1. Bò tót
Bò tót (Bos gaurus), hay còn gọi là bò rừng Mã Lai, là một loài động vật có kích thước lớn, sống chủ yếu ở vùng đồi của Ấn Độ và Đông Nam Á. Ở Việt Nam, bò tót đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng, chỉ còn khoảng 300 con phân bố tại các vườn quốc gia ở Lào Cai, Kon Tum, Lâm Đồng. Môi trường sống của chúng đang bị tàn phá và chúng thường xuyên bị săn bắn trái phép. Đây là loài bò được liệt vào Sách Đỏ Việt Nam và đã được Chính phủ cấm săn bắn, bẫy bắt và buôn bán để bảo vệ loài này.

2. Sao La
Sao la (Pseudoryx nghetinhensis) - một trong những loài thú hiếm nhất thế giới, sống ở vùng núi rừng hẻo lánh dãy Trường Sơn tại Việt Nam và Lào. Kích thước cỡ lớn, thân dài tới 1,5m, trọng lượng 80 - 120kg. Mặt có những vạch trắng hoặc đen nhạt, phần lưng vạch trắng phân cách với chân màu đen nhạt. Bộ lông mềm mượt có xoáy ở giữa mũi và cổ. Sừng thẳng, nhẵn bóng. Loài này gặp nguy cơ tuyệt chủng cao, chỉ còn khoảng 50 - 60 cá thể được nuôi dưỡng tại các vườn quốc gia. Việc phát hiện sao la lần đầu tiên năm 1992 là sự kiện quan trọng về động vật trên thế giới. Loài thú quý hiếm này đang đối mặt với nguy cơ mất môi trường sống và bị săn bắt trộm.

3. Hổ
Kích cỡ lớn nhất trong Họ Mèo Felidae có thể nặng 200 - 250kg. Nền lông vàng hoặc vàng sáng, phần bụng trắng. Mặt và dọc thân có nhiều sọc đen. Hổ sống ở vùng Đông nam Á, gồm cả Việt Nam thuộc phân loài Hổ Đông dương (Panthera tigris corbetti Mazak, 1968) với số lượng giảm mạnh. Hiện chỉ còn khoảng 5 cá thể được nuôi nhằm bảo tồn và tránh nạn săn bắt. Loài hổ (cọp) có thể đã tuyệt chủng tại Việt Nam. Nhiều chuyên gia cho rằng loài hổ đã biến mất, không còn ghi nhận mới trong tự nhiên. Việc xuất hiện một con hổ ở Việt Nam trở nên hiếm hoi, và nguy cơ tuyệt chủng ngày càng cao.

4. Voọc mũi hếch
Voọc mũi hếch, một loài động vật đặc biệt chỉ tồn tại ở một số tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, đang đối mặt với nguy cơ tuyệt chủng do săn bắt quá mức và phá rừng. Có khoảng 80 cá thể được phát hiện bởi nhóm FFI (Tổ chức Bảo tồn động thực vật quốc tế), và ước tính còn khoảng 110 cá thể đang sinh sống ở Việt Nam. Voọc mũi hếch có bộ lông màu nâu đen, lông trắng quanh mặt và đỉnh đầu, tạo nên vẻ độc đáo. Đuôi dài và xù. Voọc mũi hếch là một trong những linh trưởng quý hiếm nhất trên thế giới, chỉ còn khoảng 200 cá thể trên toàn cầu, với tỉnh Hà Giang đóng góp khoảng 180 cá thể. Dự án bảo tồn voọc mũi hếch đã được triển khai để ngăn chặn nguy cơ tuyệt chủng của loài này.

5. Hươu Vàng
Hươu vàng, một loài động vật có vú thuộc họ Hươu nai, được mô tả bởi Zimmermann vào năm 1780. Hươu vàng sinh sống chủ yếu ở Tây Nguyên, trong các khu vực đầm lầy của Kontum, Đắk Lắk, Lâm Đồng và Đồng Nai. Dưới tình trạng nguy cơ diệt chủng, chỉ còn vài trăm con sống ở Việt Nam và được liệt kê trong Sách đỏ Việt Nam. Chúng có kích thước trung bình, vóc dáng chậm chạp và nặng nề. Bộ lông mềm mại màu vàng hay nâu đậm tạo nên vẻ đẹp của loài hươu vàng. Hiện chỉ còn vài trăm cá thể hươu vàng ở Việt Nam, và có nguy cơ tuyệt chủng. Các chuyên gia đánh giá rằng loài

