1. Thông tin mô tả
Phân thứ bộ Cua hay cua thực sự (tên khoa học: Brachyura) là một nhóm động vật giáp xác, có thân rộng hơn bề dài, mai mềm, mười chân có khớp, hai càng trước đã tiến hóa thành càng, vỏ xương bọc ngoài thịt, phần bụng nằm bẹp dưới hoàn toàn được che phủ bởi phần ngực. Động vật dạng cua tồn tại đa dạng ở tất cả các vùng biển và đại dương. Có loài sống trong sông, suối, đồng ruộng, chẳng hạn như các loài trong họ Cua núi (Potamidae) hay họ Cua đồng (Parathelphusidae) và một số loài sống trên cạn (họ Gecarcinidae). Đầu cua và thân nối liền nhau trong một khối với lớp vỏ bọc bên ngoài.
Tên gọi phổ biến của các loài trong nhóm này bao gồm cua, cáy, còng, đam, rạm, dã tràng, ghẹ, cà ra,... nhưng các tên gọi này dường như không tương ứng với các nhóm đơn ngành theo quan điểm phát sinh loài hiện đại, mà chỉ dựa vào hình thái hoặc môi trường sống của chúng. Hiện nay, ước tính có khoảng gần 6.800 loài.
Thuật ngữ 'Brachyura' có nghĩa là 'đuôi ngắn' (tiếng Hy Lạp: βραχύς / brachys = ngắn,[3] οὐρά / οura = đuôi), chỉ rõ rằng nhóm này có phần 'đuôi' (thực chất là bụng) ngắn, nằm ở phía dưới và thường bị che khuất bởi phần ngực.

2. Cấu tạo trong
Ban đầu, bộ phận trên của mai cua được cắt bỏ để lộ các cơ quan nội tạng nằm bên trong đầu ngực. Ở phía trước trên là dạ dày, tiếp theo là tim và khối manh tràng ruột. Tuyến gan nằm hai bên dạ dày, còn tuyến sinh dục ở gần trên. Mang khớp ở phía dưới tuyến gan tụy, kết nối một đầu với phần phụ và một đầu tự do trong phòng mang.
Hệ tiêu hóa: Lỗ miệng ở mặt bụng nối với thực quản ngắn, chạy theo trục lưng bụng, đổ vào dạ dày. Dạ dày có thượng vị với bộ máy nghiền kitin và hạ vị ngăn cách với khoang thượng vị qua cửa thông. Hai bên khoang hạ vị có hai manh tràng hạ vị nằm trên tuyến gan tụy. Khoang hạ vị nối với ruột chạy về phía sau vào phẫn bụng và cuối cùng là lỗ hậu môn ở đuôi bụng. Phần đầu ruột còn có đôi manh tràng ruột dài. Tuyến gan tụy phát triển mạnh mẽ, chiếm toàn bộ phần trước của đầu ngực và chứa nhiều thùy hình sợi.
