1. Vợ Chồng A Phủ - Tô Hoài
Trên thảo nguyên văn chương Việt Nam, có nhà văn duy nhất bằng một loại thể. Đó chính là nhà văn Tô Hoài - người sống đắm chìm trong đất, trong người, trong cuộc sống nông thôn thuần hậu (nói như Nguyên Hồng) và cũng là người sáng tạo đa dạng nhiều thể loại. Tới nay, sự nghiệp của Tô Hoài đã trải qua nửa thế kỷ. Ông là tác giả của hàng trăm tác phẩm, hàng nghìn bài báo với đa dạng thể loại. Tuy nhiên, Tô Hoài trước Cách mạng tháng Tám nổi tiếng với 'Dế mèn phiêu lưu kí' và sau Cách mạng với 'Truyện Tây Bắc' gồm 'Cứu đất cứu Mường', 'Mường Giơn giải phóng' và 'Vợ chồng A Phủ'. 'Vợ chồng A Phủ' vẫn là tác phẩm thách thức của Tô Hoài. Truyện đã giành giải thưởng văn nghệ 1954-1955 và được xem như kiệt tác của ông. Câu chuyện xoay quanh Mị, một cô gái Mèo nghèo, xinh đẹp và nết na. Tô Hoài, qua sức sống của Mị, đã bộc lộ tài năng văn chương và lòng nhân đạo sâu sắc. Nguyên Hồng từng nói: 'Một người nghệ sĩ chân chính phải là một nhà nhân đạo từ tâm hồn' và Tô Hoài chính là nhà văn như vậy.
2. Rừng Xà Nu – Nguyễn Trung Thành
Văn học miền núi ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong nền văn hóa Việt Nam hiện đại, đem đến màu sắc dân tộc đặc biệt. Tác phẩm miền núi đã đoạt giải thưởng cao, với 'Vợ Chồng A Phủ' của Tô Hoài và 'Đất Nước Đứng Lên' của Nguyên Ngọc là những minh chứng. Nguyên Ngọc tiếp tục thành công với truyện ngắn 'Rừng Xà Nu', nhận giải Nguyễn Đình Chiểu 1965. Truyện nén sử thi, với chủ đề cách mạng, đưa người đọc vào cuộc đấu tranh của người dân Tây Nguyên, với hình tượng cây xà nu và ngôn ngữ sắc sảo.
3. VỢ NHẶT – KIM LÂN
Truyện ngắn 'Vợ Nhặt' của Kim Lân là một kiệt tác với sự thể hiện đặc sắc về tư tưởng nhân văn. Kim Lân không chỉ viết về cái đói, cái chết mà còn làm nổi bật sự sống và chất người kỳ diệu. Nghệ thuật văn xuôi đặc sắc đã giúp diễn đạt tư tưởng sâu sắc, đưa Kim Lân vào hàng những tài năng truyện ngắn của văn học hiện đại. 'Vợ Nhặt' là một câu chuyện độc đáo, hấp dẫn, và đầy tình người.
4. HỒN TRƯƠNG BA – DA HÀNG THỊT – LƯU QUANG VŨ
Nghệ sĩ đa tài Lưu Quang Vũ, với sự sáng tạo độc đáo, đã để lại dấu ấn mạnh mẽ trong lĩnh vực sân khấu. Vở kịch 'Hồn Trương Ba, Da Hàng Thịt' không chỉ là một kiệt tác của ông mà còn là hiện tượng nghệ thuật, tạo nên những xung đột kịch đầy tinh tế. Thành công của tác phẩm không chỉ ở Việt Nam mà còn vươn xa quốc tế. Với 51 vở kịch nổi tiếng, Lưu Quang Vũ đã góp phần làm phong phú và đa dạng nghệ thuật sân khấu Việt Nam.
5. CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA – NGUYỄN MINH CHÂU
Nguyễn Minh Châu, tên gọi mà văn học Việt Nam hiện đại không thể không kể đến. Ông là hiện tượng văn chương, đánh dấu bước đổi mới mạnh mẽ. Ông được vinh danh bằng danh hiệu “Ấn Tiên Phong” lãnh chức Đại Tướng quân của Tập đoàn quân Chữ! Những tác phẩm của ông là hành trình khám phá cái đẹp thật, sự sâu sắc và xa lạ của con người. Trong số đó, “Chiếc thuyền ngoài xa” nổi bật như một biểu tượng của sự sáng tạo sau năm 1980. Truyện vẽ nên hình ảnh rực rỡ của người phụ nữ hàng chài, người lao động mạnh mẽ, đầy tình yêu thương và lòng hi sinh. Đồng thời, qua nhân vật Phùng, một nghệ sĩ tài năng, truyện thể hiện niềm khao khát sáng tạo và quan tâm sâu sắc đến nhân cách con người. Cuộc đối diện giữa đời sống và nghệ thuật được mô phỏng sinh động, làm nổi bật những giá trị về đẹp và tình người. “Chiếc thuyền ngoài xa” là tác phẩm nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Minh Châu.
