1. Phân tích khổ thơ mở đầu của bài thơ 'Tràng giang' - mẫu 4
Đọc bài thơ “Tràng giang”, không thể không thừa nhận danh xưng nhà thơ “buồn” nhất trong nền văn học hiện đại Việt Nam. Nỗi buồn thường trực trong tâm hồn, cùng cảm giác lạc lõng giữa cảnh đất nước mất chủ quyền mà Huy Cận đã thể hiện qua bài thơ “Tràng giang” sau những buổi chiều dạo chơi bên bến Chèm, Hà Nội. Cảm xúc ấy, cái tôi ấy rõ nét nhất trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ:
Nhân đề bài thơ với hai vần “ang” gợi cảm giác mênh mông, bao la. Không gian của dòng sông không chỉ là một con sông thông thường mà còn mang tầm vóc vũ trụ. Thêm vào đó, việc sử dụng từ Hán Việt tạo nên âm hưởng cổ kính và tính khái quát cho bài thơ.
Không phải tác phẩm nào cũng có lời đề từ, nhưng khi có, lời đề từ thường gợi mở ý nghĩa bao quát toàn bộ nội dung tác phẩm. Trước khi vào bài thơ Tràng giang là lời đề từ của chính Huy Cận:
“Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài”
Câu thơ đề từ gợi ra không gian vũ trụ rộng lớn, mở ra cả chiều ngang lẫn chiều dọc. Trước không gian đó, con người cảm thấy lạc lõng, bơ vơ, điều này cũng phản ánh cảm xúc của bao thế hệ thi nhân. Câu thơ đề từ đã mở ra mạch cảm xúc chung của bài thơ. Bài thơ bắt đầu bằng khổ thơ thấm đẫm nỗi buồn:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Những con sóng lăn tăn theo chiều gió, không gian tĩnh lặng. Tuy nhiên, không chỉ có thiên nhiên mà còn chứa đựng tâm trạng của con người “buồn điệp điệp”, nỗi buồn không còn vô hình mà hiện rõ qua từ láy “điệp điệp”. Nỗi buồn ấy lớp lớp, nhẹ nhàng nhưng thấm đẫm, lan tỏa trong lòng. Nổi bật là hình ảnh con thuyền xuôi mái, lênh đênh, phiêu dạt.
Giữa dòng tràng giang, con thuyền trở nên nhỏ bé, đơn độc như chính con người. Từ “xuôi mái” thể hiện trạng thái buông xuôi, để dòng nước xô đẩy. Đây có lẽ là tâm trạng của con người Việt Nam trong hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ. Thuyền trôi, về lại, để lại nỗi buồn vô hạn cho người ở lại – nước. Hiện thực còn là những cành củi khô đơn độc. Đảo ngữ “củi” được đưa lên đầu câu nhấn mạnh sự vô nghĩa, tầm thường, đó cũng là hình ảnh củi khô không còn sức sống lạc trôi giữa dòng đời vô định. Hình ảnh “củi khô” ẩn dụ cho những kiếp người nhỏ bé, bơ vơ trong dòng đời rộng lớn và cái tôi lạc lõng trong Thơ mới.
Khổ thơ đầu của bài Tràng giang đã góp phần quan trọng vào giá trị nội dung và tư tưởng của bài thơ, đồng thời thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Huy Cận. Năm tháng trôi qua, tiếng thơ Huy Cận vẫn vang vọng trong lòng độc giả.
2. Phân tích khổ thơ mở đầu của bài thơ 'Tràng giang' - mẫu 5
Huy Cận, một trong những gương mặt nổi bật của phong trào Thơ Mới, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học với nỗi buồn nhân thế đặc trưng. Bài thơ “Tràng giang” của ông là tác phẩm tiêu biểu thể hiện hồn thơ của Huy Cận. Khổ thơ đầu tiên của bài thơ mô tả cảnh sông Hồng và bộc lộ nỗi buồn của thi sĩ trong bối cảnh thiên nhiên.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Những câu thơ mở đầu chứa đựng nỗi buồn của thi sĩ trước không gian thiên nhiên rộng lớn. Đọc câu thơ, người đọc hình dung được con sông không chỉ dài mà còn sâu. Cụm từ “tràng giang” gợi lên hình ảnh dòng sông dài vô tận, trong khi “điệp điệp” thể hiện sự liên tục của sóng cuộn. Nỗi buồn trong thơ được nhân hóa qua hình ảnh sóng xô vào bờ, liên tiếp và không dứt.
Trên dòng sông rộng lớn, hình ảnh con thuyền trở nên nhỏ bé, tạo nên sự đối lập rõ rệt giữa thiên nhiên bao la và con thuyền. “Con thuyền” là hình ảnh thực tại, được tác giả miêu tả như số phận nhỏ bé, nổi trôi trên sóng nước cuộc đời. Huy Cận kết hợp hình ảnh con thuyền cổ điển và từ “song song” để tạo nên một nỗi buồn sâu thẳm.
Câu thơ thứ ba gợi cảm giác chia ly, khi thuyền và nước, hai hình ảnh gắn bó, giờ đây phải xa cách. Hình ảnh nước trong câu thơ ám chỉ con người, cùng cảm giác “sầu” buồn. Cụm từ “sầu trăm ngả” gợi ra nỗi buồn trải dài khắp không gian. Con thuyền tiếp tục lênh đênh, để lại dòng nước lặng im và sâu thẳm.
Câu thơ cuối trong khổ thơ đầu mang đến hình ảnh “củi khô” mới lạ. Hình ảnh cành củi khô thiếu sức sống, cô đơn và lạc lõng trên sông. Cụm từ “lạc mấy dòng” thể hiện sự chia rẽ của cành củi giữa các dòng sông. Tác giả sử dụng đảo ngữ “củi một cành khô” để nhấn mạnh hình ảnh cành củi khô, như một số phận nhỏ nhoi, bị vùi dập và lênh đênh trên dòng đời không bến bờ.
Khổ thơ đầu của “Tràng giang” mở ra một không gian buồn và đầy cảm xúc, với các hình ảnh thiên nhiên thiếu sức sống phản ánh tâm trạng sầu muộn của thi nhân.
3. Phân tích khổ thơ đầu của bài thơ 'Tràng giang' - mẫu 6
“Chàng Huy Cận xưa kia thường hay ưu sầu
Nỗi nhớ nhung không biết đã vơi chưa
Hay lòng chàng vẫn lặng lẽ giữa mưa nắng
Cùng đất nước nặng buồn sông núi”
Huy Cận là một trong những nhà thơ nổi bật của phong trào thơ mới. Như nhận xét của Xuân Diệu, thơ Huy Cận trước cách mạng thường đậm đà nỗi buồn sâu thẳm, nỗi buồn nhân thế. Ông đã sáng tác nhiều tác phẩm thể hiện nỗi buồn ấy. 'Tràng Giang' là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận thời bấy giờ. Khổ thơ đầu của bài thơ đã miêu tả xuất sắc cảnh sông nước mênh mông, vắng vẻ của sông Hồng, đồng thời thể hiện nỗi buồn của thi sĩ trước không gian vô tận.
