1. Bài viết thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi số 1


3. Bài văn thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi số 4
Nguyễn Trãi, sinh năm 1380 và qua đời năm 1442, tên tự Ức Trai, là nhân vật lịch sử lỗi lạc ở thời kỳ dân tộc chấn hưng, trải qua thời kỳ Trần, Hồ, và đầu thời Lê. Cha ông, Nguyễn Ứng Long (hiệu Nguyễn Phi Khanh), xuất thân từ xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, Hải Dương, sau đó chuyển đến làng Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Tây cũ. Nổi tiếng với tài hay chữ, ông được Trần Nguyên Đán chọn làm rể. Năm 1374, ông đỗ bảng nhãn nhưng không được làm quan, quay về quê dạy học. Năm 1385, ông nội Nguyễn Trãi là Trần Nguyên Đán ẩn nấp ở Côn Sơn, mang theo cả
Nguyễn Trãi, từ nhỏ cuộc sống của ông liên quan chặt với Côn Sơn. Năm 1390, ông nội Trần Nguyên Đán qua đời, Nguyễn Trãi về sống cùng cha. 1400, Hồ Quý Li chiếm nhà Trần, thành lập triều Hồ, mở khoa thi, Nguyễn Trãi đỗ Thái học. 1401, Nguyễn Ứng Long đổi tên thành Ngụyễn Phi Khanh, cả cha và chơi chơi xổ sốu được mời làm quan. Năm 1407, quân Minh xâm lược, cha con Hồ Quý Li bị bắt, Nguyễn Phi Khanh cũng bị bắt. Nguyễn Trãi dự định theo cha nhưng Nguyễn Phi Khanh khuyên con quay về để chuộc tội cho nước, trả thù cho cha. Trên đường về, Nguyễn Trãi bị quân Minh bắt, giam giữ ở thành Đông Quan, bị mua chuộc để làm quan cho quân Minh, nhưng ông từ chối. Năm 1417, Nguyễn Trãi trốn khỏi Đông Quan, tìm đường giúp Lê Lợi, đưa Bình Ngô sách cho Lê Lợi.
Trong hành trình chống quân Minh, Nguyễn Trãi trở thành chiến lược gia quân sự cho Lê Lợi, thay mặt Lê Lợi thực hiện giao dịch, trở thành tư lệnh xuất sắc. Năm 1427, chiến dịch chống quân Minh thành công, Nguyễn Trãi viết “Bình ngô đại cáo” thay mặt Lê Lợi. Lê Lợi lên ngôi vua, Nguyễn Trãi giữ trọng trách quan trọng trong nước. Các năm sau, ông giúp Lê Lợi cai trị đất nước. Năm 1429, Nguyễn Trãi viết chiếu cầu tài năng. Năm 1430, viết chiếu chống tham nhũng của quan đại thần. Sau đó, triều đình bắt đầu mối mọi, đối đầu, nghi kị, đặc biệt là một số quan công bị hại. Nguyễn Trãi tuy có chuyển về Côn Sơn sống ẩn mình, nhưng lòng vẫn theo dõi tình hình quốc gia. Năm 1440, vua Lê Thái Tông hiểu biết tài năng của Nguyễn Trãi, mời ông làm quan. Mặc dù đã già nhưng Nguyễn Trãi vẫn hết lòng phục vụ. Năm 1442, Nguyễn Trãi về kinh đô làm chủ kì thi hội. Người vợ của ông, Nguyễn Thị Lộ, được làm quan Lễ nghi nữ học sĩ, chăm sóc giáo dục các cung nữ. Trong cùng năm, Lê Thái Tông thăm Côn Sơn của Nguyễn Trãi và trở về thì mất đột ngột ở vườn vải (Lệ Chi viên). Sau đó, triều đình buộc tội ông mưu sát vua, xử tử ông và gia đình.
Cuộc đời Nguyễn Trãi gắn liền với những biến cố lịch sử của dân tộc. Ông là anh hùng lớn của dân tộc, là một đại tài toàn diện trong lịch sử Việt Nam thời kỳ phong kiến. Nguyễn Trãi không chỉ là chính trị gia, tướng lĩnh xuất sắc, mà còn là nhà ngoại giao, người hùng văn hóa của dân tộc. Ông đã chịu nhiều gian khổ nhưng vẫn dành trọn tâm huyết cho dân tộc. Năm 1962, Việt Nam tổ chức kỷ niệm 520 năm Nguyễn Trãi qua đời. Năm 1980, Việt Nam cùng UNESCO tổ chức kỷ niệm 600 năm Nguyễn Trãi ra đời. Nguyễn Trãi là người Việt Nam đầu tiên được ghi tên trong danh sách những danh nhân thế giới.
Nguyễn Trãi để lại di sản văn hóa với lượng tác phẩm lớn và đa dạng. Ông là tác giả chủ yếu trong các tác giả văn học cổ, viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. Các tác phẩm chữ Hán nổi bật là văn chính luận, được in trong tập Quân trung từ mệnh, bao gồm khoảng 70 bài, chủ yếu là thư gửi tướng tá nhà Minh. Bộ Lam Sơn thực lục là bộ sưu tập sự kiện lịch sử toàn bộ cuộc kháng chiến chống Minh, đặc biệt là Bình Ngô đại cáo. Bộ Dư địa chí bao gồm kiến thức địa lí, lịch sử, dân tộc học có giá trị lớn. Ức Trai thi tập gồm hơn 100 bài thơ chữ Hán đặc sắc. Các tác phẩm chữ Nôm nổi bật là Quốc âm thi tập với khoảng 254 bài thơ. Ngoài ra, một số sáng tác của Nguyễn Trãi đã bị mất trong vụ án Lệ Chi viên. Năm 1467, Lê Thánh Tông mới tập hợp lại và sưu tầm thơ của Nguyễn Trãi sau khi đã lấy lại công bằng cho ông.
