1. Cua đỏ Australia
Vào mùa mưa, những đàn cua đỏ hàng triệu con ở đảo Christmas, Australia, lại di cư ra biển để bắt đầu mùa sinh sản mới. Hành trình di cư của những con cua đỏ sẽ bắt đầu từ các khu rừng ở đảo Christmas đến bờ biển Ấn Độ Dương. Số lượng cua đỏ trong đàn cua di cư có thể từ 40 triệu đến 120 triệu con. Trong mùa cua đỏ di cư, các tấm biểu báo cấm đường dành cho các phương tiện và người đi bộ được đặt ở nhiều nơi trong vùng.
Cư dân thời cổ của đảo Christmas hiếm khi nhắc đến loài cua này. Có khả năng số lượng cực lớn của loài cua đỏ như hiện nay là kết quả của việc chuột cống Maclear - nhân tố hạn chế số lượng cua đỏ - đã tuyệt chủng. Khảo sát cho thấy có trung bình 0,09–0,57 con cua đỏ trưởng thành trong mỗi mét vuông, ứng với tổng số lượng cua đỏ trên toàn bộ đảo Christmas là khoảng 43,7 triệu. Một số ý kiến khác ước tính rằng có 120 triệu con cua đỏ tồn tại trên đảo Christmas, nhưng không có bằng cớ rõ ràng.
Việc bùng nổ quần thể loài kiến Anoplolepis gracilipes (với tư cách là một loài xâm hại) vừa được tình cờ du nhập vào đảo Christmas đã có ảnh hưởng tiêu cực đến quần thể cua đỏ trên đảo. Theo ước tính có khoảng 10-15 triệu con cua đỏ (chiếm 1/3 đến 1/4 tổng số cua đỏ) đã bị kiến A. gracilipes tiêu diệt trong thời gian gần đây. Tính tổng cộng, có chừng 15-20 triệu cua đỏ đã bị kiến A. gracilipes xóa sổ khỏi đảo Christmas.
Vào tháng 10-12 hàng năm, khi trời bắt đầu đổ mưa, cua đỏ di cư với quy mô lớn ra vùng bờ biển để sinh sản. Mỗi con cua phải vượt qua một đoạn đường dài 8 cây số trong vòng 9 đến 18 ngày. Sở dĩ chúng có thể vượt qua một quãng đường dài như vậy, vì khi đến mùa sinh sản, cua tiết ra nhiều nội tiết tố hyperglycemic giáp xác (CHH) giúp tăng lượng đường glucoza trong máu, đảm bảo cung cấp đủ năng lượng cho cuộc hành trình dài. Khi đến được bờ biển, cua cái sẽ giao phối với cua đực trong các hang đã được con đực đào sẵn, và sau khi giao phối cua cái tiếp tục bò ra biển để đẻ trứng. Trái với các loài cua đất khác trên đảo, cua đỏ là loài giáp xác duy nhất có con đực cùng đồng hành với con cái trong chuyến thiên di ra biển.
2. Cá trích
Cá trích là loài cá tập trung thành đàn với số lượng lên đến hàng chục triệu con, chiếm diện tích rộng lớn. Chúng sống đàn để giảm nguy cơ bị săn mồi và tập trung vào sinh sản.
Cá trích giống cá mai nhưng lớn hơn, có da màu xanh, xương nhỏ, thân dài mảnh, hai hàm bằng nhau. Chúng có vẩy tròn mỏng, màu sắc rực rỡ, và sống ở tầng nước mặt.
Trong tự nhiên, cá trích là mồi cho nhiều loài săn mồi như chim biển, cá heo, sư tử biển và cá voi. Đặc biệt, chúng là nguồn thức ăn chính của đại bàng đầu trắng.
Ở Việt Nam, ngư dân thường đặt tên riêng cho các loài cá trích mà họ bắt được, như cá trích ve và cá trích lầm, với đặc điểm về hình dáng và hương vị khác nhau.
3. Linh dương đầu bò
Linh dương đầu bò là loài linh dương có thể tập trung thành đàn lớn đến hàng chục triệu con, một khoảng cách có thể dài hơn 140 km. Tuy nhiên, số lượng linh dương đầu bò đã giảm đáng kể do săn bắn, mất môi trường sống và bệnh tật.
Chúng có tập tính di cư và ít di cư. Ở Ngorongoro, hầu hết chúng ít di cư và con đực duy trì lãnh thổ quanh năm, mặc dù việc sinh sản là theo mùa tự nhiên. Trong các hệ sinh thái khác, quần thể linh dương đầu bò chủ yếu là di cư.