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Cùi một cành khô lạc mấy dòng”
Bài thơ 'Tràng Giang' được Huy Cận sáng tác vào một chiều thu, khi ông đứng bên bến nhìn ra cảnh sông Hồng rộng lớn. Mở đầu đoạn thơ, nhà thơ đã đưa hình ảnh sóng nước sông Hồng buồn bã vào tác phẩm:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Đọc câu thơ, người đọc hình dung ra một con sông mênh mông sóng nước. Cụm từ “tràng giang” cho thấy một dòng sông dài vô tận. Nhà thơ không dùng “trường giang” mà dùng từ “tràng giang” khiến dòng sông không chỉ dài mà còn sâu thẳm. Cụm từ “điệp điệp” cho thấy những đợt sóng cứ dập dồn, liên tiếp xô nhau vào bờ. Qua cái nhìn đa sầu đa cảm của thi nhân, từng đợt sóng được nhân hóa như con người, cũng biết “buồn điệp điệp”. Từng đợt sóng trên sông như hình ảnh thật ấy cũng giống như những nỗi buồn trải dài vô tận. Từ láy “điệp điệp” càng nhấn mạnh nỗi buồn lớp lớp, nỗi niềm sâu thẳm của nhà thơ. Trên dòng sông dài, không gian rộng lớn ấy, xuất hiện một con thuyền nhỏ bé:
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Hình ảnh đối lập giữa cái bao la, mênh mông của sông nước với con thuyền nhỏ giữa dòng càng gợi lên sự nhỏ bé của con thuyền. “Con thuyền” là hình ảnh tả thực nhưng dưới cái nhìn của cái tôi lãng mạn thì con thuyền cũng chỉ là thân phận nhỏ bé, nổi trôi của kiếp người. Hình ảnh con thuyền và dòng sông đã xuất hiện nhiều trong thơ ca từ cổ chí kim. Cách sử dụng hình ảnh cổ điển trong thơ cùng điệp từ “song song” càng gợi lên nỗi buồn xa vắng. Sử dụng nghệ thuật tiểu đối trong ngôn từ “buồn điệp điệp” đối với cụm từ “nước song song” tạo cho hai câu thơ nhịp thơ nhịp nhàng, chậm rãi như những tiếng thở dài não nuột đang trào dâng trong lòng nhà thơ. Đoạn thơ không chỉ gợi lên nỗi buồn mà còn gợi lên sự chia lìa vô định:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Thuyền và nước thường đi liền với nhau, nhưng ý thơ ở đây lại mang đến một sự xa cách giữa thuyền và nước. Hình ảnh nước trong câu thơ được nhân hóa như con người, cũng có cảm xúc, cũng biết “sầu” buồn. Cụm từ “sầu trăm ngả” gợi cho ta cảm giác một nỗi buồn vô tận, trải dài khắp không gian trăm ngả. Đọc câu thơ, người đọc hình dung một con thuyền lênh đênh cứ trôi nổi xa tít, để mặc dòng nước mênh mang lặng lẽ và heo hút. Bên cạnh những hình ảnh quen thuộc trong thơ xưa như sóng nước, con sông, con thuyền thì cuối đoạn thơ, nhà thơ lại đưa đến một hình ảnh và ý thơ độc đáo:
“Cùi một cành khô lạc mấy dòng”
“Cùi khô” là một hình ảnh hiện đại trong thơ Huy Cận, hiếm khi ta bắt gặp một hình ảnh như thế trong thơ ca. Câu thơ giàu giá trị gợi hình, mang đến một hình ảnh chiếc củi khô nhỏ nhoi đang lạc lõng. Cành củi vốn đã tạo cảm giác bé nhỏ, tầm thường lại còn “khô” càng mang đến một ý nghĩa thiếu sức sống. Cụm từ “lạc mấy dòng” mang ý nghĩa có chiều sâu, một cành củi khô đã vốn quá bé nhỏ lại bị quăng quật khắp mấy dòng sông nước. Nhà thơ đã dùng nghệ thuật đảo ngữ, ông không viết “một cành củi khô” mà viết “cùi một cành khô” cùng nhịp thơ 1/3/3 khác hẳn với ba câu thơ trên như muốn nhấn mạnh hình ảnh của củi cũng như thân phận nhỏ nhoi bị vùi dập lênh đênh trên dòng đời vô định.
Xuyên suốt cả đoạn thơ là nỗi buồn sâu thẳm. Tất cả hình ảnh thơ “sóng”, “thuyền”, “nước”, “cùi” hiện lên trong thơ Huy Cận đều buồn sầu không một sức sống. Bởi chính tâm hồn buồn man mác của nhà thơ đã dàn trải lên cảnh vật nên nhìn đâu cũng là nỗi sầu nhân thế. Như thi nhân xưa có viết “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Bằng việc sử dụng những hình ảnh thơ chuẩn mực trong thơ xưa cùng hình ảnh thơ hiện đại qua cái nhìn của nhà thơ, kết hợp với các biện pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ, nghệ thuật đảo ngữ, ngôn từ giàu hình ảnh… Nhà thơ Huy Cận đã vẽ nên một bức tranh mênh mang, rộng lớn nhưng buồn man mác trên sông Hồng, đồng thời thể hiện nỗi buồn về sự nhỏ nhoi, vô định của kiếp người. Đoạn thơ nói riêng cùng bài thơ nói chung là những vần thơ tiêu biểu cho hồn thơ sầu nhân thế của Huy Cận một thời.
4. Phân tích khổ thơ mở đầu bài thơ 'Tràng giang' - mẫu 7
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào thơ Mới, nổi bật với những tác phẩm mang nỗi buồn sâu lắng và chân thực. Thơ của ông thường chứa đựng những nỗi buồn sâu sắc, phản ánh tâm trạng của nhân thế và cuộc đời. Một ví dụ rõ nét là bài thơ 'Tràng Giang' – một tác phẩm thể hiện rõ nét nỗi buồn nhân thế mà Huy Cận luôn mang trong lòng. Ở khổ đầu của bài thơ, Huy Cận đã miêu tả một cách tinh tế nỗi buồn heo hút và mênh mang trong lòng trước một không gian thiên nhiên rộng lớn.
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng'
Bài thơ được Huy Cận sáng tác vào một chiều thu năm 1939, khi ông đứng một mình trước dòng sông Hồng hùng vĩ, ở tuổi hai mươi, tại bến Chèm, mang theo nỗi buồn vô tận trong tâm hồn.
Tràng Giang không chỉ là hình ảnh của thiên nhiên rộng lớn, đẹp đẽ và hùng vĩ của quê hương, mà còn ẩn chứa nỗi buồn thăm thẳm của Huy Cận và tình yêu sâu nặng với quê hương. Giữa không gian mênh mông của thiên nhiên là một cái tôi nhỏ bé, lạc lõng và cô đơn trong cuộc đời. Huy Cận, qua bài thơ, bày tỏ khao khát hòa nhập với con người và thiên nhiên, đồng thời bày tỏ nỗi lòng của một thanh niên yêu nước và quê hương. Con người trong thế giới của ông sống giữa quê hương nhưng vẫn cảm thấy bơ vơ, lạc lõng, giống như một người dân mất nước với tình yêu quê hương tha thiết.
