt của con người trước khó khăn. Cha cũng mong muốn con luôn trung thành với làng quê, quê hương. Đặc biệt, hình ảnh so sánh 'như sông như suối' vẽ nên lối sống khoẻ mạnh của con người ở đây, thành ngữ 'lên thác xuống ghềnh' lại là biểu tượng cho cuộc sống lao động đầy vất vả. Nhưng họ vẫn lạc quan, yêu đời.
Câu thơ là lời khẳng định, lời ca tỏ lòng tự hào về vẻ đẹp của người đồng mình: họ luôn sống mạnh mẽ, trung thành với quê hương mặc cho bao khó khăn. Từ đó, cha muốn con hãy sống mạnh mẽ, vượt qua mọi khó khăn bằng ý chí và nghị lực. Đồng thời, hãy giữ vững truyền thống, giá trị văn hóa của người đồng mình.
Không chỉ thế, người đồng mình còn có nhiều phẩm chất khác khiến cha rất tự hào: mộc mạc, đầy chí khí, đầy niềm tin. Họ có vẻ ngoài thô sơ nhưng tâm hồn, ý chí của họ không hề nhỏ bé. Bằng sự lao động, kiên trì hàng ngày, họ đã làm nên quê hương với những phong tục tốt đẹp. Cha mong muốn con tiếp tục và phát triển truyền thống, sức sống bền bỉ, mạnh mẽ của người đồng mình. Hãy xem đó như là hành trang để tự tin bước vào cuộc sống.
Lời dặn dò của cha không chỉ ấm áp mà còn cứng cáp, nhắc nhở con rằng dù ngoại hình có thô sơ nhưng ý chí và nghị lực không bao giờ được nhỏ bé; con không bao giờ được sống tầm thường. Những lời khuyên, động viên đó là nguồn động viên mạnh mẽ giúp con tự tin bước vào cuộc sống.
Bằng ngôn ngữ giản dị, lối tư duy đơn giản, nhưng lời thơ chứa đựng ý nghĩa sâu sắc với người con. Những lời nói không chỉ là lời cha dành cho con mà còn là thông điệp gửi đến nhiều thế hệ.


9. Phân Tích Bài Thơ 'Nói Với Con' của Y Phương - Bài 8
Tình cảm gia đình luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho văn học. Bài thơ 'Nói với con' của Y Phương là một tác phẩm chân thành, tả đẹp những điều tốt đẹp nhất về tình cha con. Những bước chân nhỏ bé, những tiếng cười đáng yêu của đứa trẻ là hình ảnh tuyệt vời, là niềm hạnh phúc của cha mẹ.
Bài thơ không chỉ kể về cuộc sống tình thân mà còn về lao động vui tươi của người đồng mình. Họ là những người sống lạc quan, yêu đời, đắm chìm trong những công việc hằng ngày như đan lờ, cài nan hoa, và hát ca để tạo nên bức tranh vui tươi cho cuộc sống của họ.
Thiên nhiên hùng vĩ của quê hương không chỉ là một nguồn cảm hứng mà còn là nguồn năng lượng tinh thần cho con người. Bản làng thân thương, bảo bọc nhau như một gia đình lớn, là nơi nuôi dưỡng và giữ gìn những giá trị truyền thống.
Người đồng mình không chỉ có lòng kiên cường vượt qua khó khăn mà còn là người sống thủy chung với đất đai, với quê hương. Cuộc sống của họ có thể đầy gian truân, nhưng họ vẫn lạc quan, yêu đời, và biết trân trọng những giá trị đơn giản nhưng vô cùng quý báu.
Cha Y Phương truyền đạt tâm huyết và lòng tự hào về nguồn gốc, về con người và đất đai. Lời dặn dò cuối cùng như là một khích lệ, động viên đầy yêu thương: 'Con hãy tự tin, bước đi trên con đường đời. Dù thế nào, con cũng không bao giờ là nhỏ bé. Hãy lắng nghe, và hãy đi.'