Hằng năm, một số quần thể linh dương đầu bò ở Đông Phi thực hiện cuộc di cư đường dài, thường liên quan đến mùa mưa và sự phát triển của cỏ.
4. Tôm Krill
Tôm krill, loài động vật giáp xác nhỏ, sống thành từng đàn lớn. Mật độ cá thể trong đàn có thể đạt 10.000 - 30.000 con trong một mét khối. Chúng tồn tại ở mọi đại dương trên thế giới, đặc biệt là vùng biển Nam Cực, nơi đàn tôm krill lớn nhất có thể trải dài khoảng 10 km và sâu 30 m.
Tôm krill, mặc dù nhỏ bé, lại đóng vai trò quan trọng đối với sự cân bằng sinh thái đại dương. Sự khai thác quá mức tôm krill ảnh hưởng nghiêm trọng đến đa dạng sinh học đại dương và ngành công nghiệp đánh cá toàn cầu.
Krill sử dụng chân bơi để điều chỉnh hướng và lọc thức ăn từ nước biển, đồng thời là nguồn thức ăn quan trọng cho nhiều loài động vật biển, bao gồm cả cá voi xanh - loài cá có thể ăn 2.500 kg krill mỗi ngày.
5. Kiến Argentina
Gần đây, các nhà khoa học phát hiện một đàn kiến Argentina khổng lồ với số lượng kiến có thể phủ kín gần như toàn cầu. Đàn kiến lớn nhất có thể kéo dài gần 6.000 km dọc theo bờ Địa Trung Hải.
Kiến Argentina, tên khoa học Linepithema humile, là một loài kiến bản địa Argentina, Uruguay, Paraguay. Nó là loài xâm lấn ở nhiều khu vực có khí hậu Địa Trung Hải trên thế giới như ở Nam Phi, New Zealand, Nhật Bản, đảo Phục Sinh, Australia, Hawaii, châu Âu, và Hoa Kỳ, loài kiến này giết chết các loài kiến bản địa khác và phát triển lan rộng.
Kiến Argentina vốn khác ở chỗ chúng không tấn công nhau khi không cùng tổ như các loài kiến khác, trong một tổ có thể thấy có nhiều kiến chúa mà các loài kiến khác không có và có thể nói đây là cách chúng thành công trong việc xâm lấn chỗ ở của các côn trùng bản địa.
Kiến Argentina có thể lan rộng trên toàn thế giới bởi chúng chúng có hai đặc điểm khác với những loài kiến cận nhiệt đới khác. Thứ nhất, chúng có thể sống sót trong mùa đông lạnh giá trong những hang động sâu dưới lòng đất.Thứ hai, chúng còn là những kẻ cực kỳ hiếu chiến và mạnh mẽ. Loài kiến thông thường chung sống với nhau hết sức hòa bình. Thậm chí cả khi đi kiếm thức ăn chúng cũng cố gắng kết bạn với nhau. Nhưng kiến Argentina là một loài rất cố chấp. Chúng đi tới đâu sẽ liên tục tấn công các tổ kiến bản địa tới đó.
Chúng phá hoại tổ của những loài kiến bản địa, 'trục xuất' hoặc giết những con kiến sống trong tổ đó. Mỗi cuộc đột kích như thế này, kiến Argentina huy động tới hàng chục ngàn con kiến mạnh và hiếu chiến tham gia. Bởi vậy, mỗi bước tiến của kiến Argentina sẽ làm các loài kiến bản địa phải lùi bước, ngoại trừ loài kiến mật.
6. Phù du
Một con phù du trưởng thành thường sống từ một đến hai ngày. Thông thường, tất cả các con phù du sẽ phát triển gần như cùng một lúc, tập trung thành các đàn lớn và phủ kín bầu trời khi di chuyển. Vì vòng đời của phù du khá ngắn, nên chúng sống tập trung để duy trì sinh sản. Trong số gần 2.500 loài phù du trên thế giới, có khoảng 630 loài được tìm thấy ở Bắc Mỹ.
Phù du là nhóm côn trùng tương đối nguyên thủy, thể hiện một số đặc điểm cổ xưa có lẽ đã hiện diện ở những côn trùng bay đầu tiên. Ấu trùng của phù du sống trong nước ngọt và chỉ sống ở môi trường nước sạch, không bị ô nhiễm. Bộ Phù du sống trong nước, có thể sống từ 1 đến 3 năm, sau khi lột xác lên bờ chúng chỉ có thể sống trong vài giờ ngắn ngủi.