Bài thơ kết hợp giữa yếu tố cổ điển và hiện đại, với tinh thần thơ Mới trong hình thức thất ngôn của thơ Đường. Những hình ảnh và thi tứ cổ điển đầy gợi tả và sinh động, chất thơ Đường thấm đẫm từ nhan đề đến thể thơ, thi tứ và các bút pháp nghệ thuật như đối ngẫu, song đối. Huy Cận đã sáng tác bài thơ khi đứng trên bến Chèm nhìn xuống dòng sông Hồng, vì vậy mở đầu bài thơ mở ra không gian tràn đầy sóng nước và nỗi buồn miên man:
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp'
Hình ảnh này rất chân thực và gợi tả. Một dòng sông lững lờ trôi với những con sóng gợn lên mênh mang. Cụm từ 'tràng giang' được đặt ngay đầu câu thơ, với âm 'ang' tạo tiếng vọng, gợi lên hình ảnh một dòng sông dài và rộng, vừa cổ kính vừa sâu bí ẩn. Huy Cận đã tinh tế khi dùng từ 'tràng giang' thay vì 'trường giang', làm nổi bật chiều sâu bí ẩn của dòng sông và nỗi buồn thấm vào tâm hồn nhà thơ. Sóng liên tiếp nối nhau 'điệp điệp' tràn lên bờ.
'Điệp điệp' – từ láy gợi sự liên tục và vô tận. Sóng 'gợn' trên mặt nước sông nối nhau 'điệp điệp', như nỗi buồn trong lòng tác giả, miên man và trải dài vô tận. Từ láy 'điệp điệp' càng nhấn mạnh nỗi buồn sâu thẳm của nhà thơ. Dòng sông bao la và đột ngột xuất hiện một chiếc thuyền nhỏ bé, lạc lõng:
'Con thuyền xuôi mái nước song song'
Chiếc thuyền nhỏ bé lững lờ trôi theo dòng nước, đối lập với sự bao la của dòng sông, gợi sự cô đơn và lạc lõng. Con thuyền không như con đò trên sông Đà của Nguyễn Tuân vượt thác ghềnh, mà là con thuyền buông thõng mái chèo 'xuôi mái', bị dòng nước đẩy trôi thụ động. Con thuyền trở thành hình ảnh của những số phận nhỏ bé, lạc lõng giữa cuộc đời. Dòng sông chính là dòng chảy của cuộc sống, con thuyền chỉ là một vật thể nhỏ bé. Huy Cận sử dụng hình ảnh cổ điển này để gợi nỗi lòng mình, với từ 'song song' nhấn mạnh sự bất lực và lạc lõng của con thuyền.
Nghệ thuật tiểu đối trong hai câu thơ đầu 'buồn điệp điệp' – 'nước song song' tạo sự nhịp nhàng, chậm rãi, như tiếng thở dài đầy não nề của Huy Cận khi nhìn dòng sông. Nỗi buồn của ông thấm vào cảnh vật, mỗi hình ảnh đều sầu muộn, không có chút vui tươi. Con thuyền giữa dòng sông gợi sự chia ly:
'Thuyền về nước lại sầu trăm ngả'
Thuyền và nước thường đi cùng nhau, nhưng ở đây lại gợi sự xa cách và buồn tủi. Nghệ thuật đối ngẫu 'thuyền về nước lại' cho thấy sự chia lìa, thuyền và nước mỗi thứ đi một hướng, tạo sự buồn bã. Thuyền và nước được nhân hóa, cảm xúc 'sầu trăm ngả' lan tỏa vô tận. Câu thơ gợi cảm giác con thuyền cứ trôi xa mãi, còn dòng nước lặng lẽ ở lại, khiến người đọc cảm nhận nỗi buồn sâu sắc. Tuy nhiên, điểm đặc biệt trong bài thơ là hình ảnh:
'Củi một cành khô lạc mấy dòng'
Huy Cận sử dụng hình ảnh cành củi khô giữa dòng nước – một hình ảnh độc đáo trong thi ca Việt. Cành củi khô, nhỏ bé, lạc lõng trong dòng nước, gợi cảm giác hoang tàn và thiếu sức sống. Nghệ thuật đảo ngữ nhấn mạnh sự héo úa của cành củi và sự lẻ loi giữa dòng sông rộng lớn. Cành củi như hình ảnh của một thân phận bé nhỏ, bơ vơ giữa dòng đời. 'Mấy dòng' nước, mấy dòng đời, mà không thể chọn con đường đi, con người lạc lõng giữa cuộc đời. Huy Cận, như Tố Hữu trong 'Dậy lên thanh niên', cảm nhận sự bơ vơ, vô định trong cuộc đời mình:
'Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước cuốn trôi'
Huy Cận đang trong tình trạng đó, với nỗi buồn mênh mang hơn cả Tố Hữu. Khổ thơ đầu của 'Tràng Giang' cho thấy nỗi buồn xuyên suốt trong từng câu chữ, mọi hình ảnh đều sầu muộn và lạc lõng. Nỗi buồn nhân thế của Huy Cận đã ngấm vào cảnh vật quanh ông. Nguyễn Du đã nói:
'Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'
Những phép đối, hình ảnh thơ và biện pháp tu từ trong bài thơ giúp chúng ta cảm nhận cái tôi nhỏ bé giữa cuộc đời, đứng trước thiên nhiên rộng lớn và vũ trụ bao la. Khổ thơ và bài thơ 'Tràng Giang' tiêu biểu cho hồn thơ mang nỗi sầu nhân thế của Huy Cận – một nhà thơ tài năng của phong trào thơ Mới.
5. Phân tích khổ thơ đầu trong bài thơ 'Tràng Giang' - mẫu 8
Huy Cận nổi tiếng là nhà thơ của phong trào thơ mới với các tác phẩm chủ yếu ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên nhưng lại chứa đựng nỗi buồn sâu lắng. Tràng Giang là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, được đánh giá cao cả về nội dung và nghệ thuật.
Bài thơ được sáng tác vào năm 1939 khi ông đứng bên bờ Nam Bến Chèm ngắm sông Hồng. Cảnh vật nơi đây đã khơi gợi nguồn cảm hứng sáng tạo không ngừng trong ông. Khổ thơ đầu, dù ngắn gọn, đã thể hiện rõ bức tranh sông nước mênh mông cùng tâm trạng của thi sĩ.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Bài thơ mở đầu với những câu thơ mang đậm phong cách cổ điển. Cảnh vật thiên nhiên qua tâm hồn thi sĩ hiện lên mới mẻ và độc đáo. Bức tranh thủy mặc hiện ra rõ nét với hình ảnh sóng gợn và thuyền xuôi. Sóng gợn nhẹ nhưng cứ “điệp điệp” mãi không ngừng, khiến con thuyền trôi mãi theo dòng nước. Từ láy trong hai câu thơ này làm tăng nhịp điệu và sự độc đáo của văn phong.