Thơ của Nguyễn Trãi thể hiện tình yêu nước và lòng nhân ái sâu sắc. Yêu nước trong thơ của ông không chỉ là một ý tưởng trừu tượng mà liên quan chặt với trách nhiệm lịch sử cụ thể. Yêu nước đồng nghĩa với tình nhân nghĩa, thù giặc, chiến đấu không khuất phục, và ý thức tự lực, tự cường, khao khát hòa bình sâu sắc. Chủ nghĩa yêu nước trong thơ văn của Nguyễn Trãi thể hiện rõ ở tính chiến đấu mạnh mẽ và tư duy lạc quan. Các tác phẩm thơ của ông là bản nguyên tắc của truyền thống yêu nước trong văn hóa và lịch sử, đặt nền móng cho thơ yêu nước thế kỷ XV. Thơ của ông không chỉ là biểu hiện của nỗi buồn về số phận cá nhân mà còn là tiếng nói bi phẫn, đau thương, thể hiện mong muốn tự do và tình yêu thiên nhiên, con người mạnh mẽ, chân thành. “Có người nói thơ của Nguyễn Trãi buồn vì cuộc đời ông buồn.
Thơ của Nguyễn Trãi có những bài buồn, câu chuyện buồn, vì lý do mà chúng ta đều biết, nhưng toàn bộ tập thơ của ông là biểu hiện của một tâm hồn yêu đời, yêu người. Tâm hồn của Nguyễn Trãi đồng điệu với non sông, đất nước hạnh phúc” (Phạm Văn Đồng). Nguyễn Trãi từ ngày xưa đến nay và mãi mãi là một đại thi hào của dân tộc. Sự vĩ đại của ông không chỉ ở tài năng mà còn ở tâm hồn, trái tim lớn lao. Ông là biểu tượng của anh hùng dân tộc với “tâm hồn cao cả thời đại, hình tượng con người đích thực của Việt Nam, chân chính với đất Việt Nam” (Phạm Văn Đồng).


3. Bài văn thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi số 2
Dưới bức tranh văn hóa Việt Nam tỏa sáng, có một ngôi sao rực rỡ. Nó lóe lên từ thế kỷ XV và tỏa sáng nhất trong thế kỷ này, đó là sao Khuê — Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi, tên khai sinh là Ức Trai, sinh năm 1380, quê gốc là làng Chi Ngại (nay thuộc Chí Linh, Hải Dương), sau chuyển về làng Ngọc Ổi (nay thuộc xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, Hà Tây). Cha ông là Nguyễn Ứng . Long (sau đổi tên thành Nguyễn Phi Khanh), học trò nghèo, thi đỗ Thái học sinh, mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, dòng dõi quý tộc.
Nguyễn Trãi sống và lớn lên trong một thời kỳ biến động. Nhà Trần suy vi, Hồ Quý Li lên thay, lập nhà Hồ. Năm 1400, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh. Cha con Nguyễn Trãi làm quan cho nhà Hồ.
Khi quân Minh xâm lược, cha con Hồ Quý Li và triều thần bị đưa sang Trung Quốc, trong đó có Nguyễn Phi Khanh. Nguyễn Trãi và em Nguyễn Phi Hùng theo cha sang Trung Quốc, nhưng tại ải Nam Quan, cha dặn phải tìm cách rửa nhục cho nước, ông trở vẻ và bị bắt giữ. Sau đó, Nguyễn Trãi bỏ trốn theo Lê Lợi, đóng góp lớn trong cuộc kháng chiến Lam Sơn, trở thành quân sư số một của Lê Lợi. Tuy nhiên, sau khi đánh Minh, ông không có cơ hội thực hiện hoài bão vì bị Lê Lợi thanh trừng trong vụ án Lệ Chi Viên năm 1442, mất mạng oan trái.
Nguyễn Trãi là nhà sáng tác thơ văn nhiều lĩnh vực. Ông viết nhiều tác phẩm về quân sự và chính trị, như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, tham gia viết Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng. Ông cũng để lại những tác phẩm văn học như Ức Trai thi tập (thơ chữ Hán) và Quốc âm thi tập (thơ chữ Nôm).
Tư tưởng của Nguyễn Trãi xoay quanh nhân nghĩa, triết lý về thế sự và tình yêu thiên nhiên. Ông tôn vinh nhân nghĩa, đề cao lòng yêu nước và tình thương dân. Thơ văn của ông còn thể hiện triết lí sâu sắc về thế sự, nhân sinh, và tình yêu thiên nhiên. Nguyễn Trãi là người đầu tiên Việt hóa thể thơ thất ngôn xen lục ngôn.
Ông để lại những tác phẩm văn hóa quan trọng cho Việt Nam, mặc dù nhiều tác phẩm đã bị tiêu hủy và không được trân trọng ngay sau khi mất. Năm 1980, ông được UNESCO công nhận là Danh nhân văn hóa thế giới, là một nhà văn vĩ đại khởi đầu cho thi ca Việt Nam.