Động vật phù du là các động vật trôi nổi có kích thước từ luân trùng cực nhỏ đến có thể nhìn thấy được bằng mắt thường như là con sứa. Sự phân bố của động vật phù du bị chi phối bởi độ mặn, nhiệt độ và thức ăn sẵn có trong môi trường. Các động vật phù du nhỏ nhất có thể được mô tả là các nhà tái chế chất dinh dưỡng trong cột nước và thường được gắn liền với các biện pháp làm giàu dinh dưỡng.
Động vật phù du lớn hơn là thức ăn quan trọng cho các loài cá dùng làm mồi và giai đoạn ấu trùng của mọi loài cá. Chúng cũng liên kết các sinh vật sản xuất bậc nhất (thực vật phù du) với các sinh vật của bậc dinh dưỡng cao hơn hoặc lớn hơn. Cộng đồng động vật phù du bao gồm cả hai nhóm: sinh vật tiêu thụ bậc nhất ăn thực vật phù du, và sinh vật tiêu thụ bậc hai làm thức ăn cho động vật phù du khác.
7. Châu chấu
Các bầy chấu hàng triệu con là ác mộng đối với người nông dân. Thậm chí, nhiều bầy châu chấu còn có đến hàng nghìn tỷ con. Một trong những kỷ lục về bầy châu chấu khổng lồ từng được ghi nhận ở Bắc Mỹ vào năm 1875. Kích thước của bầy châu chấu này được ước tính khoảng 500.000 km2, tương đương diện tích của bang California, Mỹ. Bầy châu chấu có khoảng 12,5 nghìn tỷ con.
Kỷ lục bầy đàn đông nhất trong thế giới động vật thuộc về châu chấu. Ở Đông Phi vào đầu năm 2020, có một đám mây châu chấu sa mạc quét qua bầu trời, trải rộng hàng nghìn km2. 'Nó giống như một tấm chăn đen che phủ bầu trời, dày đặc đến mức rất khó để nhìn thấy những đám mây', nhà nghiên cứu Emily Kimathi tại Trung tâm Sinh lý học và Sinh thái học Côn trùng ở Kenya, mô tả.
Sự kiện đặc biệt đó là bầy đàn lớn nhất được quan sát thấy ở vùng Sừng châu Phi trong 25 năm. Các chuyên gia ước tính rằng chúng tụ tập với mật độ khoảng 50 triệu con trên 1 km2, có nghĩa là đàn châu chấu duy nhất sẽ chứa khoảng 200 tỷ con. Châu chấu sa mạc được biết đến với khả năng sinh sản rất nhanh, có thể tăng gấp 20 lần số lượng trong khoảng thời gian ba tháng.
200 tỷ là con số đáng kinh ngạc, nhưng dữ liệu từ quá khứ cho thấy các đàn châu chấu có thể phát triển đông hơn nhiều trong điều kiện môi trường lý tưởng. Vào năm 1875, một nhà khí tượng học tên là Albert Child đã sững sờ khi thấy những con châu chấu bay vùn vụt trên bầu trời trong một bầy đàn khổng lồ che phủ phần lớn miền tây nước Mỹ. Loài này là châu chấu núi Rocky và Albert ước tính chúng bao phủ một vùng trời rộng 512.800 km2.
Sự kiện lịch sử này ngày nay còn được gọi là 'đàn châu chấu của Albert'. Dựa trên ước tính của nhà khí tượng học, số lượng của chúng có thể lên tới 3,5 nghìn tỷ con. Đây được cho là số lượng động vật lớn nhất trong một đàn mà con người từng ghi nhận được.
8. Chim cánh cụt
8. Chim cánh cụt
9. Chim quelea mỏ đỏ
Chim quelea mỏ đỏ là loài chim hoang dã có số lượng đông nhất thế giới. Khi tập trung trung thành đàn lớn, chim quelea mỏ đỏ có thể gây thiệt hại cho các loại cây trồng, tương tự như tác hại của các đàn châu chấu.
Quelea chủ yếu ăn hạt của các loại cỏ hàng năm, nhưng cũng gây hại trên diện rộng cho các loại cây ngũ cốc. Vì vậy, nó đôi khi được gọi là 'châu chấu lông vũ của châu Phi'. Các biện pháp kiểm soát dịch hại thông thường là phun thuốc diệt mốihoặc cho nổ bom lửa trong các thuộc địa khổng lồ trong đêm. Các biện pháp kiểm soát trên diện rộng phần lớn đã không thành công trong việc hạn chế dân số quelea. Khi thức ăn cạn kiệt, loài này di cư đến những địa điểm có lượng mưa gần đây và lượng cỏ dồi dào; do đó nó khai thác nguồn thức ăn của mình rất hiệu quả.