Bức tranh sông nước hiện lên đẹp đẽ qua lời thơ của tác giả. Tuy nhiên, tâm hồn con người lại chứa đựng nỗi buồn sâu thẳm. Nỗi buồn này được thể hiện qua từ ngữ, cho thấy dù sông nước mênh mông, con người vẫn chỉ là sinh vật nhỏ bé giữa thiên nhiên rộng lớn.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Sự tách biệt giữa thuyền và nước thể hiện sự xa cách mênh mông. Hình ảnh thuyền và nước được nhân hóa để tăng cường cảm xúc. Cụm từ “sầu trăm ngả” mang đến cảm giác buồn vô tận. Đọc câu thơ, chúng ta hình dung được cảnh con thuyền lênh đênh giữa dòng nước rộng lớn. Đối lập giữa thuyền và sông làm nổi bật nỗi buồn sâu sắc của thi sĩ.
Nhà thơ còn sử dụng hình ảnh “củi khô” để nhấn mạnh sự cô đơn của con người giữa trời đất rộng lớn. Cành củi khô thể hiện sự thiếu sức sống, và phép đảo ngữ cùng nhịp thơ 1/3/3 nhấn mạnh thân phận con người bị vùi dập. Trước khung cảnh ấy, thi sĩ cảm thấy nỗi buồn man mác về cuộc đời trôi nổi và sự cô độc giữa thế gian.
Khổ thơ đầu trong bài Tràng Giang cho thấy sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa bút pháp hiện đại và cổ điển, tạo nên những câu thơ gần gũi nhưng vẫn tác động mạnh mẽ. Nhan đề bài thơ độc đáo với kiểu tả cảnh ngụ tình.
Thêm vào đó, sự xuất hiện của từ láy trong khổ thơ 1 mang lại nhiều giá trị biểu cảm, giúp cảm nhận rõ sự mênh mông của dòng sông Hồng và sự nhỏ bé của con người trong cảnh vật ấy. Huy Cận cũng thành công với những hình ảnh độc đáo như “củi một cành khô”, tạo điểm nhấn ấn tượng nâng cao giá trị tác phẩm.
6. Phân tích khổ thơ đầu bài 'Tràng Giang' - mẫu 9
Bài thơ “Tràng Giang” được sáng tác trong thời kỳ trước cách mạng, thể hiện nỗi u buồn sâu sắc và sự bế tắc trong cuộc sống của con người giữa dòng đời trôi nổi. Bài thơ đã để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng độc giả.
Tràng Giang không chỉ là một tác phẩm xuất sắc của Huy Cận mà còn là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Mặc dù nhiều người hiểu Tràng Giang là bài thơ miêu tả phong cảnh quê hương và tình yêu đối với quê hương, nhưng thực tế đây là bài thơ diễn tả nỗi cô đơn và sự lạc lõng của con người ngay trong chính quê hương của mình.
Bài thơ được in trong tập “Lửa Thiêng” của Huy Cận, xuất bản vào năm 19. Đúng như lời nhà thơ Huy Cận chia sẻ, bài thơ được cảm hứng từ sông Hồng, vùng Chèm Vẽ và những con sông khác, tuy nhiên nó chủ yếu nói về nỗi buồn của thế hệ, nỗi buồn không tìm thấy lối thoát, kéo dài vô tận. Điều này thể hiện rõ qua khổ thơ đầu.
Trước tiên, chú ý đến tiêu đề bài thơ là “Tràng Giang” chứ không phải “Trường Giang”, để tránh nhầm lẫn với sông Trường Giang ở Trung Quốc hay các con sông dài nói chung. Trong tiếng Việt, “tràng giang” thường được sử dụng trong thành ngữ “tràng giang đại hải”, chỉ một không gian mênh mông và trống rỗng khiến người ta cảm thấy chán nản. Bài thơ mở đầu với một cảnh sông nước mênh mông và vô tận:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Ngay từ câu đầu, bài thơ không chỉ miêu tả sông nước mà còn diễn tả nỗi buồn bất tận, bằng hình ảnh ẩn dụ: sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp, tương tự như nỗi buồn trùng điệp. Nhà thơ tập trung vào những con sóng nhỏ, tuy nhiều nhưng chỉ thoáng qua rồi biến mất mãi mãi. Con thuyền thường được coi là biểu tượng cho cuộc đời lênh đênh, cô đơn và không định hướng, ở đây con thuyền xuôi theo dòng nước nhưng không thực sự hòa quyện với nước, vì nước chảy theo nhiều ngả khác nhau, thuyền theo ngả nào? Thuyền di chuyển cùng dòng nước để rồi chia tay với dòng nước.
Câu thứ ba diễn tả sự chia ly: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. Thuyền buồn vì phải rẽ dòng, còn nước buồn vì không biết trôi về đâu. Câu cuối đoạn này càng nhấn mạnh kiếp người nhỏ bé và lạc lõng: “Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Nhìn của nhà thơ vẫn tập trung vào những vật nhỏ bé: sóng, thuyền, củi khô. Tác giả lưu ý không phải là cây gỗ mà chỉ là “củi một cành khô”, một mảnh vụn khô xác của thân cây.
Toàn bộ khổ thơ đầu vẽ lên một không gian sông nước bao la, vô định và rời rạc. Các đường nét: nước song song, buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng không hứa hẹn sự hội tụ hay gặp gỡ mà chỉ là chia ly và xa vắng. Trên dòng sông đó, một con thuyền, một nhánh củi nổi lên càng làm rõ sự nhỏ bé và bất lực. Tất cả từ thuyền buồm, cành củi khô đến sóng gợn và sông nước đều mang nỗi buồn.
7. Phân tích khổ thơ mở đầu của bài 'Tràng giang' - mẫu 10
Nhà thơ Huy Cận, tên thật là Cù Huy Cận, nổi tiếng với những tác phẩm thể hiện nỗi sầu thế sự và tình yêu thiên nhiên. Trước Cách mạng tháng Tám, ông đã để lại dấu ấn với nhiều tác phẩm nổi bật như 'Lửa thiêng' và 'Vũ trụ ca'. Bài thơ 'Tràng giang' trong tập 'Lửa thiêng' là một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông, với dòng cảm xúc u buồn, lạc lõng của kiếp người giữa bao ngả rẽ cuộc đời. Đặc biệt, đoạn thơ đầu đã tạo ấn tượng sâu sắc với người đọc nhờ vào tâm hồn thơ độc đáo của tác giả.
Ngay từ tiêu đề, tác giả đã khéo léo gợi lên vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên và phản ánh tâm trạng con người. Sông Hồng dài rộng, ôm trọn non sông Việt Nam. Việc sử dụng từ 'tràng' thay vì 'trường' làm nổi bật bề rộng của dòng sông, không chỉ là con sông do tạo hóa tạo ra, mà còn là dòng sông của đời người, chứa đựng bao tâm tư, suy nghĩ.