Hệ tuần hoàn bao gồm: Tạng gan tụy, Tim, Dạ dày nghiền, Ống dẫn tinh, Tinh hoàn, Manh tràng ruột, Mang, Ống ruột, Cơ quan quạt nước, Hậu môn. Máu của cua không có màu sắc, trong suốt. Tim của cua có hình năm góc, nằm phía sau dạ dày trong bao tim mỏng và trong suốt, có 3 đôi lỗ tim: 2 đôi phía lưng, 1 đôi phía bụng. Từ tim, 2 động mạch lớn phát ra về phía trước và sau cơ thể, đi vào cơ quan và sau đó theo các khe xoang tập trung vào mang, nơi máu tiếp nhận O2 và thải CO2, sau đó máu chạy qua các ống mạch trở về tim.
Hệ hô hấp: Có 8 đôi mang lớn dính liền với phần gốc của các phần phụ nằm trong khoang mang ở hai bên của đầu ngực. Ngoài ra, còn có các mang khỏa nước. Các mang khớp có một trục dọc và hai dãy lá mang xếp liên tục dọc theo trục mang. Nước bên ngoài đi vào mang cua thông qua khe hút ở dưới càng cua, các mang khỏa nước khuấy trong khoang mang khiến nước chảy vào liên tục, và nước thoát ra qua khe ở dưới xúc tu thứ hai. Do đó, dòng nước luôn chảy liên tục trong mang. Nước đi qua mang, các huyết quản của mang tiếp nhận O2 và thải CO2 vào nước ra ngoài. Khi cua lên cạn, lượng nước giữ lại trong khoang mang giúp cua tiếp tục thực hiện hô hấp và sống được một thời gian dài.
Hệ sinh dục: Ở con đực, tuyến tinh màu trắng nhạt nằm trên tuyến gan tụy. Ống dẫn tinh dài cuộn lại rồi đổ vào lỗ sinh dục đực ở mặt bụng. Ở con cái, tuyến trứng thay đổi màu sắc tùy theo giai đoạn phát triển của tế bào sinh dục. Trứng chín có màu đỏ cam. Ống dẫn trứng ngắn và to đổ thẳng ra lỗ sinh dục cái ở mặt bụng gần gốc của đôi chân thứ ba của cua.
Hệ thần kinh: Hệ thần kinh của cua có đặc điểm là có sự tập trung cao của các hạch thần kinh ở ngực và bụng. Phần đầu bao gồm hạch não và vùng thần kinh thực quản. Mỗi nhánh của vùng này có một hạch nhỏ, được xem là hạch giao cảm. Vòng thần kinh thực quản kết nối với hạch thần kinh ngực bụng, với nhiều dây thần kinh đi tới các phần phụ ngực và nội tạng. Giữa khối hạch này có một lỗ nhỏ. Phía sau khối hạch thần kinh ngực bụng, có một đôi dây thần kinh bụng dài đi vào phần bụng. Ở vùng trước, sau não, trên các hạch ngực, hạch thị giác và cuống mắt có tuyến thần kinh nội tiết, có khả năng tiết các kích thích tố điều khiển lột xác, sinh giao tử, phân hóa tính đực, cái, biến đổi màu sắc, bao gồm tuyến lột xác và điều khiển sinh trưởng, tuyến kìm hãm sinh trưởng, lột xác.