Nó được coi là loài chim không thuần dưỡng nhiều nhất trên trái đất, với tổng số quần thể sau sinh sản đôi khi đạt đỉnh ước tính khoảng 1,5 tỷ cá thể. Nó kiếm ăn theo đàn khổng lồ lên đến hàng triệu cá thể, với những con chim hết thức ăn ở phía sau bay qua cả đàn đến khu vực kiếm ăn mới ở phía trước, tạo ra hình ảnh một đám mây cuộn.
Chim quelea mỏ đỏ là những loài chim có kiểu cách làm tổ cầu kỳ phức tạp (có lẽ là phức tạp nhất trong các loại tổ chim), mặc dù một vài loài đáng chú ý vì thói quen sinh đẻ ký sinh có chọn lọc. Tổ của chúng phụ thuộc theo loài và khác nhau về hình dáng, kích thước, vật liệu, cách thức làm tổ. Vật liệu làm tổ có thể là các sợi lá nhỏ, cỏ, cành cây nhỏ. Nhiều loài kết (dệt) các tổ rất đẹp bằng cách dùng các sợi tơ mỏng từ gân lá, mặc dù một số, như rồng rộc trâu, làm ra các tổ to và xộc xệch bằng que củi nhỏ trong bầy của chúng, với trong đó có một vài tổ hình cầu được dệt lại. Chim quelea mỏ đỏ ở châu Phi xây các tổ dạng phòng-nhà, trong đó từ 100 tới 300 cặp có các gian riêng rẽ hình thót cổ và chúng chui vào theo các đường ống ở đáy. Phần lớn các loài làm tổ có lối vào hẹp và hơi quay đầu xuống phía dưới.
10. Ong mật
Trong một đàn có ong chúa, ong đực và ong thợ. Ong chúa có thân dài 20 – 25 mm. Cánh ngắn, kim châm ngắn. Ong đực: thân dài 15 – 17 mm. Không có ngòi châm, cánh lớn. Ong đực chỉ có một tác dụng là giao phối với chúa tơ. Ong thợ: là những con ong cái mà bộ phận sinh dục bị thoái hoá, không có khả năng thụ tinh. Ong thợ thực hiện tất cả công việc của đàn ong: bảo vệ tổ, sản sinh sữa chúa để nuôi ấu trùng, hút mật hoa luyện thành mật ong.
Trong xã hội ong mật, một ít ấu trùng được chọn làm ong chúa và đa số còn lại làm ong thợ. Đối với ong mật, các enzym trong ruột của ong mật có khả năng hóa giải chất độc của loại thuốc trừ sâu thường được sử dụng để diệt ve trong tổ ong mật. Ong mật có lông trên mắt để chúng thu nhặt phấn hoa. Ong có 5 mắt - 3 mắt nhỏ trên đỉnh đầu và 2 mắt to ở phía trước. Một con ong cần phải tìm 4.000 bông hoa để tạo nên đủ một thìa mật ong.
Về thiên địch, ngoài mối đe dọa từ vi rút (là nguyên nhân chính dẫn tới sự suy giảm của loài ong mật) và nấm độc, ong mật Bắc Mỹ còn gặp bị ruồi ký sinh biến thành xác chết biết bay đó là ruồi cái Apocephalus borealis tiêm trứng vào bụng nạn nhân. Ấu trùng ruồi sau khi ăn sạch phần cơ quan ở vùng ngực của ong sẽ đục khoét cơ thể sinh vật này và chui ra ngoài.
11. Dơi
Các nhà nghiên cứu sử dụng thiết bị định vị GPS để theo dõi dấu tích di cư của tám loài ngựa vằn từ vùng đất Namibia đến Botswana trong vài tháng. Quãng đường di cư của chúng lên đến 500km tại khu vực bảo tồn thiên nhiên hoang dã Serengeti. Đây là chuyến di cư trên cạn lịch sử, dài nhất từ trước đến nay trong thế giới động vật có vú.
Ngoài ra, các nhà sinh vật học vô cùng ngạc nhiên trước xu hướng di cư của loài ngựa vằn, đi trên đường thẳng so với các loài khác có lộ trình quanh co. Đó cũng là lý do vì sao quãng đường di cư của ngựa vằn thường dài hơn so với các loài động vật có vú, hoang dã như linh dương đầu bò, linh dương sừng cong, linh cẩu, voi…
Ngoài ra, nghiên cứu còn đưa ra bằng chứng về các tác động tiêu cực của con người đến khu vực sống của các loài động vật hoang dã, như việc xây dựng đường biên giới, đường cao tốc, xe lửa... làm ảnh hưởng quá trình di cư tự nhiên. Điều đó dẫn đến những tác hại nghiêm trọng trong việc tìm kiếm thức ăn, nước uống, đe dọa sự sống còn của các loài động vật hoang dã trước tình trạng khí hậu thay đổi thất thường hiện nay.