Nhiều thi sĩ đã dùng thiên nhiên để bày tỏ lòng mình, và nỗi buồn của con người rất đa dạng: buồn vì tình yêu, tình bạn, sự nghiệp. Huy Cận cũng vậy, ông buồn vì chưa tìm ra con đường cho cuộc đời, cho kiếp người cô đơn trước vũ trụ bao la. Đây là vẻ đẹp quyến rũ của tác phẩm, chứa đựng tinh thần hiện đại. Ngay từ đầu bài thơ, người đọc đã gặp những con sóng đầy tâm tư:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Trong thơ Xuân Quỳnh, bà cũng sử dụng hình ảnh sóng để thể hiện nỗi buồn của thuyền và biển. 'Sóng' trở thành chất xúc tác dẫn đến cảm xúc của đời người. Hai từ láy 'điệp điệp' và 'song song' ở cuối câu thơ mang đậm ảnh hưởng của Đường thi, làm cho tâm trạng người đọc cũng trải dài theo dòng sông. Sóng cứ vỗ mãi, loang xa, dập dềnh. Trên dòng sông ấy, chỉ có một chiếc thuyền buông thả theo dòng, không quan tâm đến đích đến. Tài năng của Huy Cận trong việc miêu tả sự chuyển động của sóng và thuyền tạo nên cảm giác lặng lẽ, cô đơn. Tiếp theo dòng cảm xúc đó, Huy Cận viết:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Thuyền và nước, thường gắn bó, nhưng Huy Cận cảm nhận chúng đang tách biệt, không còn chung đường. Từ 'lại' trong câu thơ mang nỗi tiếc nuối, làm cho cảm xúc 'sầu' thêm sâu sắc. Từ 'trăm' được sử dụng để diễn tả nỗi tiếc thương vô hạn, cho thấy sự chia ly giữa thuyền và nước không mong muốn. Tâm hồn của nhân vật trữ tình được thể hiện rõ qua câu thơ:
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Hình ảnh cành củi khô, thiếu sự sống, làm nổi bật sự cô đơn, lạc lõng. Nó không giống như những hình ảnh sống động khác. Cành củi trôi đi không biết sẽ đến bến bờ nào, mang theo nỗi sầu vô định của thi nhân. Sự giản dị của hình ảnh này khiến người đọc cảm thấy trống rỗng, cô đơn.
Tài năng 'tả cảnh ngụ tình' của Huy Cận thật đáng khâm phục. Những hình ảnh như 'con sóng', 'chiếc thuyền', 'cành khô' thường gặp trong thơ, nhưng trong tác phẩm của ông, chúng truyền tải những cảm xúc sâu sắc, hiện đại, không thể hòa lẫn với các bài thơ khác.
8. Phân tích khổ thơ đầu bài 'Tràng giang' - mẫu 11
Khi bàn về các tác phẩm của Huy Cận trước Cách mạng, không thể không nhắc đến bài thơ 'Tràng Giang'. Đây là tác phẩm được viết vào năm 1939, khi tác giả còn là sinh viên. Huy Cận đứng bên bờ nam sông Hồng, nhìn ra vẻ mênh mông rộng lớn của con sông với đầy cảm xúc. Từ những cảm nhận đó, ông đã tạo nên bài thơ này.
Trước hết, ta phải chú ý đến nhan đề của bài thơ. Như đã biết, nhan đề là sự tinh túy của toàn bài thơ, là điểm đầu tiên gây sự chú ý của người đọc. Nó không chỉ gợi sự tò mò mà còn tạo hứng thú. Huy Cận đã chọn từ 'Tràng Giang', với 'tràng' nghĩa là dài, và 'giang' nghĩa là dòng sông, để chỉ một con sông dài. Việc chọn từ 'Tràng Giang' thay vì 'Trường Giang' có ý nghĩa đặc biệt, với từ 'Tràng Giang' gợi cảm giác về sự bao la của dòng sông.
Bài thơ mở đầu bằng lời đề từ: 'Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài'. Lời đề từ này đã khái quát nội dung và cảm hứng của bài thơ. Cảm xúc chủ đạo là nỗi buồn sâu lắng, thể hiện qua từ 'bâng khuâng'. Đây là nỗi buồn không rõ nguyên nhân nhưng đầy da diết, hình thành khi nhà thơ đứng trước không gian 'trời rộng, sông dài', khiến con người cảm thấy nhỏ bé, cô đơn. Ngay trong khổ thơ đầu tiên của bài thơ, cái tôi và nội dung được thể hiện rõ:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”.
Khi đứng trước dòng sông rộng lớn, không thể không nghĩ đến những con sóng. Ngay câu thơ đầu tiên đã nhắc đến sóng như một phần của tâm trạng. Từ 'Tràng Giang' được nhắc lại một lần nữa. Huy Cận chọn từ 'Tràng' thay vì 'Trường' để phân biệt với sông Trường Giang của Trung Quốc, tạo cảm giác về không gian rộng lớn. Giữa sóng và không gian rộng lớn, nhân vật trữ tình hiện lên.
Dù không được nhắc trực tiếp, ta vẫn cảm nhận được sự hiện diện của tác giả. Sóng nhỏ giữa mặt nước mênh mông trở nên cô độc và mang nỗi 'buồn điệp điệp'. Nỗi buồn kéo dài vô tận. Câu thơ thứ hai thay đổi góc nhìn từ xa đến gần:
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Thuyền vốn tưởng sẽ làm nổi bật sự sống của con người nhưng lại thêm phần nỗi buồn thê lương. Thuyền nhỏ bé, đơn độc đối lập với sự mênh mông của 'tràng giang', càng làm tăng nỗi buồn khi thuyền 'xuôi mái', buông theo dòng nước. Huy Cận dùng nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Thuyền tưởng như đang chuyển động nhưng thực chất lại bất động. Câu thơ thứ ba tiếp tục mô tả hình ảnh thuyền và sông:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Thuyền phá vỡ quy luật bình thường, 'xuôi mái' nhưng lại có sự di chuyển 'về – lại', tạo cảm giác phi logic như sự lo âu, lạc lõng của tác giả. Khổ thơ kết thúc với một hình ảnh đặc biệt:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Nhành củi nhỏ bé, lạc lõng giữa dòng nước, tượng trưng cho sự cô đơn của tác giả và cuộc đời nhỏ bé trôi nổi. Với những hình ảnh độc đáo, tác giả đã tạo nên một bức tranh thủy mặc về cảnh sông nước, thể hiện nỗi buồn thấm đẫm trong từng cảnh vật.
Phân tích khổ thơ đầu bài 'Tràng giang' - mẫu 12
Đọc bài thơ “Tràng giang”, không ai có thể không công nhận danh hiệu nhà thơ “buồn” nhất của Huy Cận trong văn học hiện đại Việt Nam. Nỗi buồn thấm đẫm trong tâm hồn cùng cảm giác lạc lõng giữa một đất nước mất chủ quyền đã được ông thể hiện trong bài thơ “Tràng giang” sau những chiều dạo chơi bên bến Chèm, Hà Nội. Nỗi lòng đó, cái tôi đó hiện rõ nhất trong khổ thơ đầu tiên của tác phẩm:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Huy Cận là một trong những cái tôi nổi bật nhất của phong trào thơ Mới 1930-1945. Thơ của ông chứa đựng nỗi buồn hoài cổ và nhiều sáng tạo độc đáo. Bài thơ “Tràng giang” là một thành công lớn trong sự nghiệp thơ ca của Huy Cận trước Cách mạng. Khổ thơ đầu tiên khái quát không gian sông nước mênh mông từ điểm nhìn mặt sông. Đọc khổ thơ đầu tiên, ta cảm nhận được nỗi buồn đìu hiu, xa vắng với bốn hình ảnh trầm buồn: sóng, thuyền, nước và cành củi. Từ câu thơ mở đầu, nỗi buồn đã hiện rõ:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp”
Tác giả dùng từ “tràng giang” như một nhãn tự, điểm mấu chốt xuyên suốt bài thơ. Việc sử dụng từ Hán Việt “tràng giang” không chỉ để phân biệt với con sông Trường Giang (Trung Quốc) mà còn để gợi tả không gian rộng lớn, mênh mông với âm “a” và điệp “ang”. Trong không gian rộng lớn ấy, một cơn sóng nhỏ bé chuyển động, giữa biển trời rộng lớn, nó trở nên cô đơn và mang nỗi buồn khủng khiếp, “buồn điệp điệp”. Nỗi buồn ấy như gấp nhiều lần với từ láy “điệp điệp”.