6. Voi
Voi Việt Nam, quần thể voi gắn bó với đời sống, lịch sử và văn hóa của cộng đồng dân tộc. Loài voi Việt Nam thuộc nhóm voi châu Á và từng phân bố rộng rãi ở Việt Nam. Hiện nay, voi hoang dã chỉ còn sống tại Tây Nguyên, đặc biệt là Đắk Lắk. Chúng có kích thước lớn, vóc dáng mạnh mẽ, và số lượng ngà voi dài. Tình trạng nguy cơ diệt chủng của voi Việt Nam đang tăng cao, và chỉ còn vài trăm con, đặc biệt là ở Tây Nguyên. Điều này đe dọa sự tồn tại của loài động vật quý hiếm này. Việc bảo tồn và giữ gìn môi trường sống của voi Việt Nam là hết sức cần thiết để tránh tình trạng tuyệt chủng. Những biện pháp bảo tồn và giáo dục cộng đồng về việc bảo vệ voi Việt Nam cũng cần được thực hiện ngay lập tức để bảo vệ di sản thiên nhiên độc đáo này.

7. Voọc đầu trắng
Theo hiệp hội bảo vệ tồn thiên nhiên thế giới, trên toàn cầu chỉ còn khoảng 60 cá thể Voọc đầu trắng sinh sống, tập trung tại Việt Nam, đảo Cát Bà (Hải Phòng). Nơi rừng đang đe dọa từ các khu du lịch nghỉ dưỡng. Đặc điểm nhận dạng là bộ lông dày, sợi lông hơi thô cứng. Con trưởng thành có đầu, vai màu trắng vàng, vùng mông màu xám nhạt. Đầu có mào lông với gốc lông màu vàng nhạt, mút lông phớt xám. Đuôi dài, thon, dày lông và màu đen. Con non mới sinh có lông màu vàng nhạt.
Ngày 2 tháng 6 năm 2003, tại Trung tâm cứu hộ linh trưởng thuộc Vườn Quốc gia Cúc Phương, lần đầu tiên trên thế giới một con voọc Cát Bà đã sinh được một voọc con khỏe mạnh. Cặp voọc bố mẹ được lực lượng kiểm lâm Cát Bà cứu thoát từ tay thợ săn năm 1998 và 2000 sau đó đưa về nuôi dưỡng tại Trung tâm cứu hộ linh trưởng. Hiện nay, số lượng loài này trong tự nhiên chỉ còn từ 50 đến 60 cá thể (nguồn IUCN) và chúng đang phải đối mặt với việc mất môi trường sinh sống từ các mối đe doạ lớn nhất là: Nạn săn bắt trộm, việc phá rừng làm đất trồng trọt và sự phát triển du lịch ồ ạt tại đảo Cát Bà. Voọc đầu trắng cũng là loài đang gặp nguy hiểm, nhưng mức độ thấp hơn của voọc Cát Bà. Giống như mọi thành viên của nhóm loài Trachypithecus francoisi, phân loài này có tập tính sinh sống tập thể, kiếm ăn ban ngày trong các khu rừng đá vôi.
Voọc đầu trắng sống ở rừng trên núi đá, giống Voọc má trắng. Voọc đầu trắng sống đàn số con trong đàn biến đổi từ 5 đến 15 con, trung bình 9,36 con và tỷ lệ đực/cái từ 1/1,5 đến1/2 (Nguyễn Phiên Ngung, 1997). Nadler, T và Hà Thăng Long, 2000 cho biết số lượng con trung bình của một đàn Voọc đầu trắng biến đổi từ 5,6 đến 6,7 con. Voọc đầu trắng ngủ trên vách đá vào mùa nóng và trong hang vào mùa lạnh. Chúng thường chọn những vách đã dựng đứng, có nhiều hang nhỏ để làm nơi ngủ. Voọc đầu trắng kiếm ăn ngày hai buổi sáng và chiều. Cường độ kiếm ăn mạnh vào đầu buổi sáng và giảm dần vào lúc 9 đến 10 giờ trưa. Hoạt động thầm lặng, di chuyển nhẹ nhàng cả trên cây lẫn mặt đất. Thức ăn là lá, quả cây rừng, không ăn động vật. Bước đầu đã ghi nhận được Voọc đầu trắng ăn 74 loài thực vật thuộc 31 Họ:, trong đó có 54 loài được Voọc sử dụng lá chồi non, 34 loài được ăn quả. Chưa gặp chúng ăn củ loài nào. Chưa có nghiên cứu về sinh sản của Voọc đầu trắng. Quan sát các đàn Voọc đầu trắng qua nhiều năm ở đảo Cát Bà cho thấy chúng có khả năng sinh sản quanh năm nhưng tập trung nhất từ tháng 4 đến tháng 10. Mỗi lứa đẻ một con. Con mới sinh có màu vàng.