10. Phân tích bài thơ 'Nói với con' của Y Phương số 11
Mỗi trái tim con người đều ghi chép hình ảnh quê hương, nơi mà tình yêu với mảnh đất và con người trở thành máu thịt của chúng ta. Nhà thơ Y Phương, trong bài thơ 'Nói với con', đã chia sẻ những cảm xúc chân thành về quê hương qua lời tâm huyết dành cho đứa con thân yêu.
Y Phương, con người của dân tộc Tày, chào đời tại tỉnh Cao Bằng. Năm 1980, trong bối cảnh đất nước mới thoát khỏi cuộc chiến tranh chống Mỹ khó khăn, đời sống tinh thần và vật chất của nhân dân gặp nhiều thách thức. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Y Phương đã sáng tác bài thơ để chia sẻ tâm tư, động viên bản thân và truyền đạt những bài học cho thế hệ sau.
Chẳng những là nguồn cảm hứng cho sự sống sót, quê hương còn là nơi sinh sống của những tình cảm hạnh phúc, ấm áp, với cha mẹ và âm thanh vui tươi của đứa trẻ:
'Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước chạm tiếng cười'
Bức tranh gia đình trở nên ý nghĩa hơn với sự xuất hiện của đứa trẻ, kết tinh của tình yêu cha mẹ. Họ là nguồn động viên, là niềm tự hào của những người sinh thành. Bài thơ diễn đạt hình ảnh đáng yêu khi đứa trẻ bắt đầu bước chân đầu tiên, mang đầy ý nghĩa về sự lớn lên và những khó khăn trên đường đời.
'Tiếng nói', 'tiếng cười' không chỉ là những niềm vui, mà còn là sự động viên, an ủi của cha mẹ dành cho đứa con. Cuộc sống không phẳng lẳng, và cha mẹ luôn muốn đưa cho con những điều tích cực nhất từ tình yêu và kinh nghiệm của họ.
Bài thơ nói về sự gắn bó của đứa con với cộng đồng, với những người xung quanh:
'Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát'
Mở rộng ra, 'người đồng mình' không chỉ là những người cùng vùng miền, mà còn là những người chung quê hương, chung đất đai. Đứa trẻ không chỉ được nuôi dưỡng bởi tình yêu của cha mẹ mà còn được xây dựng trong sự thân thuộc, nghĩa tình của những người xung quanh. Cuộc sống của họ liên quan mật thiết với núi rừng, với thiên nhiên. Họ lao động chăm chỉ với những công việc như đan nan tre vót tròn để làm dụng cụ bắt cá, và sử dụng gỗ để xây dựng những ngôi nhà chắc chắn.
Bài thơ tạo ra hình ảnh sống động về cuộc sống đơn sơ nhưng không kém phần hạnh phúc của họ, với những đức tính như lòng nhân ái, lòng chia sẻ, và tình đoàn kết. Cụm từ 'người đồng mình' không chỉ là biểu hiện của mối quan hệ hàng xóm, mà còn là biểu tượng của sự đoàn kết trong cộng đồng.
Bài thơ nhắc nhở đứa con về giá trị của quê hương:
'Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng'
Ngoài việc cung cấp nguồn gỗ và thực phẩm, núi rừng của quê hương còn tạo nên vẻ đẹp của thiên nhiên và tình yêu của con người. Mỗi con đường là hành trình của đời, điểm dừng để về bản, đến trường, xuống suối, lên nương... Tất cả những con đường ấy đều mang theo bước chân, tiếng nói và tình đoàn kết của 'người đồng mình'.
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới, ngày đầu tiên trên đời. Ngày cưới không chỉ là dịp quan trọng nhất trong cuộc đời mỗi người, mà còn là dịp để kết nối tình yêu với quê hương. Đứa con được sinh ra và lớn lên từ tình yêu của bố mẹ và sự nghĩa tình của quê hương.
