1. Thông tin mô tả
San hô là các sinh vật biển thuộc lớp San hô (Anthozoa), tồn tại dưới dạng thể polip nhỏ giống hải quỳ, thường sống thành quần thể với nhiều cá thể giống hệt nhau. Chúng tiết ra cacbonat calci để tạo bộ xương cứng, xây dựng rạn san hô tại các vùng biển nhiệt đới.
Mỗi đầu san hô thực tế là kết quả của hàng ngàn cá thể polip có cấu trúc gen giống nhau, mỗi polip có đường kính vài milimet. Sau hàng ngàn thế hệ, chúng để lại khung xương đặc trưng cho loài của mình. Đầu san hô phát triển nhờ sinh sản vô tính của polip, nhưng cũng sinh sản hữu tính thông qua giao tử, giải phóng vào một vài đêm trong kì trăng tròn.
San hô sử dụng tế bào châm để bắt phù du, và chủ yếu nhận dưỡng chất từ loại tảo đơn bào cộng sinh gọi là tảo vàng đơn bào (zooxanthella). Do đó, chúng phụ thuộc vào ánh sáng mặt trời và phát triển ở vùng nước nông, thường không quá 60 m (200 ft) sâu. San hô có vai trò lớn trong cấu trúc vật lý của rạn san hô, đặc biệt là ở vùng biển nhiệt đới như rạn san hô Great Barrier ngoài khơi bang Queensland, Úc.
Có các loại san hô không phụ thuộc vào tảo và có thể sống ở vùng nước sâu hơn, như loài trong chi Lophelia sống tới độ sâu 3.000 m ở Đại Tây Dương. Ví dụ khác là Darwin Mounds ở phía tây nam Cape Wrath, Scotland, cũng như ở ngoại khơi bang Washington và quần đảo Aleutian ở Alaska, Mỹ.

2. Sinh sản hữu tính ở san hô
San hô chủ yếu sinh sản hữu tính, trong đó 25% san hô phụ thuộc vào tảo (loại san hô đá) để tạo ra quần thể đơn tính, phần còn lại là lưỡng tính. Khoảng 75% san hô phụ thuộc tảo 'phát tán con giống' bằng cách phóng giao tử (trứng và tinh trùng) vào nước để tạo ra các quần thể san hô mới. Các giao tử kết hợp để hình thành ấu trùng planula, một quy trình khó khăn nhưng quan trọng. Mỗi năm, mỗi quần thể san hô có thể tạo ra hàng nghìn ấu trùng planula để đảm bảo sự tồn tại mới.
Ấu trùng planula bơi về phía ánh sáng, thể hiện xu hướng tính dương, lên vùng nước bề mặt để phát triển trước khi chìm xuống đáy biển. Quá trình này, mặc dù có tỷ lệ thất bại cao, cuối cùng tạo ra các polip san hô, đánh dấu sự bắt đầu của một quần thể mới. Không phải tất cả quần thể mới được hình thành thành công, và thời gian từ khi phóng giao tử cho đến khi ấu trùng định cư thường kéo dài từ 2 đến 3 ngày, thậm chí có thể tới 2 tháng.
San hô phải phụ thuộc vào môi trường xung quanh để xác định thời điểm phóng giao tử. Có hai phương pháp sinh sản hữu tính chính, phụ thuộc vào việc giải phóng giao tử cái:
- San hô gieo rắc, phần lớn sống thành quần thể, phụ thuộc vào các yếu tố môi trường như thời gian ngày, nhiệt độ nước và chu kỳ trăng để giải phóng tất cả giao tử vào cùng một đêm. Hơn 75% san hô thuộc loại này, đặc biệt là san hô tạo rạn và phụ thuộc tảo vàng đơn bào.
- San hô ấp trứng không phụ thuộc vào tảo vàng đơn bào và giữ trứng đã thụ tinh trong vài tuần. Thực hiện giảm số sự kiện sinh sản đồng bộ hàng loạt, nhưng vẫn giữ khả năng tạo ra quần thể mới.