8. Rùa da
Là loài lớn nhất trong họ nhà rùa. Và là loài bò sát lớn thứ tư sau 3 loài cá sấu. Được hiệp hội bảo vệ động thực vật thế giới coi là động vật quý hiếm nhất Thế Giới. Nhìn sơ lượt thì chúng giống với các loài rùa biển khác, chỉ có kích thước lớn hơn và không có mai. Loài rùa này sống chủ yếu ở các vùng biển khu vực miền trung. Rùa da không có răng mà thay vào đó là các gai nhọn mọc trong miệng giúp rùa giữa thức ăn lại. Thức ăn của nó chủ yếu là các loài sứa di chuyển chậm. Rùa da có kích thước rất lớn, thân bao phủ bởi 1 lớp da, mai có 7 gờ xương ở lưng, không có vảy (khi còn nhỏ mai được phủ một lớp vảy có dạng hạt chấm trắng nhỏ). Đầu có dạng tam giác rộng. Hàm trên có 2 chỏm nổi lên rất rõ. Đôi chân bơi trước rất dài, không có vảy, không có móng vuốt. Ở mặt lưng màu đen, xen lẫn những vạch hoặc đốm trắng. Có khi trên cổ và chỗ tiếp giáp giữa chân bơi với thân có chấm màu hơi xanh hoặc hồng. Yếm có nhiều các sắc tố nhẹ. Yếm nhỏ lồi lên bởi những chiếc xương. Rùa da trưởng thành có trọng lượng khoảng dưới 500 kg.
Là loài có kích thước lớn nhất trong các loài rùa biển bắt gặp ở vùng biển nước ta. Chiều dài bình quân của con đực đạt 114cm, con cái đạt 139 cm; nặng đến 500kg. Chiều dài lớn nhất đạt 240cm. Mỗi tổ trứng trung bình có 80 - 90 trứng, đường kính trứng trung bình từ 5,1 - 5,5cm. Sống xa bờ, ít bắt gặp. Sinh sống ở vùng cát, vùng triều, vùng khơi, ven đảo. Sinh cảnh thích hợp là các bãi biển nhiệt đới dài, rộng có độ dốc, chỉ có cát, không có đá, nước sâu trong suốt hay có bùn mềm dưới đáy. Vùng biển nhiệt đới, ôn đới, xứ lạnh của Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương và Đại Tây Dương. Làm tổ ở các bãi đơn độc ven biển. Một số bãi làm tổ với mật độ thấp trên các đảo (Antille lớn và nhỏ, quần đảo Solomon; các đảo ở biển Bismark).
Là một trong những loài quan trọng trong hệ sinh thái biển và giúp các nhà nghiên cứu tìm hiểu chu trình di cư của loài này trên các đại oceantoàn. Rùa da đã trở nên quan trọng cho các mục đích không săn bắt như: tham quan, du lịch, học tập, nghiên cứu khoa học v.v...Trước năm 1975, nguồn lợi Rùa da ở nước ta tương đối nhiều, nhưng do tình trạng ô nhiễm ở một số vùng nước ven bờ tăng nên từ năm 1975 đến nay nguồn lợi này bị suy giảm một cách nghiêm trọng. Dự đoán số lượng giảm >80%, chỉ còn khoảng < 250 cá thể trưởng thành.