Bài thơ vinh danh những phẩm chất cao quý của 'người đồng mình':
'Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc'
Bài thơ tôn vinh 'người đồng mình' và những phẩm chất đáng quý của họ. Dù cuộc sống có khó khăn, họ vẫn giữ vững lòng quyết tâm, sống với niềm tự hào và lòng yêu quê hương. Những hình ảnh như 'đá gập ghềnh', 'thung nghèo đói', 'lên thác xuống ghềnh' tạo ra bức tranh về sự bền bỉ và quả cảm của họ.
Người cha truyền đạt lời khuyên sâu sắc cho đứa con:
'Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con'
Cha mong muốn con sống với lòng tự hào dân tộc, vượt qua khó khăn bằng ý chí và sức mạnh nội tâm. Đứa con không nên quên nguồn cội, quê hương của mình, vì quê hương là nơi nuôi dưỡng sự trưởng thành của con. Cha mẹ và truyền thống dân tộc sẽ luôn là người bạn đồng hành cùng con trên hành trình đời.
Y Phương, thông qua bài thơ 'Nói với con', đã thể hiện tình cảm gia đình, ca ngợi truyền thống đẹp đẽ và sức sống mạnh mẽ của quê hương. Ông muốn chia sẻ những giá trị quý báu từ cuộc sống và văn hóa của những người con dân tộc miền núi.


11. Phân tích bài thơ 'Nói với con' của nhà thơ Y Phương
Trong thơ Đỗ Trung Quân, quê hương không chỉ là chùm khế ngọt mà còn là bức tranh đẹp của tình cha con, tình đồng bào miền núi. Khám phá cùng Y Phương, ta như được trải nghiệm hương vị tình quê, những ngày cùng cha mẹ vượt lên trên đá và gập ghềnh cuộc sống. Tình cảm tự nhiên, giản dị nhưng ấm áp, đậm chất dân tộc.
Không chỉ là bức tranh về quê hương, 'Nói với con' còn là câu chuyện về những nỗ lực vươn lên, làm giàu đất đai và tâm hồn. Dưới bàn tay khéo léo, nan tre trở thành 'nan hoa', vách nhà ken câu chuyện hồn nhiên của dân làng. Cảm xúc chan chứa trong từng dòng thơ như là lời nhắc nhở về sự quý báu của truyền thống, giáo dục con cháu giữ gìn và phát huy những giá trị quý báu ấy.
'Người đồng mình thương lắm con ơi', tiếng gọi thân thương như là cầu kỳ nhấn mạnh lòng yêu thương, gắn bó giữa cha con và đồng bào miền núi. Câu thơ cuối cùng như một lời khuyên chân tình: 'Lên đường, con ơi, không bao giờ nhỏ bé được. Nghe con.' - Mời gọi mỗi người con hãy vững bước trên con đường cuộc sống, đồng lòng xây dựng và giữ lấy tình yêu quê hương.
Bài thơ 'Nói với con' của Y Phương là một bản hòa nhạc tình quê, là lời ca ngợi đẹp của đồng bào miền núi, mang lại niềm tự hào và yêu thương sâu sắc với quê hương Việt Nam.


12. Phân tích bài thơ 'Nói với con' của Y Phương - Bài 12
Y Phương (sinh ngày 24/12/1948), tên thật là Hứa Vĩnh Sước, là một trong những nhà thơ dân tộc nổi tiếng của văn hóa Việt Nam hiện đại. Ông sinh sống và lớn lên trong vùng đất của người Tày, nơi thăng trầm của đời sống dân dụ, tạo nên bản sắc thơ ca tinh tế, chân thành, và gần gũi với trái tim dân miền núi.