4. Bài văn thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi số 5
Nguyễn Trãi, người tận trung yêu nước, là nhà quân sự tài ba và văn hào lỗi lạc. Ông để lại dấu ấn lớn trong lịch sử dân tộc, nhưng cũng chịu nhiều oan uổng.
Nguyễn Trãi, hiệu Ức Trai, sinh năm 1380 và mất năm 1442, quê ở Nhị Kê (Hà Tây). Phụ thân là Nguyễn Phi Khanh, phụ mẫu là Trần Thị Thái, cháu ngoại của Trần Nguyên Đán, xuất thân từ dòng dõi quý tộc. Ông đỗ Thái học sinh năm 1400 và đã đồng hành với gia đình làm quan với nhà Hồ.
Thời gian giặc Minh xâm lược, Nguyễn Phi Khánh bị bắt, Nguyễn Trãi đi theo chăm sóc cha và trở thành anh hùng giữ nước. Sau chiến thắng, ông rời làng quan, sống ẩn dật. Năm 1440, Lê Thái Tông mời ông trở lại, và Nguyễn Trãi đã đóng góp lớn trong việc trị vì.
Chuyện bế tắc xuất hiện khi nhà vua chết, và Nguyễn Trãi bị vu oan giết vua. Ông chịu 20 năm oan trái, đến năm 1464 mới được giải tỏa và được công nhận công lao.
Nguyễn Trãi để lại nhiều tác phẩm quý giá. Tác phẩm 'Quân trung từ mệnh tập' gồm thư từ và giấy tờ giao thiệp. 'Bình ngô đại cáo' là tác phẩm tổng kết chiến công chống quân Minh, mở ra kỉ nguyên mới cho nước nhà. Về lịch sử, ông viết 'Lam Sơn thực lục' và 'Dư địa chí'. Về văn học, Nguyễn Trãi có 'Ức trai thi tập' và 'Quốc Âm thi tập'.
Thơ văn Nguyễn Trãi thấm đẫm tư tưởng nhân nghĩa, triết lí thế sự và tình yêu thiên nhiên. Ông coi thiên nhiên là bầu bạn, để lại nhiều tác phẩm trữ tình, trí tuệ, hào hùng và lãng mạn. Ông sáng tạo hình thức thơ thất ngôn xen lục ngôn và là người đầu tiên đưa tục ngữ vào tác phẩm.
Nguyễn Trãi, danh nhân văn hóa thế giới năm 1980, là người tài đức, trí dũng và hết lòng vì dân tộc.


5. Tản mạn về nhà văn tài năng - Nguyễn Trãi
Trong hành trình xây dựng và bảo vệ đất nước, tên tuổi Nguyễn Trãi tỏa sáng như mặt trời. Ông, người có trí tuệ tinh tế và phẩm chất cao quý, là niềm kiêu hãnh của dân tộc Việt Nam. Không chỉ là chính trị gia và nhà quân sự xuất sắc, Nguyễn Trãi còn là một tác giả tài năng với nhiều tác phẩm bất hủ.
Nguyễn Trãi, hay còn được biết đến với hiệu ức Trai, sinh năm 1380, là một con người xuất thân từ gia đình trí thức yêu nước. Cha ông, Nguyễn Phi Khanh, là học trò nghèo đỗ Thái học sinh, mẹ là Trần Thị Thái, con gái của quan Tư Đồ Trần Nguyên Đán. Quê gốc của Nguyễn Trãi là làng Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Tuy nhiên, ông sinh ra và lớn lên tại Thăng Long.
Đời sống của Nguyễn Trãi đầy gian nan và thách thức. Mất mẹ từ khi mới 5 tuổi, ông trải qua những khó khăn và thử thách. Năm 1400, ông đỗ Thái học sinh, và sự nghiệp của ông bắt đầu nảy lên. Tuy nhiên, giặc Minh xâm lược nước ta, và Nguyễn Trãi cùng cha bắt buộc phải chống lại. Ông góp phần quan trọng trong cuộc kháng chiến và là người có chiến lược khôn khéo giúp Lê Lợi đánh bại quân Minh.
Sau chiến thắng, ông chán nản với cuộc sống quan trường và chọn về ẩn dật. Tuy nhiên, vua Lê Thái Tông lại mời ông trở lại với sứ mệnh lớn. Ông đóng góp tích cực trong việc trị vì đất nước. Thế nhưng, án oan đã đổ xuống, và Nguyễn Trãi cùng gia đình phải chịu những đau đớn không tưởng. Cho đến năm 1464, Lê Thánh Tông mới minh oan cho ông và bổ nhiệm ông làm quan.
Nguyễn Trãi không chỉ là nhà chính trị và quân sự, ông còn để lại cho chúng ta những tác phẩm văn hóa có giá trị. Tác phẩm 'Quân trung từ mệnh tập' là bằng chứng rõ ràng về chiến lược ngoại giao tài tình của ông. 'Bình ngô đại cáo' là một kiệt tác văn học có tầm ảnh hưởng lớn. Những bài thơ của Nguyễn Trãi không chỉ làm đẹp thêm cho văn hóa nước ta mà còn chứa đựng tâm huyết, tư tưởng nhân nghĩa và yêu nước.
Nguyễn Trãi, danh nhân văn hóa thế giới, là người để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Tên tuổi của ông như một ngôi sao sáng bừng, ánh hào quang không bao giờ phai nhạt. Cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Trãi sẽ luôn là nguồn cảm hứng và tự hào cho chúng ta, những người con của dân tộc Việt Nam.