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Câu thơ thứ hai đưa ta đến hình ảnh con thuyền, tưởng chừng như sẽ mang lại hơi thở của sự sống. Nhưng, Huy Cận lại cảm nhận được nỗi buồn thê lương hơn khi thuyền đang ở trạng thái “xuôi mái”, phó mặc, không mục đích, không phương hướng. Hình ảnh thuyền, giống như sóng, là một bút pháp thể hiện sự bất động qua sự vận động. Câu thơ thứ ba có cấu trúc đặc biệt:
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Hình ảnh thuyền và nước dường như phá vỡ quy luật tự nhiên. Nước chảy và thuyền trôi cùng hướng. Nhưng hai thực thể này lại đối lập “về” – “lại”. Sự phi lý này phản ánh tâm trạng lo âu, lạc lõng của tác giả. Nếu ba câu thơ đầu đều là hình ảnh quen thuộc như sóng, thuyền, nước thì câu thơ cuối lại lạ lùng:
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Trái ngược với các hình ảnh quen thuộc trong văn học trung đại, Huy Cận sử dụng từ “củi” để phá vỡ mọi quy tắc cũ, tạo nên một cái tôi độc đáo, sáng tạo. Câu thơ với cấu trúc đảo trật tự, từ “một cành củi khô” thành “củi một cành khô”, thể hiện nỗi cô đơn, ảo não, buồn tủi của kiếp hồng nhan lo lắng về dòng đời bất trắc. “Củi”, “khô” là vật chết, “một cành” là đơn độc, và “lạc mấy dòng” thể hiện sự lạc lõng, chơi vơi. Câu thơ phản ánh sự chết chóc, chán chường, cô độc trước dòng đời.
Như vậy, những hình ảnh vừa quen thuộc vừa lạ, giàu hàm súc và sức gợi, cùng với cách gieo vần, điệp âm và từ láy “điệp điệp”, “song song”, khổ thơ đã hội tụ mọi đặc trưng của thơ ca hiện đại. Phân tích khổ thơ đầu bài “Tràng giang”, ta thấy cái tôi Huy Cận buồn “ảo não”, hoài cổ, và thể hiện chân dung một trí thức đa sầu đa cảm, yêu thiên nhiên và quê hương sâu sắc. Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận xứng đáng đưa nhà thơ trở thành đỉnh cao của thơ Mới.
10. Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài 'Tràng giang' - mẫu 13
Huy Cận là một trong những nhà thơ tiên phong của phong trào thơ Mới. Những bài thơ của ông thường toát lên nỗi buồn sâu lắng và mênh mông của thời đại. Đoạn đầu bài thơ 'Tràng Giang' chính là minh chứng rõ nét nhất cho điều đó.
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, buồn trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Bài thơ 'Tràng Giang' được Huy Cận viết vào một chiều thu, khi ông đứng lặng bên bờ sông Hồng. Ngay từ những dòng đầu tiên, nhà thơ đã miêu tả cảnh sông nước vắng lặng, mênh mông như chính nỗi buồn sâu thẳm của ông đối diện với không gian rộng lớn ấy.
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp”
Câu thơ đầu tiên gợi lên hình ảnh một dòng sông rộng lớn, bao la nhưng lại thiếu vắng sự sống. Nỗi buồn càng trở nên nặng nề khi Huy Cận sử dụng từ 'Tràng Giang' thay vì 'Trường Giang', tạo nên một dòng sông không chỉ rộng lớn về chiều dài mà còn sâu thẳm vô tận.
Thuật ngữ “buồn điệp điệp” diễn tả những con sóng liên tục dập dềnh, mang theo nỗi buồn của thi nhân được nhân hóa, khiến nó trở nên vô cùng sâu lắng. Nỗi buồn như những con sóng không ngừng xô vào bờ, kéo dài vô tận. Giữa cảnh vật tĩnh lặng bên sông, hình ảnh con thuyền xuất hiện trong câu thơ:
“Con thuyền xuôi mái nước song song”
Giữa dòng sông bao la, con thuyền hiện lên nhỏ bé, bồng bềnh. Người đọc không thể phân biệt được con thuyền là thực hay chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng. Với cái nhìn đượm buồn, Huy Cận dệt nên hình ảnh con thuyền để thể hiện sự nhỏ bé và sự trôi nổi của một kiếp người. Con thuyền trong thơ của Huy Cận không giống như trong các tác phẩm khác, với từ “song song” không chỉ gợi ra tiếng thở dài mà còn tạo nhịp điệu cho câu thơ.
“Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”
Nhà thơ diễn tả sự chia ly giữa thuyền và nước. Tính từ “sầu trăm ngả” được nhân hóa, giúp người đọc cảm nhận sâu hơn nỗi buồn của nước khi thuyền dần khuất bóng, đồng thời gợi lên sự tĩnh lặng và heo hút của không gian này.
“Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Hình ảnh cành củi nhỏ bé, lạc lõng giữa dòng nước rộng lớn như thân phận nhỏ bé của con người bị chiến tranh tàn phá, trôi nổi trên dòng đời bất định. Những hình ảnh sóng, thuyền, nước và củi đã tạo nên một khổ thơ tuyệt vời với những vần điệu của Huy Cận, dù đơn giản nhưng lại đầy ý nghĩa, thể hiện thân phận con người trong thời đại bấy giờ.
Phân tích khổ đầu bài thơ 'Tràng Giang' giúp người đọc nhận ra sự tài hoa của Huy Cận và tình yêu quê hương sâu sắc của ông. Chính vì vậy, Xuân Diệu đã viết:
“Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
Nỗi nhớ nhung không biết đã vơi chưa
Hay lòng chàng vẫn tủi nắng sau mưa
Cùng đất nước nặng buồn sông núi”
11. Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài 'Tràng Giang' - mẫu 14
Khác với những bài thơ sôi nổi, tràn đầy nhiệt huyết trong thời kỳ đổi mới sau cách mạng tháng Tám, thơ Huy Cận trước cách mạng lại chứa đựng sự u sầu và nỗi buồn trước thời cuộc. Chính vì vậy, bài thơ 'Tràng giang' đã thể hiện rõ nét sự cô đơn của cá nhân trước không gian mênh mông của thiên nhiên. Điều này được thể hiện rõ nét qua khổ thơ đầu của bài.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Khổ thơ đầu trong bài 'Tràng giang' của Huy Cận gợi ra những nỗi niềm sâu lắng của con người trước cảnh sông dài và trời rộng. Hình ảnh dòng sông rộng lớn hiện lên trong sự bao la, mênh mông, không phải là trường giang mà là tràng giang, tạo nên cảm giác về những lớp sóng vô tận, trải dài không ngừng. Trên dòng sông đó, sóng gợn lên liên tiếp, như thể không có điểm dừng.