13. Cá mòi
Cá mòi tên tiếng Anh là pilchard hay sardine là một vài loài cá dầu nhỏ thuộc họ cá trích. Tên Sardine được đặt theo tên một hòn đảo Địa Trung Hải của Sardina. Cá mòi có thân dài, chiều ngang hình bầu dục. Lưng chúng có màu hơi xanh hoặc nâu, bụng có màu bạc. Cá mòi ăn rong rêu, trứng cá, lăng quăng và các loại tôm tép nhỏ. Ban ngày cá mòi ở độ sâu khoảng 30 – 60 m và ban đêm chúng trồi lên ở độ sâu 15 – 30 m. Cá mòi có một chiếc đồng hồ sinh học chính xác, giống với đồng hồ sinh học của cá hồi ở phương Tây. Trứng cá mòi nở ra ở nước ngọt, cá con lớn lên theo dặm dài sông suối chảy ra biển cả để tới khi xuân về, mùa sinh sản tới chúng lại ngược dòng về đúng nơi mình sinh ra để làm công việc bổn phận của chúng là sinh sản.
Cá mòi thường di cư theo đàn, chúng thường bơi với số lượng hàng triệu con, chúng rẽ nước vụt lao đi trong lòng đại dương, việc cá mòi di cư tạo nên những màn khiêu vũ tuyệt đẹp trong lòng đại dương. Cảnh tượng hàng triệu con cá mòi bơi theo đàn và cuộn lấy nhau trong cuộc di cư khổng lồ thường niên đã tạo nên một cảnh tượng ngoạn mục. Những con cá mòi lóng lánh ánh bạc, di chuyển thành đàn lớn, tạo ra những hình thù kì dị. Tuy nhiên, khi phát hiện ra chướng ngại, chúng động loạt di chuyển sang các phía để tránh. Khi gặp kẻ thù hay chướng ngại vật, đàn cá khổng lồ nhanh chóng biến hình, tạo ra những cảnh tượng kì vĩ. Để chống lại những loài cá lớn như cá mập, cá heo, cá voi hay chim ó bao quanh, đàn cá mòi kết thành khối cầu khổng lồ, đường kính 20m, cuồn cuộn lao đi[4] với số lượng hàng chục triệu con, đàn cá thực sự là khối cầu khổng lồ dưới đáy đại dương.
Cá mòi di cư là hiện tượng các con cá mòi di chuyển tập trung với nhau thành từng đợt sóng cá lớn và di chuyển đến các vùng nước ấm theo lịch trình bản năng của chúng. Cuộc di cư của đàn cá mòi dài 15 km, rộng 3,5 km và sâu đến 40 mét. Hành trình của những đàn cá khổng lồ này lớn đến nỗi có thể nhìn thấy được từ vệ tinh. Cảnh tượng ngoạn mục như thế được gọi tên là cuộc chạy trốn của cá mòi hay hiện tượng chạy trốn của cá mòi và đây là một cuộc di cư vĩ đại hàng năm.
14. Bướm chúa
Bướm chúa là một loài động vật nhỏ với hàng triệu con mỗi lần di cư. Đây là loài bướm duy nhất di cư theo cả hai hướng từ Bắc xuống Nam và ngược lại như các loài chim. Tuy nhiên, do vòng đời ngắn, không cá thể nào trong đàn bướm sống sót qua chặng đường di cư. Chúng đẻ trứng trên suốt hành trình di cư.
Những phân tích này làm mới hiểu biết về lịch sử của loài bướm di cư với bộ cánh phối hợp hai màu cam sáng và đen đặc biệt này. Trước đây, nhiều nhà khoa học nghĩ rằng hiện tượng di trú chỉ mới xuất hiện gần đây vì hầu hết thành viên của họ bướm chúa sinh sống bên ngoài Bắc Mỹ là loài nhiệt đới. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu dựa trên việc lập di truyền phả hệ cho thấy loài bướm di cư này có nguồn gốc từ loài xuất hiện hơn 2 triệu năm trước.
Các nhà khoa học hy vọng kết quả nghiên cứu này sẽ hỗ trợ các biện pháp bảo tồn tập quán di cư cho loài bướm này, đặc biệt là trước tình trạng giảm số lượng đáng kể trong thời gian gần đây.