3. Cấu tạo của loài cua
Bắt đầu với phần đầu ngực: Phần này kết hợp giữa đầu và ngực của cua, ranh giới giữa các đốt không rõ ràng và dựa vào phần phụ mang để xác định số đốt. Đầu bao gồm 5 đốt mang chứa mắt, anten và các phần miệng. Ngực có 8 đốt mang chứa chân hàm và chân bò. Mặt lưng của phần đầu ngực được che phủ bởi giáp đầu ngực (mai cua) với mé trước có hai hố mắt chứa hai mắt nằm trên cuống mắt. Giữa hai hố mắt, mép trước của giáp đầu ngực có 9 gai liên tiếp. Mặt trên của giáp phân chia thành các vùng nhỏ được ngăn cách bởi rãnh và gờ rõ rệt. Vùng trán ở phía trước, tiếp theo là vùng dạ dày được ngăn cách bởi hai gờ, rồi đến vùng tim và sau cùng là vùng ruột. Hai bên vùng dạ dày là vùng gan. Ở phía ngoài là vùng mang. Mặt bụng của phần đầu ngực có các tấm bụng tạo thành một lõm giữa chứa phần bụng gập vào. Ở cua cái, có đôi lỗ sinh đục ở tấm bụng thứ ba được phần bụng gập lại che lấp.
Chuyển sang phần bụng: Phần này bao gồm 7 đốt, có phần phụ bị giảm bớt nằm gấp lại dưới phần đầu ngực, thường gọi là yếm cua. Điều này giúp cua trở nên ngắn và gọn hơn, thuận lợi cho việc bò. Phần bụng ở cua cái và cua đực có những khác biệt. Ở cua cái chưa trưởng thành sinh dục, phần bụng (yếm) hơi vuông (còn được gọi là cua cái yếm vuông, cua cái so). Sau khi lột xác tiền giao vĩ, yếm trở nên tròn (yếm bầu) che phủ phần lớn mặt bụng của phần đầu ngực. Phần bụng của cua đực hẹp, ngang hẹp dần về phía sau thành hình tam giác và cũng nằm gọn trong phần lõm của các tấm bụng của phần đầu ngực. Ở cua cái, các đốt bụng I, II và VII khớp động với nhau, trong khi các đốt bên và các đốt khác không di chuyển. Các chân bụng chẻ đôi và biến thành các chùm lông yếm để trứng dính vào và phát triển. Lỗ hậu môn nằm ở cuối cùng. Ở cua đực, các đốt bụng I, II, V và VI khớp động với các đốt bên. Các chân bụng thoái hóa và trở thành đôi gai giao cấu, với lỗ hậu môn ở cuối cùng.
Các phần phụ:
- Hàm dưới I: gồm phần gốc hai lá. Trên đầu hai lá có nhiều lông… Nhánh trong của phần ngọn dạng bản mỏng gồm hai đốt có lông ở cạnh trong.
- Hàm dưới II: gồm phần gốc hai lá: lá trong hình lưỡi dao, đầu có nhiều lông; lá ngoài hai nhánh đầu loe rộng và có nhiều lông.
- Chân hàm I: gồm phần gốc hai lá: lá trong nhỏ và trên đầu có nhiều lông cứng, lá ngoài đầu loe rộng và mép ngoài có lông ngắn. Phần ngọn gồm hai nhánh: nhánh trong hình lá cờ, mép trong có nhiều lông dài, nhánh ngoài gồm 3 đốt. Ở phần gốc còn có tấm kitin mỏng hình lá lúa có tơ dài theo hướng phía ngoài và lui về sau gọi là mang khỏa nước.
- Chân hàm II: gồm có nhiều phần gốc nhỏ, phần ngọn hai nhánh, nhánh trong 5 đốt, mép trong có nhiều lông, nhánh ngoài có 3 đốt. Phía ngoài từ phần gốc có mang khớp hình lông chim và ngoài cùng ở phía dưới có mang khỏa nước.
- Chân hàm III: đã kitin hóa rất mạnh, gồm phần gốc hai đốt. Phần ngọn có hai nhánh.
- Chân ngực: gồm 5 đôi. Đôi thứ nhất phát triển lớn đầu có kẹp (càng cua). Ở con đực, hai càng có kích thước khác nhau, thường càng bên phải lớn hơn càng bên trái. Càng cua vừa để bắt mồi vừa là cơ quan tự vệ và tấn công kẻ thù lợi hại. Các đôi chân thứ 2, 3, 4 là chân bò có 5 đốt, đốt cuối cùng vuốt nhọn. Đôi chân thứ 5 các đốt có dạng hình bản biến thành bơi chèo, là động lực chính khi cua bơi.
- Chân bụng: ở cua cái có 4 đôi chân bụng, từ đốt bụng thứ nhất đến đốt bụng thứ tư biến thành cơ quan giữ trứng. Các chân bụng cấu tạo giống nhau, gồm một đốt gốc và phần ngọn gồm hai nhánh hình lá lúa mép mỏng có lông dài phủ, nhánh trong phân đốt, nhánh ngoài không phân đốt. Ở cua đực chỉ còn lại đôi chân bụng thứ nhất và thứ hai biến thành chân giao cấu. Phần gốc gồm 3 đốt, phần ngọn chỉ còn nhánh trong, không phân đốt.