3. Cấu trúc của san hô
Mặc dù một đầu san hô có vẻ như là một cơ thể, nhưng thực sự đó là đầu của nhiều cá thể giống hệt nhau về di truyền, chúng được gọi là polip. Các polip là sinh vật đa bào với khẩu phần đa dạng từ phù du đến cá nhỏ. Polip thường có đường kính vài milimet, bao phủ bởi một lớp biểu mô bên ngoài và một lớp mô nội bên giống sứa, được biết đến là ngoại chất. Polip có hình dạng đối xứng trục quanh cái miệng, đặt giữa các xúc tu hình tròn. Nơi này là cổng duy nhất nối với xoang vị, nơi thức ăn và chất thải đi vào và ra khỏi polip.
Xoang vị đóng kín tại đáy polip, nơi biểu mô tạo thành một bộ xương ngoài được gọi là đĩa nền. Bộ xương này được tạo thành từ vành hình khuyên chứa calci ngày càng dày thêm (xem ở dưới). Các cấu trúc này phát triển theo chiều thẳng đứng và hình thành các ống từ đáy polip, cho phép chúng co lại khi cần trú ẩn.
Polip mọc bằng cách phát triển các khoang hình cốc (calices) dọc theo thân, đôi khi chia thành các vách ngăn để tạo ra đĩa nền mới cao hơn. Thông qua nhiều thế hệ, kiểu phát triển này tạo nên các cấu trúc san hô lớn chứa calci, lâu dài hình thành rạn san hô. Việc tạo bộ xương ngoài chứa calci kết quả từ polip hấp thụ aragonit từ ion calci trong nước biển. Tốc độ kết tủa này thay đổi theo loài và điều kiện môi trường, nhưng có thể lên tới 10 g/m² polip/ngày (0,3 aoxơ/yard vuông/ngày). Sự thay đổi ánh sáng, sản lượng ban đêm giảm dưới 90% so với ban ngày, ảnh hưởng đến quá trình này.
Các xúc tu của polip sử dụng các tế bào châm gọi là nematocyst để bắt và làm tê liệt mồi như phù du. Khi tiếp xúc, nematocyst phản ứng nhanh bằng cách tiêm chất độc vào mồi. Mặc dù chất độc này thường không mạnh mẽ, nhưng ở san hô lửa, đủ để gây tổn thương cho con người. Nematocyst cũng được sử dụng bởi sứa và hải quỳ. Chất độc của chúng khiến mồi bị tê liệt hoặc chết, sau đó, các xúc tu kéo mồi vào dạ dày của polip thông qua dải mô co giãn được gọi là hầu.

4. Lịch sử địa chất
Mặc dù san hô xuất hiện lần đầu tiên vào khoảng 542 triệu năm trước (Kỷ Cambri), nhưng hóa thạch của chúng hiếm hoi cho đến khoảng 100 triệu năm sau đó, vào khoảng Kỷ Ordovic, khi các loài san hô bốn tia (Rugosa) và san hô vách đáy (Tabulata) trở nên phổ biến.
San hô vách đáy xuất hiện trong các lớp đá vôi và đá phiến sét chứa calci trong khoảng Kỷ Ordovic và Silur, thường tạo thành các lớp đệm thấp hoặc khối có nhánh gần san hô bốn tia. Chúng giảm số lượng từ kỷ Silur đến cuối kỷ Permi, khoảng 250 triệu năm trước. Bộ xương của chúng được tạo thành từ một loại cacbonat calci gọi là calcit.
San hô bốn tia thống lĩnh vào giữa kỷ Silur và tuyệt chủng vào đầu kỷ Trias. Chúng tồn tại dưới dạng cá thể đơn và quần thể, bộ xương của chúng cũng được tạo thành từ calcit.
San hô đá (Scleractinia) thay thế các hốc sinh thái trống rỗng do sự tuyệt chủng của san hô bốn tia và san hô vách đáy. Hóa thạch của chúng xuất hiện ít nhất trong các lớp đá từ Kỷ Trias và trở nên phổ biến trong các lớp đá từ Kỷ Jura và sau này. Bộ xương của san hô đá được tạo thành từ một dạng cacbonat calci là aragonit. Mặc dù trẻ hơn về mặt địa chất so với san hô vách đáy và san hô bốn tia, bộ xương aragonit của chúng khó bảo tồn hơn, điều này làm cho hóa thạch của chúng ít hoàn hảo hơn.
Trong quá khứ địa chất, san hô đã từng phổ biến, giống như san hô hiện đại trong một số khu vực nước ấm và nhiệt đới trên thế giới ngày nay. Tổ tiên của chúng cũng tạo ra các rạn đá ngầm, một số trong số chúng vẫn còn là cấu trúc lớn trong các lớp đá trầm tích.
Các rạn đá ngầm cổ điển này không chỉ chứa san hô, mà còn chứa tảo, hải miên và dấu tích của nhiều loại động vật như động vật da gai, động vật tay cuộn, động vật hai mảnh vỏ, động vật chân bụng và bọ ba thùy. Điều này làm cho một số loại san hô trở thành hóa thạch chỉ mục hữu ích, giúp nhà địa chất xác định niên đại của các lớp đá chúng được tìm thấy.
San hô không chỉ xuất hiện trong các rạn san hô, nhiều loại san hô đơn có thể được tìm thấy trong các lớp đá mà không có sự hiện diện của rạn san hô, chẳng hạn như chi Cyclocyathus trong hệ đất sét Gault ở Anh.