9. Cò Quăm cánh xanh
Cò quăm cánh xanh còn được biết đến với tên gọi khác là cò quăm vai trắng. Cò quăm cánh xanh là một loài chim có kích thước lớn với chiều dài từ 75cm - 85cm. Cò quăm cánh xanh là một trong những loài chim quý hiếm nhất thế giới.
Loài chim này đã biến mất hoàn toàn khỏi những vườn chim ở miền Nam trong các năm gần đây. Hiện số lượng loài này ở Việt Nam còn rất ít và có nguy cơ tuyệt chủng. Tại Vườn quốc gia Cát Tiên, chúng đậu trên một vài gốc cây gỗ lớn trơ trụi, còn lại bên bờ suối. Còn tại Hòn Chông, loài cò quăm cánh xanh kiếm ăn trên khu đồng cỏ ngập nước theo mùa, đất ruộng lúa sau thu hoạch có nước bề mặt.
Đa phần, cò quăm cánh xanh sống ở trong rừng cây thưa, ao hồ, đất ngập nước trũng hoặc các dòng sông chảy chậm trong rừng..Trên thế giới, cò quăm cánh xanh phân bố ở miền Bắc Campuchia, Đông Kalimantan của Indonesia và đồng bằng Nam Bộ, miền Nam nước Lào. Loài vật này có nguồn gen quý, bị suy giảm nghiêm trọng về số lượng, rất hiếm, hiện đang bị đe dọa tuyệt chủng trong nước, khu vực và thế giới, cần được bảo vệ. Ở nước ta, cò quăm cánh xanh đã biến mất hoàn toàn khỏi những vườn chim ở miền Nam trong các năm gần đây. Các nhà nghiên cứu tìm thấy ở Vườn quốc gia Cát Tiên (3 cá thể trong các năm 1991- 1992), và Kiên Giang, tại vùng đất ngập nước Hòn Chông (gặp 2 cá thể, năm 1999).
Số lượng cò quăm cánh xanh ở Việt Nam chỉ còn rất ít do chúng bị mất nơi cư trú. Nhìn chung, vùng làm tổ, kiếm ăn của chúng bị quấy nhiễu, bị thu hẹp, chia cắt và suy giảm do nhiều hoạt động khác nhau của con người và sự khô hạn của thời tiết. Thậm chí, cò quăm cánh xanh còn được Sách Đỏ của Tổ chức Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) xếp ở mức cực kỳ nguy cấp (CE). Loài cò này sắp có tên trong danh sách các loài động vật quý hiếm sắp tuyệt chủng. Và hiện tại ở miền Nam đã hoàn toàn biến mất.

10. Tê giác một sừng
Tê giác một sừng Việt Nam (Danh pháp khoa học: Rhinoceros sondaicus annamiticus) là một phân loài của loài tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus) phân bố ở Việt Nam sống ở Việt Nam, Lào, Campuchia, tới cả Thái Lan và Malaisia. Thuật ngữ Annamiticus bắt nguồn từ tên gọi Annamite của dãy Trường Sơn ở Đông Dương, một phần khu vực phân bố của loài này, chúng còn biết với tên Tê giác Java Việt Nam hay còn gọi đơn giản là Tê giác Việt Nam vì Việt Nam chỉ có loài này, người Xtiêng gọi chúng là Pai-ro-mhai. Phân tích di truyền cho thấy rằng hai phân loài còn tồn tại ở Việt Nam và Indonesia đã có cùng một tổ tiên chung cách đây khoảng chừng 300.000 đến 2 triệu năm trước. Giống tê giác một sừng được coi là bị tuyệt chủng tại đất liền châu Á cũng như Đông Nam Á lục địa, cho đến khi người ta phát hiện ra một cá thể tê giác bị săn bắn vào năm 1988 tại khu vực Cát Tiên.
Dù được con người quan tâm bảo tồn nhưng diện tích cư trú của tê giác vẫn bị xâm lấn 15% vào năm 1990 và con số tê giác còn sống đã giảm xuống chỉ còn 5-8 con vào năm 1999. Theo đánh giá năm 2000, có khoảng 6.000 người sống bên rìa khu vực Vườn quốc gia, ở các vùng bãi bồi triền sông, môi trường sống ưa thích của tê giác, bắt đầu xâm lấn để trồng lúa, cộng thêm với lực lượng kiểm lâm bảo vệ ít ỏi (dưới 20 người), nên người ta cho rằng tê giác Việt Nam chỉ có thể tồn tại trong vòng từ 3-5 năm nữa. Sau đó cơ quan bảo tồn ước tính chỉ còn 3-8 con tê giác và có thể không có con đực nào sống sót.
Tê giác Việt Nam sinh sống ở Vườn Quốc gia Cát Tiên tập trung chủ yếu trong phạm vi khoảng 5.000 ha rừng trên địa bàn xã Gia Viễn. Trong đó, cá thể tê giác cuối cùng đã từng sống tại khu rừng Cát Lộc, khu vực phía bắc của Vườn Quốc gia Cát Tiên. Vườn Quốc gia Cát Tiên được nhiều người biết đến bởi là khu bảo tồn động vật hoang dã và từng có loài tê giác một sừng tồn tại, trong khi đó loài này đã tuyệt chủng ở khu vực đất liền Đông Nam Á nhưng con tê giác cuối cùng cũng đã gục ngã trước tiếng súng của đám săn bắn.