4. Quá trình lột xác của cua
Trong quá trình phát triển từ ấu trùng đến khi trưởng thành, loài cua phải trải qua nhiều lần lột xác. Cơ thể của cua và các động vật giáp xác được bao phủ bởi một lớp xương ngoài làm từ kitin. Nhờ quá trình thấm canxi và vôi hóa, vỏ của cua trở nên cứng cáp. Trong khi lớp vỏ là ổn định, động vật giáp xác lớn lên theo thời gian, đòi hỏi việc thay thế định kỳ lớp vỏ trong quá trình biến thái hoặc khi chúng phát triển và nhô ra khỏi lớp vỏ cũ.
Trước khi lột xác, con cua hấp thụ canxi từ vỏ cũ, sau đó tiết enzyme để tách lớp vỏ cũ ra khỏi lớp da. Lớp da này sẽ được bao bọc bởi lớp vỏ mới, mềm mại và mỏng hơn so với lớp vỏ cũ, theo thông tin từ NOAA.
Một ngày trước khi lột xác, cua bắt đầu hấp thụ nước biển, cơ thể bắt đầu phồng như quả bóng, giúp chúng mở rộng lớp vỏ cũ và tạo nứt nhỏ trên cơ thể. Sau đó, cua rút lớp vỏ cũ bằng cách đẩy ra và thu lại cơ thể nhiều lần, đến khi rút phần chân trước và hoàn toàn tách ra khỏi lớp vỏ cũ. Quá trình thay vỏ mới của cua thường kéo dài khoảng 15 phút.
Để phát triển, con cua phải trải qua nhiều lần lột xác biến thái, thời gian giữa các lần lột xác có thể thay đổi tùy theo giai đoạn. Ấu trùng có thể lột xác 3-5 ngày một lần, cua lớn lột xác để phát triển thường từ nửa tháng đến một tháng một lần. Trong quá trình này, cua có thể mất một số bộ phận như chân, càng, nhưng chúng có thể tái tạo những bộ phận này trong các lần lột xác tiếp theo.