5. Sự sinh sản vô tính ở san hô
Ở các đầu san hô, polip thực hiện sinh sản vô tính để mở rộng quần thể, có thể thông qua việc mọc chồi (khi một polip mới mọc từ polip trưởng thành) hoặc phân chia (tạo ra hai polip lớn từ polip gốc), như mô tả trong hình vẽ của Orbicella annularis.
Mọc chồi: Nó làm tăng kích thước quần thể san hô, diễn ra khi corallite mới xuất hiện từ polip trưởng thành. Khi polip mới phát triển, nó tạo ra xoang vị (dạ dày), tua cảm và miệng. Khoảng cách giữa polip mới và polip trưởng thành tăng lên, kèm theo đó là coenosarc (cơ thể chung của quần thể). Mọc chồi có thể xảy ra qua:
- Phân chia theo chiều dọc, bắt đầu bằng cách mở rộng polip và sau đó phân chia xoang vị. Miệng phân chia và tạo ra tua cảm mới. Điều này đặc biệt vì mỗi polip phải tái tạo phần cơ thể và bộ xương bị mất.
- Mọc chồi nội tua cảm xuất hiện từ đĩa miệng của polip, tạo ra hai polip cùng kích thước nằm trong cùng một vòng tua cảm.
- Mọc chồi ngoại tua cảm hình thành từ đáy của polip, với polip mới nhỏ hơn.
- Phân chia theo chiều ngang xảy ra khi polip và bộ xương phân chia theo chiều ngang thành hai phần. Điều này đồng nghĩa với việc một polip có đĩa nền (đáy), trong khi polip khác có đĩa miệng (đỉnh). Cả hai polip mới đều phải hoàn tất các phần mất mát của họ.
- Phân đôi xuất hiện ở một số loại san hô, đặc biệt là họ Fungiidae, trong đó quần thể có khả năng tự tách thành hai hoặc nhiều quần thể trong giai đoạn đầu của sự phát triển.
Cả quần thể san hô có thể sinh sản vô tính thông qua sự phân mảnh hoặc thoát ra khỏi quần thể, khi một phần của san hô bị vỡ ra và có thể phát triển ở một địa điểm mới:
- Polip thoát ra xảy ra khi một polip rời khỏi quần thể và tái thiết lập trên một nền mới để tạo ra quần thể trưởng thành mới.
- Phân mảnh, thực tế như một dạng của phân đôi, xảy ra khi cá thể bị vỡ ra khỏi quần thể do tác động của bão hoặc các tình huống khác có thể dẫn đến việc vỡ ra. Các cá thể độc lập có thể bắt đầu quần thể mới.