Ngay từ những dòng đầu tiên, Y Phương đã đưa độc giả bước chân vào không gian tâm hồn của ông, nơi tận cùng tình yêu thương, sự thuần khiết, và lòng chân thành. Những bức tranh thơ phong phú và độc đáo, như những sợi chỉ thủ công xen kẽ, tạo nên những tác phẩm có độ nhân văn cao. 'Nói với con' là một trong những bài thơ xuất sắc, khuấy động tên tuổi của Y Phương trên bảng đồ thơ Việt Nam. Đó là giọng thơ như lời tâm tình, dành riêng cho đứa con yêu thương.
Từng câu thơ truyền đạt đầy đủ tình cảm gia đình thâm thiết, ấm áp, mở ra không gian lớn hơn về tình yêu quê hương và con người nơi miền núi cao. 'Nói với con' không chỉ là bài thơ thắm thiết, mà còn là những lời dạy bảo chân thành của người cha về văn hóa, đất đai, và sự quý báu của những dòng họ nơi vùng cao núi Bắc.
Bằng những hình ảnh ấm áp, tình cảm lắng đọng, Y Phương mở đầu bài thơ bằng những khoảnh khắc hạnh phúc, những bước chân đầu tiên của đứa con kết nối với thế giới xung quanh. Câu thơ:
“Chân phải bước tới cha
Chân trái bước tới mẹ
Một bước chạm tiếng nói
Hai bước tới tiếng cười”
là bức tranh sinh động về niềm hạnh phúc, sự kỳ diệu của những khoảnh khắc ngày đầu đời.
Y Phương không chỉ là nhà thơ mà còn là người làm thức tỉnh những giá trị tinh thần của cộng đồng dân tộc. “Người đồng mình” trong bài thơ không chỉ đơn thuần là những con người gần gũi với tự nhiên và đời sống, mà còn là biểu tượng của lòng tự hào, sức sống và ý chí kiên cường.
“Người đồng mình yêu lắm con ơi
Đan lờ cài nan hoa
Vách nhà ken câu hát
Rừng cho hoa
Con đường cho những tấm lòng
Cha mẹ mãi nhớ về ngày cưới
Ngày đầu tiên đẹp nhất trên đời”
thể hiện những giá trị văn hóa, truyền thống đậm chất dân tộc, nơi mỗi hành động hàng ngày của 'người đồng mình' trở nên thiêng liêng và đẹp đẽ. Những chi tiết nhỏ như việc đan lờ cài nan hoa, vách nhà ken câu hát, đến những hình ảnh lãng mạn về ngày cưới, tất cả kết hợp tạo nên một bức tranh sống động về cuộc sống miền núi tươi đẹp.
“Người đồng mình thương lắm con ơi
Cao đo nỗi buồn
Xa nuôi chí lớn
Dẫu làm sao thì cha vẫn muốn
Sống trên đá không chê đá gập ghềnh
Sống trong thung không chê thung nghèo đói
Sống như sông như suối
Lên thác xuống ghềnh
Không lo cực nhọc
Người đồng mình thô sơ da thịt
Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con
Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương
Còn quê hương thì làm phong tục”
là những dòng thơ chứa đựng tình yêu thương, tôn vinh sức mạnh tinh thần và lòng kiên cường của 'người đồng mình'. Chúng là lời nhắc nhở cho đời sống hiện đại về sự quý báu của giá trị truyền thống, nơi con người giữ gìn và phát triển 'cha ông để lại' với lòng tự hào và trách nhiệm.
“Con ơi tuy thô sơ da thịt
Lên đường
Không bao giờ nhỏ bé được
Nghe con.”
là lời hướng dẫn cuối cùng của người cha, truyền đạt tầm quan trọng của sự tự hào, lòng kiên nhẫn, và ý chí vươn lên. Y Phương không chỉ là nhà thơ của miền núi Việt Nam, mà còn là người hướng dẫn, tình yêu thương và sự truyền cảm hứng cho thế hệ sau vững bước trên con đường xây dựng và bảo tồn văn hóa dân tộc.