5. Cơ quan cảm giác
Cơ quan cảm giác của cua phát triển mạnh mẽ. Cơ quan xúc giác và vị giác có dạng các tơ cảm giác tập trung ở anten và các phần phụ. Những tơ này liên kết với các tế bào thần kinh dưới biểu mô. Cơ quan thăng bằng là một bình nang, có hình dạng lõm ở đốt gốc anten I với nhiều tơ cảm giác, trong đó chứa nhiều hạt cát nhỏ thu vào mỗi khi lột xác. Cơ quan phát thanh và nhận âm thanh nằm ở khớp chân của cua.
Cơ quan thị giác của cua là đôi mắt kép cấu tạo như sau:
- Màng sừng trong suốt do tế bào màng sừng tiết ra.
- Thể thủy tinh hình côn bao quanh bởi các tế bào sắc tố.
- Chùm tế bào mạng lưới cảm quang, xếp hình hoa thị theo trục dọc, bao quanh một trụ hình que dài, que được tế bào mạng lưới tạo ra.
- Đầu trong tế bào mạng lưới kết nối với dây thần kinh.
Tất cả các dây này hợp nhất thành thần kinh thị giác chạy về hạch thần kinh thị giác theo chiều dài cuống mắt.

6. Những loài cua có vẻ bề ngoài quái dị nhất
Thế giới loài cua đa dạng về hình dáng và kích thước. Một số con đáng sợ, một số đầy màu sắc, và không ít con rất kỳ quặc.
Cua Halloween. Loài cua này sặc sỡ với nhiều màu sắc sống chủ yếu ở vùng biển Mexico, Trung Mỹ và có thể ở tận Peru. Chúng thường lang thang trong rừng, ăn lá cây hoặc hạt cây và là loài ưa thích ăn đêm. Mặc dù sống chủ yếu trên mặt đất, nhưng chúng lại phải về nước để đẻ trứng.
Cua dừa. Một trong những loài chân đốt lớn nhất trên cạn, nặng tới 4,1kg. Sống chủ yếu trên những hòn đảo ở phía nam Thái Bình Dương, chúng ăn quả hạch, hạt và đôi khi là dừa. Loài này có hệ thống hô hấp đặc biệt, không phải yếm, không phải phổi mà là một cơ cấu giữa 2 bộ phận này. Các cơ quan cảm giác của chúng giống côn trùng hơn là của cua.
Cua vua gai. Toàn thân được phủ bởi một lớp gai, chúng ngụy trang và tự bảo vệ khỏi kẻ thù. Sống ở độ sâu 730m dưới biển, ăn sao biển, cua khác và chất thải từ bên trên.
Cua hộp nâu. Loại cua vua khác, có cách hô hấp kỳ lạ. Khi đưa càng trước qua mai, hình chữ V trên càng tạo ra một lỗ nhỏ để nước chảy vào phổi, dưới lớp cặn.
Cua san hô mềm. Những 'quái vật' này ngụy trang tốt khi sống cùng với san hô mềm và ăn sinh vật phù du.
Cua hổ vằn. Sống chủ yếu ở Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, Australia. Hình thù kỳ dị, với vệt màu sậm, trắng giống ngựa vằn.
Cua đười ươi. Thuộc họ nhà nhện và cua, sinh vật nhỏ bé này giống đười ươi với bộ lông cam dày, 2 chân dài giống tay đười ươi.
Cua sứ. Loài cua không phải cua, mà là tôm tiến hóa, giống cua. Dễ vỡ và thường mất chân khi chạy trốn khỏi kẻ thù, nhưng chúng có thể mọc lại những chân này. Ăn chất nhầy của tảo biển giúp chúng làm sạch cơ thể, trong khi tảo biển bảo vệ chúng khỏi kẻ thù.

7. Tập tính sinh sản của cua
Trước khi lột xác giao phối, khoảng 2 đến 10 ngày, cua đực và cua cái sẽ kết hợp. Cua đực, thường lớn hơn, sử dụng chân và càng để ôm chặt cua cái. Họ duy trì tư thế này trong suốt 3-4 ngày hoặc hơn, kéo dài đến khi cua cái chuẩn bị lột xác để giao phối. Lúc này, con đực rời bỏ và ở gần cua cái. Ngay sau khi cua cái lột xác, con đực ôm cua cái và gỡ yếm để giao phối.
Quá trình giao phối có thể kéo dài từ 5 giờ đến cả một ngày. Sau đó, con đực thả cua cái, nhưng vẫn ở gần để bảo vệ. Sau khi giao phối, túi tinh được giữ ở phần nhận tinh của cua cái để thụ tinh trứng. Trong mùa sinh sản, cua cái có thể đẻ trứng từ 1-3 lần, được thụ tinh từ tinh trùng nhận được ở đầu mùa sinh sản. Cua gạch nuôi trong bể xi măng từ tháng 7 đến tháng 10 đã đẻ trứng 3 lần, và trứng phát triển thành ấu trùng.
Sau giao phối, tế bào trứng tiếp tục phát triển và chín, sau đó cua cái đẻ trứng. Khi đẻ, cua cái nâng cao phần đầu, đặt trứng dọc theo nền đáy và sử dụng chân để giữ chặt. Trứng được giữ trong phần bụng của cua cái với hai lớp màng, màng ngoại hút nước. Nhờ cử động của phần bụng, trứng bám vào lông tơ chân bụng và thành 'cuống trứng,' giữ trứng tự do mà không dính lại với nhau. Cua cái ôm trứng, được gọi là cua trứng, tiếp tục phát triển cho đến khi trứng nở thành ấu trùng và rời khỏi bụng cua, còn được gọi là 'cua con.'