6. TÂY TIẾN – QUANG DŨNG
Chiến tranh đã lùi xa, những hạt bụi thời gian dần phủ mờ hình ảnh những anh hùng vô danh. Nhưng văn học, sứ mệnh thiêng liêng, giữ nguyên vẻ kiêu hãnh của những người con anh hùng đã viết nên bản hòa nhạc của độc lập. Bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng là một tuyệt phẩm tiêu biểu trong giai đoạn lịch sử đau thương 1945-1954. Với bút lực tài năng, Quang Dũng tô điểm cho văn chương một bức tranh hoàn mỹ về người lính Tây Tiến, kết hợp giữa lãng mạn hào hoa và hào hùng bi tráng.
7. TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP – HỒ CHÍ MINH
Trong những giai đoạn quan trọng của lịch sử dân tộc, những tuyên ngôn bất hủ nổi lên, ghi dấu cho một thời kỳ lịch sử quan trọng. Có những tuyên ngôn nổi tiếng trên thế giới như Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776, tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791. Lịch sử Việt Nam cũng chứng kiến những bản tuyên ngôn như “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi vào thế kỉ XV và “Tuyên ngôn độc lập” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được đọc ngày 2-9-1945 tại quảng trường Ba Đình. Tuyên ngôn này được coi là một văn kiện lịch sử to lớn, súc tích và đầy sức thuyết phục, kết tinh trí tuệ của thời đại và lòng tin của hơn hai mươi triệu nhân dân Việt Nam.
8. ĐẤT NƯỚC – NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Đất nước là một chủ đề phong phú trong thơ ca Việt Nam. Trước Nguyễn Khoa Điềm, đã có nhiều bài thơ xuất sắc, nhiều tác giả thành công khi khám phá đề tài này. Đất nước anh hùng trong cuộc chiến chống Pháp, mang hồn thu Hà Nội của Nguyễn Đình Thi. Đất nước cổ kính, dân gian, đậm chất quê hương Kinh Bắc của Hòang Cầm. Đất nước hóa thân cho dòng sông xanh, tràn đầy ký ức trong thơ Tế Hanh. Đất nước hài hòa trong hình ảnh quê nhà và tình yêu đôi lứa trong thơ Giang Nam. Tuy nhiên, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy cách diễn đạt riêng, mang lại cho độc giả những trải nghiệm tinh tế mới về đất nước: Đất Nước của Nhân Dân.
9. VIỆT BẮC – TỐ HỮU
Tố Hữu đã một lần chia sẻ: “Tôi yêu quê hương và nhân dân tôi, tôi viết về quê hương và nhân dân tôi như viết về người phụ nữ tôi yêu”. Mỗi đoạn thơ của Tố Hữu đều là một bản tình ca ngọt ngào về đất nước yêu dấu và những con người của Việt Nam. “Việt Bắc” là bài thơ thể hiện rõ nhất điều này.
10. ĐÀN GHITA CỦA LORCA – THANH THẢO
Tây Ban Nha - một đất nước đầy hình ảnh quyến rũ. Nó luôn đưa người ta về với chàng hiệp sĩ Don Quixote, những đấu bò kịch tính của matador, hay những vũ nữ xoay tròn trong điệu nhảy flamenco đẹp ngỡ ngàng. Vùng đất này cũng là nơi cây đàn thần kỳ của Lorca bắt đầu hành trình sáng tạo nghệ thuật, nhưng cũng là nơi mà cái chết thương tâm dưới tay bọn Franco đã làm cho ngòi bút thơ của Thanh Thảo bùng lên những giai điệu đau thương. Bài thơ về Đàn ghita của Lorca không chỉ là sự hòa âm của khát vọng sáng tạo, mà còn là khả năng hòa mình sâu sắc vào thế giới nghệ thuật thơ Lorca, một tác phẩm suy tư về nỗi đau và hạnh phúc của những cuộc đời hiến dâng cho cái đẹp. Trong bài thơ, hình ảnh tiếng đàn ghita không chỉ là âm nhạc, mà còn là biểu tượng của Lorca, người vẫn hồn nhiên hòa mình vào vũ trụ nghệ thuật.