6. Tổng quan về tác giả Nguyễn Trãi số 7
Nói về Nguyễn Trãi, chúng ta như kể về một huyền thoại sống của dân tộc, là biểu tượng văn hoá toàn cầu. 'Nguyễn Trãi là linh hồn Việt Nam, với tâm hồn bay bổng trong thời kỳ lịch sử đặc biệt đó' (Phạm văn Đồng).
Nguyễn Trãi (1380 – 1442) hiệu là ức Trai, quê gốc ở Chi Ngại (Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Nội). Ông là biểu tượng của một gia đình yêu nước, văn hoá và truyền thống văn học. Thân sinh là Nguyễn úng Long (sau đổi là Nguyễn Phi Khanh), một nho sinh nghèo, thi đỗ thái học sinh. Mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.
Cuộc đời Nguyễn Trãi đầy biến động: từ cốc bản trong gia đình (mẹ mất khi ông 5 tuổi, và sau đó cha và em bị bắt sang Trung Quốc). Đất nước cũng trải qua biến cố: nhà Hồ thay thế nhà Trần, giặc Minh xâm lược, Lê Lợi lập nên triều Hậu Lê. Trong thời bình, triều đình chia rẽ, rối ren. Nguyễn Trãi đã ghi danh vào lịch sử từ lời dặn của cha năm 1407. Ông tham gia khởi nghĩa Lam Sơn và chống giặc Minh, có đóng góp lớn từ năm 1417 với tư cách là một quân sư tài ba. Cuối năm 1427, ông viết Bình Ngô đại cáo theo lệnh Lê Lợi. Sau đó, ông tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng đất nước.
Thế nhưng, ông không thực hiện được ước mơ trong thời bình. Mâu thuẫn nội bộ dẫn đến sự ám sát các công thần. Nguyễn Trãi bị buộc tội và giam giữ, nhưng sau đó được tha. Vì tình thế, ông rút lui sống ẩn dật tại Côn Sơn. Vài tháng sau, vua Lê Thái Tông triệu ông ra làm việc. Tuy nhiên, ba năm sau đó (1442), vua đột tử và Nguyễn Trãi bị buộc tội và xử quyết. Năm 1464, Lê Thánh Tông minh oan cho ông và sưu tập lại thơ văn của ông.
Ông là một anh hùng dân tộc và đã có đóng góp lớn vào lịch sử vẻ vang của triều Hậu Lê. Ông cũng là người chịu nhiều oan trái nhất trong lịch sử. Bên cạnh đó, ông còn là một nhân vật toàn diện với nhiều đóng góp xuất sắc ở mọi lĩnh vực: chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hoá, văn học. Năm 1980, ông được UNESCO công nhận là danh nhân văn hoá thế giới.
Ông là một nhà văn lớn với tác phẩm đa dạng, sáng tác bằng chữ Hán và chữ Nôm, trong văn chính luận và thơ trữ tình. Những tác phẩm chữ Hán như Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo Bình Ngô, ức Trai thi tập, Lam Sơn thực lục, Văn bia Vĩnh Lăng… Thơ Nôm như Quốc âm thi tập (254 bài thơ) theo thể loại Đường luật. Ông còn để lại bộ Dư địa chí – một bộ sách cổ nhất về địa lí Việt Nam. Nguyễn Trãi được biết đến là nhà văn chính luận xuất sắc, với các tác phẩm như Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo Bình Ngô, Chiếu biểu.
Về giá trị nội dung, những văn chính luận của ông đóng góp lớn cho chiến đấu và xây dựng đất nước trong thời Hậu Lê. Quân trung từ mệnh tập là bộ thư từ gửi tướng giặc và giấy tờ giao thiệp với triều đình Minh. Bình Ngô đại cáo được coi là tuyên ngôn độc lập thứ hai của Việt Nam, là bản cáo trạng đánh giặc và là bản hùng ca về khởi nghĩa Lam Sơn. Giá trị của những tác phẩm này nằm ở tư tưởng nhân nghĩa và yêu nước. Nghệ thuật viết văn của Nguyễn Trãi rất hấp dẫn, với cấu trúc chặt chẽ, lập luận sắc bén và bút pháp linh hoạt.
Thơ văn của Nguyễn Trãi là tâm hồn của ông, tràn đầy sức sống. Cả Quốc âm thi tập và ức Trai thi tập đều ghi lại hình ảnh một Nguyễn Trãi vừa là anh hùng vĩ đại, vừa là con người trần thế. Ông thể hiện lý tưởng anh hùng qua sự kết hợp giữa nhân nghĩa và yêu nước. Đồng thời, ông còn thể hiện phẩm chất anh hùng qua sự mạnh mẽ, kiên trung, chiến đấu vì nước, vì dân chống giặc và chống cường quyền bạo ngược.
Hòa mình với con người anh hùng, Nguyễn Trãi cũng là người đau xót với đau thương con người và yêu thương cuộc sống. Ông xót xa trước đau đớn của đời sống: 'Phượng những tiếc cao diều hãy liệng/ Hoa thường hay héo cỏ thường tươi'. Ông khao khát một cuộc sống thịnh trị cho dân: 'Rượu năm ba chén đổi công danh! cầu một ngày coi đời thái bình'.