8. Những loại cua ngon nhất hiện nay
Cua Lông Hong Kong: Mùa cua hàng năm vào tháng 9 - tháng 10. Cua Lông có kích thước nhỏ, nặng khoảng 150-200g, phủ lớp lông xù. Thịt cua chắc nịch, trắng mịn, ngọt tự nhiên và phần gạch cua béo ngậy. Được gọi là “ông vua” của các loài cua.
Cua Pha Lê Úc (Cua Tuyết Úc): Cua được đánh bắt tự nhiên từ vùng biển hoang sơ phía Tây của nước Úc. Mai cua trắng, to và trong như pha lê lấp lánh. Hương vị thơm ngon, thịt chắc, ngọt tự nhiên.
Cua Tasmania Úc: Cua có xuất xứ từ vùng biển Tasmania, lớn tới 10kg. Hương vị độc đáo, gạch thơm ngon, thịt giòn dai, ngọt tự nhiên.
Cua Alaska: Cua có kích thước lớn, hình dáng khum tròn. Hương vị đặc biệt, béo ngậy, thịt cua thơm ngon, gạch chắc. Được ưa chuộng và săn lùng.
Cua Ruby Alaska: Loài cua sinh sống ở vùng biển Bắc Mỹ thuộc bang Alaska. Thịt cua có màu trắng tự nhiên, vị ngọt thanh và rất giòn dai.
Cua Hoàng Đế: Đặc sản nổi tiếng ở các đảo xa và vùng biển Duyên hải Nam Trung Bộ. Vỏ đỏ hồng, càng và chân ngắn, thịt ngon, giòn, béo. Được săn lùng để chứng tỏ độ “sành” ăn.

9. Thức ăn của cua
Cua ưa thức ăn động vật phù du. Thức ăn chủ yếu bao gồm: cá vụn, còng, ba khía, đầu cá, don, dắt, trai, ốc, cá, tôm, còng, cáy…
Thực vật như rau, củ, bèo, khoai, sắn, bã đậu cám gạo v.v. cũng là phần quan trọng trong chế độ ăn của cua.
- Thức ăn tươi sống: Gồm động vật sống hoặc đã chết nhưng thịt còn tươi. Sử dụng cá biển như vụn cá Sơn, cá Linh, cá Chốt chuột… và động vật nhuyễn thể như don, dắt.
- Động vật giáp xác: Bao gồm tôm và cua rẻ tiền.
- Động vật khác: Sử dụng thịt từ các động vật rẻ tiền không dùng cho người và thịt phế liệu từ các xí nghiệp chế biến thực phẩm như cá, tôm, mực.

10. Cua mũi tên - Loài cua có chân dài gấp 5 lần cơ thể
Cua mũi tên thu hút sự chú ý với đôi chân dài tới 20cm - gấp 5 lần chiều dài cơ thể. Tại công viên hải dương Blue Reef ở Newquay (Anh), một con cua mũi tên đã trở thành cư dân mới độc đáo. Với chiều dài cơ thể chỉ 4cm, nhưng đôi chân của chúng lại có tới 20cm.
Nhà khoa học đầu tiên phát hiện loài cua này đã đặt tên gọi là cua mũi tên do đầu chúng hình nhọn giống đầu mũi tên và đôi mắt lồi ra ngoài nhìn rất giống.
Cua mũi tên thường sống ở độ sâu khoảng 10m dưới mặt nước, từ vùng biển tây Đại Tây Dương, Mỹ xuống tới Brazil và biển Caribbean. Chế độ ăn chủ yếu của chúng bao gồm xác thối của sinh vật biển, tảo và phù du.
Cơ thể của chúng có màu sắc đa dạng, từ màu vàng, kem đến các đốm nâu, đen, hay ngũ sắc để phù hợp với môi trường. Chân thường có màu đỏ hoặc vàng, còn càng thì có thể có màu xanh dương hoặc tím.
Cua mũi tên cái mang trứng dưới bụng cho đến khi trứng nở và ấu trùng bơi cùng phù du trên mặt nước. Sau đó, ấu trùng quay lại dải san hô, trải qua quá trình rụng lông trước khi trưởng thành.