11. SÓNG – XUÂN QUỲNH
Từ thời cổ đại đến ngày nay, tình yêu luôn là nguồn cảm hứng bất tận cho thi ca. Nhiều nghệ sĩ đã cố gắng dùng bút lực để giải mã tình yêu, nhưng không ai có thể đặt nghĩa hoàn chỉnh cho hai chữ mỹ từ ấy. Một nhà thơ Pháp cổ điển đã nói: “Tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi”. Ngay cả Xuân Diệu cũng bất lực khi đặt câu hỏi “Làm sao có thể đặt nghĩa cho tình yêu”, Hàn Mạc Tử cũng phải “nghe trời giải nghĩa yêu”. Trong thế giới thi ca viết về tình yêu, không thể không nhắc đến “Sóng” của Xuân Quỳnh. “Sóng” là nơi chứa đựng những tâm tư sâu sắc, những trạng thái phức tạp tinh tế của tâm hồn người phụ nữ trẻ khi bày tỏ về tình yêu với mong muốn hạnh phúc vô tận của con người.
12. NGƯỜI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG – HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
Trong tác phẩm 'Mùa xuân nho nhỏ', Thanh Hải miêu tả:
'Nở giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời'
Không biết từ khi nào, dòng sông Hương của núi Ngự đã trở thành một phần quan trọng trong văn chương, trở thành một điểm nhấn đặc biệt, một mối duyên nợ. Nhà thơ Tố Hữu, con của Vĩ Dạ, Đông Ba, từng thốt lên rằng:
'Sông Hương ơi! Dòng sông êm
Trái tim ta ngày đêm tự tình'
Tham gia vào thế giới văn chương với vẻ đẹp trữ tình và êm đềm của dòng sông, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã sáng tạo bài kí 'Người đã đặt tên cho dòng sông'. Với tài năng nghệ thuật tinh tế và kiến thức sâu rộng, ông đã đưa độc giả khám phá dòng sông Hương với sự trìu mến và lãng mạn. 'Người đã đặt tên cho dòng sông' là trái tim của bộ truyện cùng tên, xuất bản năm 1986, viết năm 1981, và được coi là một trong những kiệt tác của Hoàng Phủ Ngọc Tường, là một tác phẩm xuất sắc trong văn học Việt Nam thời hậu chiến. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thành công khi xây dựng một dòng sông thơ mộng, lãng mạn để từ đó thể hiện 'tôi' với tình yêu sâu sắc đối với quê hương, đất nước nồng thắm.
13. NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ – NGUYỄN TUÂN
Một nhà phê bình đã nói: 'Nghệ sĩ cần đâm sâu vào cuộc sống nhân dân. Phải nhập tâm đến một mức độ thơ mới mọc lên. Thơ chỉ bùng lên khi trong tim nghệ sĩ đã tràn đầy cuộc sống.' Điều này đúng như con ong hút mật từ hoa, Nguyễn Tuân, với cuộc sống giàu có nhưng cần mẫn như con ong, đã để lại một di sản sáng tạo trên văn đàn Việt Nam. Ông khẳng định bản thân mình với phong cách độc đáo, được giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh mô tả là 'ngông' của một tài năng uyên bác. Trước cách mạng, ông sử dụng ngông để phê phán xã hội và viết về những con người kỳ vĩ ở thời kì đầy hào hùng. Sau cách mạng, cái 'ngông' của Nguyễn Tuân được dùng để ca tụng tình yêu quê hương, đất nước. Ông tìm kiếm chủ nghĩa anh hùng trong cuộc sống của người lao động bình thường. Trong số các tác phẩm thể hiện rõ phong cách của ông sau cách mạng, tập tùy bút 'Sông Đà' là một trong những đỉnh cao. Gồm mười lăm bài kí sáng tác từ 1958 - 1960 khi Nguyễn Tuân thực tế ở Tây Bắc, tập tùy bút này chứa đựng linh hồn của bài kí 'Người lái đò sông Đà'. Ông đã thành công khi xây dựng hình ảnh chân thực, sống động của sông Đà, đồng thời hiện thực hóa nhân vật Người lái đò sông Đà, biểu tượng cho vẻ đẹp của con người mới trong xã hội chủ nghĩa. Có thể nói rằng với tác phẩm 'Người lái đò sông Đà', ngòi bút của Nguyễn Tuân đã nở hoa trên dòng sông văn chương của mình.