Tình yêu của Nguyễn Trãi không chỉ dành cho thiên nhiên, đất nước mà còn dành cho con người, cuộc sống. Ông xem thiên nhiên như người bạn tri kỉ để gửi gắm triết lí và tình cảm. Thiên nhiên trong thơ Nôm của ông tạo nên một môi trường sống thanh cao, nơi con người giữ vững vẻ đẹp trong sáng trong tâm hồn: 'Quét trúc bước qua dòng suối/ Thưởng mai về đạp bóng trăng'. Nguyễn Trãi đến với thiên nhiên như với người tri kỉ, để gửi gắm triết lí và tình cảm thân thiết: 'Cò nằm hạc lẩn nên bầu bạn/ ú ấp cùng ta làm cái con'. Nguyễn Trãi luôn dành tình cảm ấm áp cho bạn bè, người thân, làng xóm và quê hương.
Nguyễn Trãi, một danh nhân văn hoá lớn của dân tộc, đã trở thành hiện tượng văn học kết tinh truyền thống văn học Lý – Trần và mở đầu cho một giai đoạn mới. Văn chương của ông hội tụ hai nguồn cảm hứng: yêu nước và nhân đạo. Ông đã đưa ý thức dân tộc lên đến đỉnh cao kết tinh tư tưởng Việt Nam thời trung đại. Về nghệ thuật, Nguyễn Trãi là người đầu tiên đặt nền móng cho thơ ca tiếng Việt ở cả hai mặt ngôn ngữ và thể loại. Ông để lại tập thơ Nôm sớm nhất, làm di sản thơ Nôm Việt Nam độc đáo. Cho đến ngày nay, chúng ta vẫn tiếp tục trân trọng và phát huy những thành tựu văn hóa và thơ ca của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi, với vị thế người anh hùng dân tộc và cũng là người oan khuất nhất trong lịch sử, vẫn còn tồn tại mãi với thời gian. Nguyễn Trãi là biểu tượng của anh hùng vĩ đại và cũng là người anh hùng bị oan khuất nhất trong lịch sử. Thơ chữ Hán và chữ Nôm của ông, chính luận hay trữ tình, đều phản ánh vẻ đẹp tâm hồn của một con người đặc biệt, vừa là nhà thơ kiệt xuất, vừa là danh nhân văn hoá thế giới. Ông là bông hoa đầu mùa của thơ Nôm Việt Nam.


7. Bài viết thuyết minh về nhà văn Nguyễn Trãi số 6
Trái tim cao quý của Ức Trai vẫn lưu giữ tình yêu với quê hương, đất nước
Nguyễn Trãi, không chỉ là nhà quân sự xuất sắc, mà còn là con người trung hiếu, tận trung với đất nước và nhân dân. Văn võ song toàn, ông để lại dấu ấn lớn trong lịch sử nước nhà với những chiến công vẻ vang. Ngoài tài năng quân lược, ông còn là một nhà ngoại giao khéo léo, và người viết văn uyên bác. Nguyễn Trãi, một anh hùng của dân tộc, nhưng cũng là nạn nhân của những bất hạnh oan trái trong lịch sử.
Nguyễn Trãi không chỉ sở hữu tài năng chính trị và quân sự xuất chúng mà còn là một nhà quản thanh liêm, hết lòng vì dân vì nước. Ông sinh năm 1380, quê gốc ở Chí Linh – Hải Dương, và sau đó chuyển về Hà Tây. Gia đình ông có truyền thống yêu nước và văn hóa. Cha là Nguyễn Phi Khanh, một nhà thái học đời Trần, và mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi đã phải trải qua những mất mát đau thương từ nhỏ, nhưng đó chính là động lực cho sự nghiệp lớn lao của ông sau này.
Năm 1400, Nguyễn Trãi đỗ Thái học sinh và cùng cha làm quan cho nhà Hồ. Tuy nhiên, vào năm 1407, giặc Minh xâm lược, ông chứng kiến cha mình bị bắt và đưa sang Trung Quốc. Đây là thời điểm ông bắt đầu tham gia nghĩa quân Lam Sơn, hành trình đầy gian nan nhưng ý nghĩa, nơi ông khẳng định lòng yêu nước và hy sinh cho tình cảm với đất nước.
Nguyễn Trãi nổi tiếng với chiến lược quân sự thông minh, lời văn tinh tế của một nhà ngoại giao, và lòng yêu nước sâu sắc. Ông tham gia vào khởi nghĩa Lam Sơn từ năm 1427, và đầu năm 1428, Nguyễn Trãi thừa lệnh của vị vua tài năng Lê Lợi viết nên 'Bình Ngô đại cáo'. Điều này chứng minh tầm ảnh hưởng lớn của ông trong sự kiện lịch sử quan trọng của nước ta.
Tuy nhiên, cuộc đời của Nguyễn Trãi không chỉ toàn những thăng trầm vinh quang. Năm 1439, triều đình rối ren, gian thần quyền quý, và Nguyễn Trãi rời về Côn Sơn ẩn náu. Năm 1440, ông lại được mời trở lại giúp đỡ nước nhà. Nhưng số phận oan trái không dừng lại ở đó. Năm 1442, ông bị buộc tội Lệ Chi Viên và tru di tam tộc. Đến năm 1464, Lê Thánh Tông mới minh oan cho Nguyễn Trãi, nhưng ông đã ra đi từ thế giới này.