11. Các loại cua độc nguy hiểm nhất hiện nay
Cua mặt quỷ: Loại cua sống ở vùng biển Đà Nẵng đến Vũng Tàu, nổi tiếng với độc tố Tetrodotoxin và Saxitoxin trong thịt và vỏ có thể gây tử vong cho người ăn phải. Hạn chế tiếp xúc với loại cua nguy hiểm này.
Cua đá biển: Cua đất lớn, vỏ màu tím, chứa chất độc nguy hiểm như cua mặt quỷ. Chú ý khi sử dụng để tránh ảnh hưởng đến sức khỏe.
Cua Florida: Loại cua này có vỏ đầu ngực elip ngang, mặt lưng lồi láng phẳng, màu sắc nổi bật. Cần cẩn thận khi ăn để tránh những vấn đề sức khỏe.

12. Tìm thấy loài cua 'dâu tây' mới
Theo thông tin từ AP, giáo sư Ho Ping-ho của Đại học Hải dương Đài Loan đã phát hiện một loài cua mới. Chúng có hình dạng giống những loài cua ở Hawaii, quần đảo Polynesia và quốc đảo Mauritius. Tuy nhiên, điểm độc đáo của loài cua này là chiếc mai hình vỏ trai dài khoảng 2,5 cm, làm chúng nổi bật so với các loài cua khác màu đỏ.
Wang Chia-hsiang, chuyên gia hàng đầu về cua tại Đài Loan, đã xác nhận phát hiện này. Các nhà khoa học tìm thấy hai cá thể cái thuộc loài cua mới trong khu bảo tồn Kenting, nhưng chúng đã chết khi được phát hiện, có thể do nước bị ô nhiễm từ một tàu chở hàng mắc cạn gần đó.
Cua là động vật ăn tạp, chủ yếu ăn tảo. Có hơn 5.000 loài cua trên thế giới theo Daily Mail.

13. Cua nhện Thái Bình Dương - loài cua dài bằng xe hơi
Loài cua nhện Thái Bình Dương, còn được biết đến như cua nhện Nhật Bản, được ghi nhận là loài cua lớn nhất thế giới. Chúng sống ở đáy biển phía Nhật Bản và nổi tiếng với bộ chân dài nhất trong số giáp xác. Một chú cua nhện trưởng thành có chiều dài cả hai đầu càng lên tới 4-5m, bằng chiếc xe hơi 4 chỗ. Bộ chân nguều ngoào của chúng nặng tới 20kg, mang lại khía cạnh ấn tượng của thế giới đại dương.
Chú cua nhện không chỉ nổi bật với hình dạng khủng khiếp mà còn là loài hiền lành. Chúng sử dụng bọt biển hoặc sinh vật khác để ngụy trang và tránh đối đầu với đối thủ. Tính cách hiền lành hơn là hung dữ, khiến cho hình ảnh cua nhện trở nên độc đáo và thú vị trong thế giới dưới đáy đại dương.

14. Loài cua kỳ lạ cư ngụ hoàn toàn trên cây ở Ấn Độ
Tại vùng Western Ghats, phía nam Ấn Độ, nhóm nghiên cứu từ Đại học Kerala đã phát hiện một loài cua mới kỳ lạ, sống trên cây trong khu rừng. Loài cua này được biết đến với tên gọi Kani maranjandu, và đây là loài cua đầu tiên được ghi nhận sống hoàn toàn trên cây. Các nhà khoa học mô tả nó trong tạp chí Crustacean Biology, và đặt tên khoa học theo bộ tộc địa phương Kani để tôn vinh sự giúp đỡ của họ.
Loài cua Kani maranjandu tạo ra tổ trong những lỗ rỗng của cây, không giống những loài cua thông thường sống trên mặt đất. Chúng có vỏ màu tím đen và chân thon dài, phù hợp với cuộc sống trên cây. Bản tính nhút nhát của chúng làm cho chúng ít nổi tiếng đối với con người.
Nhóm nghiên cứu nhận định rằng đây là một khám phá quan trọng, đặc biệt trong lĩnh vực sinh thái học. Số lượng cua Kani maranjandu có thể là chỉ báo cho sức khỏe của hệ sinh thái rừng, và môi trường sống trên cây lớn là nơi sinh sống của loài cua độc đáo này.