Những từ láy như 'điệp điệp' và 'song song' tạo ra sự dập dềnh của sóng nước. Dòng tràng giang mà Huy Cận miêu tả là sông Hồng. Câu thơ 'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp' thể hiện nỗi buồn khôn tả của tác giả, kéo dài như những lớp sóng nối tiếp, là nỗi buồn chồng chất, tầng tầng lớp lớp. Sự hòa quyện giữa tạo vật và tâm tư này sẽ được thể hiện xuyên suốt trong tác phẩm.
Hình ảnh con thuyền xuôi mái giữa dòng sông gợi cảm giác lênh đênh, trôi nổi, như thể nó bị cuốn trôi theo dòng nước. Câu thơ này có thể hiểu là con thuyền bất lực trước sức mạnh của thiên nhiên, gợi cảm giác buồn thương sâu sắc về những kiếp người trôi nổi, phiêu dạt. Trong xã hội cũ, thuyền thường hướng về bến, nhưng ở đây, con thuyền chỉ thấy một bến bờ cô đơn mà thôi.
Sự chia ly giữa thuyền và nước được thể hiện qua câu 'thuyền về nước lại sầu trăm ngả'. Từ 'sầu trăm ngả' tăng cường sự buồn bã, nỗi sầu lan tỏa rộng lớn hơn. Dòng sông Hồng giờ trở thành một dòng sầu cuồn cuộn, hòa cùng tiếng nước như tiếng sầu đang nức nở. Tình cảm và cảnh vật hòa quyện trọn vẹn.
Hình ảnh con thuyền và lớp sóng gợi nhớ đến những câu thơ của Xuân Diệu: 'Tôi là con nai nhỏ bị chiều giăng lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối'
Sự tương đồng này phản ánh nỗi niềm của một thế hệ trước cách mạng. Đúng như Huy Cận đã khẳng định, nỗi buồn thời đại kéo dài triền miên. Câu thơ 'Củi một cành khô lạc mấy dòng' gợi ra hình ảnh cành củi khô, so sánh với sự nhỏ bé và đau thương của con người. Hình ảnh này còn tạo nên sự tương phản đặc sắc giữa cành củi và dòng sông mênh mông, phản ánh mối quan hệ giữa con người và vũ trụ.
Nỗi buồn là tâm trạng chung của các nhà thơ lãng mạn thời bấy giờ, và bài thơ 'Tràng Giang' tiêu biểu cho hồn thơ 'sầu ảo não' của Huy Cận. Bài thơ này được coi là mở đường cho thơ về quê hương đất nước, với cách sử dụng ngôn từ và biện pháp tu từ độc đáo.
12. Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài 'Tràng giang' - mẫu 1
Huy Cận nổi bật trong phong trào thơ Mới với những tác phẩm mang đậm dấu ấn nỗi buồn vời vợi. Bài thơ 'Tràng Giang' chính là minh chứng cho điều đó. Bằng những vần thơ sâu lắng, Huy Cận đã diễn tả nỗi buồn nhân thế đậm nét, phản ánh sự trầm tư của tác giả trước cảnh vật bao la. Đoạn mở đầu bài thơ là một bức tranh buồn bã giữa không gian rộng lớn:
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp'
'Con thuyền xuôi mái nước song song'
'Thuyền về nước lại sầu trăm ngả'
'Củi một cành khô lạc mấy dòng'
Phần mở đầu của bài thơ mở ra trước mắt chúng ta một cảnh tượng tràn ngập sóng nước:
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp'
Câu thơ ngắn gọn nhưng bao quát cả khung cảnh rộng lớn, đồng thời gợi lên cảm xúc sâu lắng. Dòng sông dài, rộng với sóng gợn liên tiếp hiện lên rất chân thực. “Tràng giang” với âm “ang” nối nhau tạo thành một tiếng vọng, vẽ lên hình ảnh dòng sông mênh mông. Từ láy “điệp điệp” gợi lên sự liên tục không dứt, làm nổi bật nỗi buồn vô tận của tác giả. Trên dòng sông bao la, hình ảnh chiếc thuyền nhỏ lạc lõng hiện lên:
'Con thuyền xuôi mái nước song song'
Chiếc thuyền nhỏ bé trôi chậm chạp đối lập với dòng sông rộng lớn. Không giống như con thuyền mạnh mẽ của Nguyễn Tuân, con thuyền trong thơ Huy Cận chỉ buông xuôi để dòng nước đưa đi. Trong cảm nhận của Huy Cận, con thuyền chính là biểu tượng của những phận người lạc lõng giữa dòng đời rộng lớn.
Từ láy “song song” nhấn mạnh sự bất lực của con thuyền, như thể nó không biết mình sẽ trôi về đâu. Nghệ thuật đối lập 'buồn điệp điệp' và 'nước song song' tạo nên sự nhịp nhàng, lặng lẽ diễn tả nỗi buồn của Huy Cận. Nỗi buồn hòa quyện vào cảnh vật, thể hiện sự chia ly trong câu thơ:
'Thuyền về nước lại sầu trăm ngả'
Hình ảnh thuyền và nước tưởng chừng gắn bó lại trở nên chia lìa, tạo nên sự buồn tủi. Thuyền và nước dường như mang trong mình nỗi sầu không cùng, lan tỏa khắp không gian. Câu thơ vang lên, nỗi buồn như tràn ngập, tạo nên hình ảnh độc đáo:
'Củi một cành khô lạc mấy dòng'
'Củi' là hình ảnh đơn sơ, mộc mạc nhưng dưới góc nhìn của Huy Cận, nó gợi lên nỗi cô đơn, hoang tàn. Cành củi khô lạc lõng giữa dòng sông mênh mông, không thể xuôi dòng như thuyền, bị cuốn trôi, bơ vơ. Hình ảnh này biểu thị thân phận nhỏ bé, lạc lõng, phản ánh nỗi sầu lo của con người giữa dòng đời xô đẩy.
'Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước'
'Chọn một dòng hay để nước cuốn trôi'
Với những câu thơ cô đọng, Huy Cận đã khéo léo sử dụng các biện pháp nghệ thuật để thể hiện tâm trạng nhỏ bé trước cuộc đời. Nỗi buồn trong thơ Huy Cận không chỉ là nỗi lòng của cá nhân mà còn phản ánh tâm trạng chung của thế hệ trước tình cảnh đất nước mất chủ quyền.
Khổ thơ này đóng góp không nhỏ vào giá trị nội dung và tư tưởng của bài thơ, đồng thời thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo của Huy Cận. Dù thời gian trôi qua, âm vang của thơ Huy Cận vẫn mãi còn trong lòng độc giả.