Nguyễn Trãi để lại di sản văn hóa lớn lao cho dân tộc Việt Nam. Ông là một nhà văn chính luận và nhà thơ xuất sắc. Tác phẩm của ông, từ 'Quân trung từ mệnh tập' đến 'Bình Ngô đại cáo,' đều phản ánh tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước thương dân. Nguyễn Trãi còn góp phần lớn vào văn hóa dân tộc với hai tập thơ 'Ức Trai thi tập' và 'Quốc âm thi tập.'
Nguyễn Trãi, một ngôi sao sáng trong bức tranh lịch sử Việt Nam, được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới năm 1980.
Hoàng hôn buông xuống, hoa thường héo và cỏ thường tươi
Thơ trữ tình của Nguyễn Trãi không chỉ là sự sáng tạo về ngôn ngữ, mà còn là đóng góp quan trọng cho văn hóa dân tộc. Thể thơ của ông, từ chữ Nôm đến chữ Hán, đã mở ra một giai đoạn mới cho văn hóa Việt Nam. Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà thơ sâu sắc mà còn là một tác giả đa tài, đồng thời là người mở đường cho sự phát triển mới trong văn hóa dân tộc.
Tình yêu nước và lòng nhân đạo luôn là nguồn cảm hứng cho Nguyễn Trãi. Tác phẩm thơ 'Ức Trai thi tập' và 'Quốc âm thi tập' của ông không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là biểu tượng của tâm hồn cao quý và tinh thần lý tưởng của một anh hùng dân tộc.
Nguyễn Trãi, một truyền nhân của văn hóa Lí – Trần, để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng dân tộc Việt Nam. Từ những bài văn chính luận đến những bài thơ trữ tình, Nguyễn Trãi là một nguồn cảm hứng vô tận cho thế hệ sau.
Ẩn mình trong bức tranh lịch sử, Nguyễn Trãi vẫn sáng tạo và tận trung với tâm hồn anh hùng, như 'Ức Trai tâm thượng quan Khuê Táo.'


8. Sự Hồi Sinh của Nguyễn Trãi - Đóa Hoa Nở Trong Bão Tố
Nguyễn Trãi không chỉ là tác giả xuất sắc trong chiến trường, mà còn là biểu tượng của lòng trung hiếu, tận trung với quê hương. Với tài năng vượt trội trong chiến lược quân sự, lời nói tinh tế của một nhà ngoại giao, và văn phong mượt mà của một nhà văn hóa, Nguyễn Trãi thực sự là một anh hùng lớn của dân tộc Việt Nam.
Sinh ra trong một gia đình yêu nước và truyền thống văn hóa, Nguyễn Trãi từng trải qua nhiều thử thách từ thuở nhỏ. Tham gia kháng chiến Lam Sơn từ năm 1427, ông để lại dấu ấn lịch sử với 'Bình Ngô đại cáo,' tuyên ngôn lớn của một anh hùng. Tuy nhiên, cuộc đời của Nguyễn Trãi không chỉ có những chiến công vang dội mà còn chứa đựng nhiều biến động và thử thách đau lòng.
Vượt qua những gian nan và oan trái, Nguyễn Trãi không chỉ là nhà quân sự và nhà chính trị, mà còn là nhà văn với những tác phẩm như 'Ức Trai thi tập' và 'Quốc âm thi tập,' đánh dấu sự xuất hiện của thơ chữ Nôm và những tư tưởng nhân nghĩa, yêu nước, thương dân.
Nguyễn Trãi, một đóa hoa nở trong bão tố lịch sử, được UNESCO công nhận là danh nhân văn hóa thế giới năm 1980.


9. Hồi Sinh Nguyên Tác Giả - Vẻ Đẹp Văn Hóa của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi, danh nhân vĩ đại trong lịch sử Việt Nam, là anh hùng dân tộc, tư tưởng sáng tạo, nhà thơ tài năng, và người có đóng góp to lớn cho văn hóa và tư tưởng Việt Nam.
Nguyễn Trãi sinh tại Thăng Long trong một gia đình quý tộc, con của quan trung ương Trần Nguyên Đán. Cha là Nguyễn ứng Long, hiệu ức Trai (Nguyễn Phi Khanh), mẹ là Trần Thị Thái, con gái của Trần Nguyên Đán. Ẩn sĩ từ rất sớm, ông đỗ Thái học sinh khi mới 20 tuổi. Năm 1406, khi quân Minh xâm lược, cha ông bị bắt và ông cùng em trai Nguyễn Phi Hùng đã quyết định đứng về phe Lam Sơn đánh giặc. Điều này đánh dấu sự bắt đầu cho cuộc hành trình anh hùng của Nguyễn Trãi.
Trong cuộc kháng chiến, Nguyễn Trãi nhấn mạnh vào việc dựa vào sự đoàn kết của nhân dân để đánh bại quân Minh. Chiến lược của ông ghi chép trong Bình Ngô sách đã giúp Lam Sơn đạt được chiến thắng lịch sử. Sau chiến tranh, ông tiếp tục chăm sóc đến nhân dân, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chăn nuôi nhân dân để xây dựng đất nước.
Nguyễn Trãi không chỉ là một tướng lĩnh xuất sắc mà còn là một nhà văn tài danh. Bài Bình Ngô đại cáo của ông là một tác phẩm văn học vĩ đại, đánh dấu những trang hào hùng của lịch sử Việt Nam. Quốc âm thi tập của ông là tác phẩm văn bản Việt ngữ cổ nhất mà chúng ta vẫn giữ được đến ngày nay.