11. Rùa hồ Gươm
Rùa Hồ Gươm là một loài rùa quý hiếm, thuộc một nhánh của rùa mai mềm khổng lồ sông Dương Tử. Loài này chỉ tồn tại ở hồ Gươm, Việt Nam, và gần đây, hồ Gươm đã bị ô nhiễm nặng, khiến một cá thể rùa đã chết. Những con rùa này có kích thước lớn, với chiều dài hơn 100 cm, bề ngang rộng 70 cm và nặng 70 - 100 kg. Mai rùa mềm chứ không cứng như loài rùa thông thường. Sau cái chết của cụ rùa hồ Gươm, trên thế giới chỉ còn 3 cá thể.
Rùa Hồ Gươm có đầu nhỏ, rộng, mõm ngắn, và vòi rất ngắn. Lưng màu vàng lục với những đốm vàng, yếm bụng màu trắng nhạt. Mai rùa mềm, không cứng như loài rùa thông thường. Một số thông tin lưu giữ về cá thể rùa hồ Gươm chỉ ra kích thước lớn, với cá thể nặng 250 kg và chiều dài 2,1 m. Hiện tại, Rùa Hồ Gươm được coi là động vật quý hiếm ở mức đặc biệt nguy cấp, cần được bảo vệ.

12. Cá sấu hoa cà
Cá sấu hoa cà hay được biết đến là cá sấu nước mặn là một loài bò sát lớn nhất sống ở cửa sông. Thường dài khoảng 5 - 8m và trọng lượng trung bình từ 700 kg - 1.200 kg/ con. Loài cá sấu hoa cà thường tập trung nhiều ở Ấn độ, Indonesia, và vùng cửa sông Đông Nam Á. Chúng có một cái đầu khá lớn đặc trưng bởi hai gờ nổi xuất phát từ mắt và kéo dài đến giữa mũi. Vảy loài này hình trái xoan. Cá sấu con có màu vàng nhạt, chúng mang những sọc, chấm trên thân và đuôi. Cá sấu trưởng thành có màu sẫm hơn, màu nâu vàng đến màu xám. Cá sấu hoa cà là loài bò sát cỡ lớn, khác biệt với cá sấu xiêm, có chiều dài cơ thể tới 6m. Đầu mõm dài, không có tấm sau chẩm. Đuôi cao, to và khỏe, phía trên có 4 gờ. Chân sau có màng bơi nối giữa các ngón. Thân mình được phủ tấm sừng, những tấm sừng trên lưng cách nhau bởi màng da. Cá sấu hoa cà là loài động vật thông minh và có hành vi phức tạp, thường tập trung nhiều ở cửa sông và ăn đa dạng thức ăn. Hiện nay, chúng đang đối mặt với tình trạng nguy cấp do săn bắt và mất môi trường sống. Cá sấu hoa cà là một trong những loài động vật quý hiếm và cần được bảo vệ.

13. Voọc mông trắng
Voọc mông trắng (Trachypithecus delacouri) là một loài linh trưởng đặc hữu, chỉ tồn tại tự nhiên ở Việt Nam. Loài này đã bị suy giảm nghiêm trọng cả về số lượng quần thể và cá thể. Hiện nay, chỉ còn khoảng 250 cá thể tồn tại, đặt trong tình trạng nguy cấp cực kỳ. Voọc mông trắng phân bố ở các tỉnh phía Bắc như: Yên Bái, Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh. Loài linh trưởng này có đầu mào lông màu đen và vệt lông trắng rộng hai bên má kéo dài lên phía trên vành tai.
Do những hoạt động của con người như săn bắn, khai thác gỗ, khai thác đá, đốt than... Voọc mông trắng đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng. Tuy nhiên, những nỗ lực bảo tồn và giữ gìn môi trường sống có thể giúp loài này thoát khỏi sự tuyệt chủng. Hiện nay, các nhà khoa học và tổ chức bảo tồn động vật hoang dã đang nỗ lực để bảo vệ Voọc mông trắng và ngăn chặn tình trạng suy giảm của loài này.