13. Phân tích khổ thơ đầu bài 'Tràng giang' - mẫu 2
Con người thường giấu kín những cung bậc cảm xúc của mình qua những giai điệu, câu thơ và câu văn. Các nhà văn, nhà thơ là những người bộc lộ tâm tư của mình qua từng câu chữ đậm đà tình cảm. Huy Cận là một ví dụ điển hình, người mà qua mỗi bài thơ, độc giả đều cảm nhận được nỗi lòng sâu thẳm của ông. 'Tràng giang' là một tác phẩm nổi bật, làm rung động lòng người đọc với sự chân thực của cảm xúc. Đặc biệt, khổ thơ đầu tiên trong bài thơ đã khắc họa một khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, làm nổi bật nỗi cô đơn sâu lắng của tác giả.
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.'
Tựa đề bài thơ, 'Tràng giang' - từ Hán Việt có nghĩa là 'sông dài', gợi nên một không gian rộng lớn, cổ kính. Điệp âm 'ang' trong tựa đề tạo ra một âm vang rộng lớn, kéo dài, làm nổi bật không gian bao la. Đề tựa bài thơ, 'Bâng khuâng trời rộng, nhớ sông dài', cũng thể hiện rõ ràng cảm xúc chủ đạo của tác phẩm. Huy Cận mở ra một cảnh quan sông dài rộng lớn, nhưng đồng thời là cảm giác cô đơn, lạc lõng của con người.
'Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp'
Mặc dù chỉ là một câu thơ ngắn, nhưng đã diễn tả được toàn bộ khung cảnh bao la và nỗi buồn trong lòng tác giả. 'Sóng gợn' - hình ảnh những làn sóng nhỏ xíu lan tỏa trên dòng sông dài rộng, tạo nên một cảm giác mơ hồ. Từ láy 'điệp điệp' diễn tả sự liên tiếp của sóng, làm nổi bật nỗi buồn dai dẳng của tác giả. Hình ảnh chiếc thuyền nhỏ lẻ loi nổi bật trong không gian bao la:
'Con thuyền xuôi mái nước song song'
'Thuyền về nước lại sầu trăm ngả'
Trước khung cảnh rộng lớn, chiếc thuyền hiện lên với sự cô đơn, lạc lõng. Những tưởng 'thuyền' và 'nước' là hai thực thể không thể tách rời, nhưng qua cái nhìn của Huy Cận, chúng lại chia lìa. Hình ảnh đối lập giữa 'thuyền' và 'nước' phản ánh nỗi buồn chia lìa của tác giả.
Hình ảnh 'củi một cành khô lạc mất dòng' trong câu thơ cuối của khổ thơ đầu là một sự kết hợp độc đáo. 'Củi' là hình ảnh đơn giản, nhưng dưới cái nhìn của Huy Cận, nó mang một ý nghĩa sâu sắc. Đảo ngữ 'củi một cành khô' gợi lên sự cô đơn, lạc lõng, phản ánh tâm trạng của tác giả trong thời kỳ đất nước khó khăn.
Với chỉ hai mươi tám chữ, khổ thơ đã vẽ nên một bức tranh cảm xúc phong phú về một tâm hồn nhạy cảm trước tình cảnh đất nước. Huy Cận đã thành công trong việc sử dụng các biện pháp nghệ thuật như điệp ngữ và ẩn dụ để miêu tả nỗi buồn của mình. 'Tràng giang' nói chung và khổ thơ đầu nói riêng là một tác phẩm xuất sắc, ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc. Huy Cận đã khéo léo kết hợp miêu tả cảnh quan với tâm tư cá nhân, phản ánh tình yêu quê hương sâu sắc của mình.
14. Bài văn phân tích khổ thơ đầu bài 'Tràng giang' - mẫu 3
Trong khi Xuân Diệu là thi sĩ của thời gian đầy ám ảnh, thì Huy Cận lại là nhà thơ của nỗi đau không gian. Khi đọc 'Tràng giang', không ai có thể phủ nhận rằng Huy Cận là một trong những nhà thơ u sầu nhất của văn học Việt Nam hiện đại. Nỗi buồn tồn tại sâu thẳm trong tâm hồn ông và cảm giác lạc lõng giữa cảnh nước mất đất còn được ông thể hiện trong bài thơ 'Tràng giang' sau những chiều dạo chơi bên bến Chèm, Hà Nội. Khổ thơ đầu tiên của bài thơ chính là nơi nỗi lòng ấy, cái tôi ấy được bộc lộ rõ nét nhất:
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.”
Huy Cận, một trong những nhà thơ nổi bật nhất của phong trào thơ Mới 1939-1945, đã tạo ra một phong cách thơ riêng biệt với chiều sâu xã hội và triết lý. Ông bắt đầu sáng tác từ năm 1934, và đã có nhiều tác phẩm đáng chú ý như tập thơ 'Lửa thiêng' (1940), 'Trời mỗi ngày lại sáng' (1958), 'Đất nở hoa' (1960),... Bài thơ 'Tràng giang', sáng tác năm 1939 và lần đầu đăng trên báo 'Ngày nay', sau đó được in trong tập 'Lửa thiêng', đã mở ra một cảnh sông nước mênh mông ngay từ khổ thơ đầu tiên:
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Khung cảnh và cảm xúc của con người được hòa quyện trong từng câu thơ. Những gợn sóng trên sông Tràng giang như dạt dào không ngừng, giống như nỗi buồn của con người cứ trào dâng mãi. Nỗi buồn 'điệp điệp' làm xao xuyến lòng người. Tác giả nhìn ngắm cảnh vật với tâm trạng sầu tư, cảm nhận rằng nỗi buồn của mình như những đợt sóng liên tục dập dềnh. Sự hiện diện của con sóng trên sông hòa quyện với nỗi buồn sâu lắng trong lòng, nhẹ nhàng mà mênh mang. Câu thơ của Huy Cận nhấn mạnh mối tương quan giữa sóng và nỗi buồn, với con thuyền trôi tự do trên dòng nước gợi lên cảm giác cô đơn và cuộc đời bất định.
Giữa khung cảnh bao la của Tràng giang, điểm nhìn của tác giả tập trung vào những gợn sóng nhỏ trên mặt nước. Sóng hiện lên rồi lại biến mất như thời gian trôi qua không thể quay lại. Trong khi thuyền và nước thường gắn bó chặt chẽ, ở đây chúng chỉ song song nhau, không còn cùng đi suốt đoạn đường sông dài vô tận. Con thuyền và dòng nước như hai đường thẳng song song, không bao giờ gặp gỡ, điều này gợi lên cảnh chia ly và biệt ly giữa thuyền và nước:
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng
Huy Cận đã mượn hình ảnh con thuyền cô độc giữa dòng sông để bộc lộ sự lạc lõng và cô đơn. Câu thơ 'Củi một cành khô lạc mấy dòng' mang đến cho chúng ta sự cảm nhận sâu sắc về sự đơn độc. Trong khi dòng sông rộng lớn, chỉ còn lại một cành củi khô nhỏ bé, làm nổi bật sự nhỏ nhặt và đáng thương của nó.