Sau những thăng trầm trong cuộc đời, ông cuối cùng được vua Lê Thánh Tông trao chiếu minh oan và tìm thấy con cháu của mình. Nguyễn Trãi, với tâm hồn lớn lao và sự nghiệp cao cả, sẽ mãi mãi được nhớ đến như một ngôi sao sáng trên bản đồ lịch sử Việt Nam.


10. Bài văn thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi số 11
Nguyễn Trãi, danh xưng Ức Trai, sinh năm 1380, quê ở xã Chi Ngại (nay là xã Cộng Hòa, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương), sau đó chuyển đến làng Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, mẹ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán.
Nguyễn Trãi, một anh hùng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của lịch sử Việt Nam thời phong kiến, sống trong một thời đại biến động. Bị giặc Minh xâm lược, ông quay về báo thù, rửa nhục cho cha, trở thành quân sư đắc lực của Lê Lợi trong cuộc kháng chiến Lam Sơn chống quân Minh.
Chưa kịp thực hiện hoài bão, Nguyễn Trãi bị nghi ngờ và bắt, nhưng ông đã để lại di sản vô song về quân sự, văn hóa, lịch sử, và đặc biệt là sự nghiệp văn học. Bản tuyên ngôn độc lập Bình Ngô đại cáo, tập thơ Ức Trai thi tập, cùng với nghệ thuật sáng tạo và tinh luyện của ông, là những dấu ấn vĩ đại trong văn chương Việt Nam.
Nhân vật toàn tài số một, Nguyễn Trãi là biểu tượng của sự yêu nước, thương dân. Tư tưởng và nghệ thuật của ông trải đến độ chuyên nghiệp mẫu mực, để lại một di sản phong phú và đa dạng, là nguồn cảm hứng vô tận cho thế hệ sau.
Nguyễn Trãi - ông tiên ở trong tòa ngọc, người để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử và văn hóa Việt Nam.


11. Văn thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi số 10
Nguyễn Trãi (1380-1442) là anh hùng dân tộc, nhà văn vĩ đại, và là nhân vật lỗi lạc, đau đớn trong lịch sử Việt Nam.
Nguyễn Trãi quê ở Chí Linh, Hải Dương, sau chuyển đến làng Nhị Khê, Hà Nội. Cha là nhà nho nghèo Nguyễn Phi Khanh, mẹ thuộc dòng dõi quí tộc nhà Trần, ông ngoại là quan tư đồ Trần Nguyên Đán. Nguyễn Trãi mồ côi mẹ và mất ông ngoại sớm. Năm 1400, ông và cha thi đỗ Thái học sinh, làm quan cho nhà Hồ. Năm 1407, giặc Minh xâm lược, cha ông bị bắt sang Trung Quốc, ông ở lại để rửa nhục cho nước. Năm 1417, ông tham gia Lam Sơn, gặp Lê Lợi, dâng Bình Ngô sách, hiến kế cứu nước. Năm 1427, kháng chiến thành công, ông xây dựng đất nước nhưng lại bị gian thần kèn cựa. Nhà vua không trọng dụng, ông xin về Côn Sơn, sau lại được mời giúp nước năm 1440. Nhà vua qua đời đột ngột khi đang duyệt võ, và bọn gian thần đổ tội giết vua cho ông, rồi kết án tru di tam tộc. Đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông minh oan và sưu tầm lại tác phẩm của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi là tác giả xuất sắc, để lại một loạt tác phẩm quý giá, từ chữ Nôm đến chữ Hán. Tác phẩm nổi bật như “Quân trung từ mệnh tập”, “Bình Ngô đại cáo”, “Lam Sơn thực lục”, “Băng Hồ di sự lục”, “Dư địa chí”, “Ức Trai thi tập”, “Quốc âm thi tập”, … Ông được coi là nhà văn chính luận kiệt xuất của văn học trung đại Việt Nam. “Bình Ngô đại cáo” của ông được đánh giá là thiên cổ hùng văn; “Quân trung từ mệnh tập” được ví như sức mạnh bằng 10 vạn quân. Văn chính luận của ông có luận điểm vững chắc, lập luận sắc bén, giọng điệu linh hoạt, có tính thuyết phục cao, thấm nhuần tư tưởng yêu nước, cứu dân, nhân đạo.
Trong lĩnh vực thơ ca, Nguyễn Trãi được đánh giá là nhà thơ trữ tình sâu sắc. Thơ ông thể hiện hình ảnh con người, sự hòa quyện giữa con người bình thường với phẩm chất anh hùng, vĩ đại. Thể hiện lí tưởng nhân nghĩa yêu nước, thương dân, thể hiện phẩm chất cao quí của người quân tử, nỗi đau con người, tình cảm vua tôi, lòng yêu thiên nhiên, … Thơ ông có sự cách tân về thể loại, sử dụng những hình ảnh quen thuộc dân dã, cảm xúc tinh tế, sử dụng nhiều từ thuần Việt giàu sức gợi. Nguyễn Trãi là người có ý thức cao về việc phát huy ngôn ngữ tiếng Việt.
“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi là một khúc tráng ca, ca ngợi cuộc kháng chiến của nghĩa quân Lam Sơn. Bài cáo viết bằng chữ Hán, theo thể cáo-thể văn nghị luận được vua chúa dùng để trình bày một chủ trương, sự nghiệp, tuyên ngôn về một sự kiện trọng đại. Tác phẩm này được coi là bản tuyên ngôn độc lập của Việt Nam, mang đầy đủ đặc điểm của thể cáo và có những sáng tạo nghệ thuật riêng của Nguyễn Trãi.
Bài cáo có kết cấu hoành tráng, bố cục chặt chẽ, viết theo lối văn biến ngẫu, vận dụng thể tứ lục, sử dụng hình ảnh nghệ thuật sinh động, gợi cảm. Nó tố cáo tội ác, tính chất phi nghĩa của giặc Minh, khẳng định tính chính nghĩa của nghĩa quân Lam Sơn, tường thuật quá trình kháng chiến, ca ngợi sức mạnh của nghĩa quân. Bài cáo này được xem là “thiên cổ hùng văn” và hiện còn là bài cáo duy nhất còn lại trong lịch sử Việt Nam.


12. Giới thiệu về tác giả Nguyễn Trãi số 13
Theo đánh giá của các nhà sử học, dân tộc Việt Nam có cả ba bản Tuyên ngôn độc lập quan trọng trong lịch sử của mình. Đó là bài thơ Nam quốc sơn hà (năm 891), Bình Ngô đại cáo (năm 1428) và bản Tuyên ngôn Độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình. Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm của Nguyễn Trãi, viết bằng chữ Hán vào mùa xuân năm 1428. Không chỉ là một nhà thơ xuất sắc, Nguyễn Trãi còn là một nhà văn hoá lớn, góp phần quan trọng vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam.
Nguyễn Trãi, hiệu là Ức Trai, sinh ra ở xã Chi Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, và sau đó chuyển đến xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây. Cha ông là Nguyễn Phi Khanh, một nho giáo nghèo, nhưng học giỏi và đỗ Thái học sinh (Tiến sĩ) đời Trần. Mẹ ông là Trần Thị Thái, con của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, một quý tộc đời Trần.
Sau những mất mát, gồm cả mẹ và ông ngoại, Nguyễn Trãi tham gia vào sự nghiệp cứu nước chống lại quân Minh xâm lược. Ông đóng góp quan trọng vào chiến thắng Lam Sơn, trở thành trợ thủ đắc lực của Bình Định Vương trong mười năm chiến đấu. Từng được phong làm Tuyên phụng đại phu Hàn lâm thừa chỉ, Nguyễn Trãi đã chơi một vai trò quan trọng trong bàn mưu lược. Sau chiến thắng, ông bắt đầu công việc xây dựng lại đất nước, nhưng bị giam giữ vô cớ và sau đó chỉ được tha, nhưng không còn được tin dùng như trước.
Trở về cuộc sống dân thường, Nguyễn Trãi tiếp tục đóng góp cho đất nước với vai trò nhà chính trị, quân sự và văn hóa. Ông là tác giả của nhiều tác phẩm quan trọng như 'Quân trung từ mệnh tập,' 'Bình Ngô đại cáo,' và 'Lam Sơn thực lục.' Trong lĩnh vực thơ, ông để lại hai tập thơ quan trọng: 'Ức Trai thi tập' và 'Quốc âm thi tập.'
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà văn xuất sắc, mà còn là một nhà ngoại giao tài ba, làm mời sáng tạo trong lĩnh vực ngôn ngữ, thể loại và nghệ thuật. Tất cả những đóng góp của ông đã để lại dấu ấn lâu dài trong lịch sử văn hóa Việt Nam.


13. Bài văn thuyết minh về tác giả Nguyễn Trãi số 12
Nguyễn Trãi, tinh hoa của văn chương Việt Nam thế kỷ XV, không chỉ là nhà văn tài năng mà còn là chiến sĩ xuất sắc, nghệ sĩ cống hiến cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Bằng bút và tâm huyết, ông góp phần quan trọng vào chiến thắng lịch sử của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc.
Văn chương và thơ của Nguyễn Trãi không chỉ là những tác phẩm nghệ thuật, mà còn là biểu tượng của tinh thần anh hùng, lòng yêu nước và trí tuệ cao quý. Những bài văn như Quân trung từ mệnh tập, Đại cáo bình Ngô, Chí Linh sơn phú, Văn bia Vĩnh Lăng, và những tác phẩm thơ như Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập, đều là di sản vô giá, góp phần làm phong phú văn hóa Đại Việt.
Nguyễn Trãi không chỉ là một nhà văn, mà còn là nhà ngoại giao xuất sắc. Bản Đại cáo bình Ngô, sau chiến thắng Lam Sơn, không chỉ là bản tuyên ngôn độc lập, mà còn là bức tranh hùng vĩ về chiến công của nhân dân Việt Nam. Ông khẳng định độc lập chủ quyền, tinh thần yêu nước và hòa bình trong lòng nhân dân.
Thơ Nôm của Nguyễn Trãi là sự kết hợp tài tình giữa văn hóa dân gian và văn chương cổ điển. Ông đã nâng cao tiếng Việt lên thành ngôn ngữ chính thức, và thể hiện tình yêu thiết tha đối với đất nước và con người. Thơ Nguyễn Trãi như một bức tranh tuyệt vời về vẻ đẹp tự nhiên và cuộc sống của nhân dân Việt Nam.
Nguyễn Trãi, con người với tâm hồn truyền lửa, đã để lại di sản vô song cho văn hóa Việt Nam, là nguồn cảm hứng bất tận cho thế hệ sau.