6. San hô như những người thợ xây
Một rạn san hô hình thành thông qua sự phát triển của hàng tỉ pôlýp san hô tí hon, tạo nên một tập đoàn san hô. Pôlýp san hô trông như các ống ngắn, rỗng, với đáy nằm trong khung xương đá vôi và miệng có nhiều xúc tu. Khi một pôlýp san hô qua đời, ngôi nhà đá vôi của nó vẫn tồn tại. Các pôlýp khác tiếp tục xây dựng ngôi nhà mới qua nhiều thế hệ, tạo ra những rạn san hô huyền bí.
Có ba nhóm san hô chính là san hô cứng (hay san hô đá), san hô sừng và san hô mềm. San hô mềm, giống như hoa và nấm dại trong rừng nhiệt đới, làm cho rạn san hô trở nên sặc sỡ hơn. San hô mềm không xây dựng bộ xương đá vôi hoàn chỉnh. Thay vào đó, chúng được hỗ trợ bởi bộ khung gồm nhiều trâm xương đá vôi nhỏ, gọi là bộ xương trong, tạo ra kết cấu mềm mại.
Mặc dù có vẻ giống như cây cỏ hay phiến đá, nhưng san hô thực sự là động vật thuộc nhóm sứa và hải quỳ, có trâm gây ngứa gọi là thích ty bào.

7. Tác động của môi trường
San hô rất nhạy cảm với sự biến đổi trong môi trường tự nhiên. Dự kiến đến năm 2030, hơn 50% rạn san hô trên thế giới có thể bị tàn phá[15]. Chúng thường được bảo vệ bởi các luật môi trường. Một rạn san hô có thể bị ngập trong tảo khi nước có quá nhiều dinh dưỡng. Nhiệt độ nước thay đổi nếu vượt quá 1-2 độ so với bình thường, hoặc độ mặn giảm, cũng có thể làm san hô chết. Ứng suất môi trường thường bắt đầu khi san hô thải tảo vàng đơn bào; khi không có tảo, mô san hô mất màu và bộ xương cacbonat calci trắng bóng, được gọi là san hô bạc màu.
Nhiều chính phủ hiện nay đã cấm việc đào san hô từ rạn để bảo vệ chúng khỏi thiệt hại do lặn bình dưỡng khí. Mặc dù vậy, san hô vẫn bị tổn thương do neo đậu của tàu thuyền và nguy cơ từ nghề cá. Các chương trình tuyên truyền đã được triển khai để giáo dục dân chúng về hệ sinh thái và bảo vệ rạn san hô ở những nơi bị ảnh hưởng tiêu cực bởi nghề cá địa phương.
Sự chiếm lĩnh hẹp của hệ sinh thái san hô và sự phụ thuộc của san hô đá vào sự trầm lắng cacbonat calci làm chúng nhạy cảm với biến đổi độ pH của nước. Sự gia tăng CO2 làm axit hóa đại dương, làm giảm độ pH, ảnh hưởng đến khả năng tạo xương cacbonat calci của san hô. Hiệu ứng tồi tệ nhất, các bộ xương này có thể phân rã hoàn toàn. Nếu không có giảm lượng CO2 từ hoạt động con người, axit hóa đại dương có thể gây hại hoặc làm mất các loài san hô và hệ sinh thái của chúng.
Sự kết hợp của thay đổi nhiệt độ, ô nhiễm, lạm dụng bởi người lặn và sản xuất đồ kim hoàn đã dẫn đến hủy hoại nhiều rạn san hô trên thế giới. Điều này đã làm tăng sự quan trọng của ngành sinh học san hô. Thậm chí, biến đổi khí hậu có thể làm thay đổi nhiệt độ đủ để làm hủy diệt san hô. Ví dụ, trong giai đoạn nóng vào những năm 1997-98, tất cả quần thể san hô Millepora boschmai gần Panama đã mất màu và chết trong vòng 6 năm - loài này hiện nay được coi là đã tuyệt chủng.

8. Hồn Biển Đang Tan Mất
Trong một nghiên cứu gần đây, các nhà khoa học tiết lộ nhiều thông tin mới về cuộc sống sinh học của san hô, khám phá được vài điều trong vài năm qua. Điều này giúp làm sáng tỏ vì sao rạn san hô trên khắp thế giới đang dần biến mất và cách chúng ta có thể giúp chúng vượt qua biến đổi khí hậu và axit hóa đại dương.
Theo các nhà khoa học, nhiệt độ nước biển ngày càng tăng do biến đổi khí hậu, tạo ra hiện tượng tẩy trắng san hô. Cùng với các nguyên nhân khác như khai thác san hô quá mức và ô nhiễm đại dương, đã khiến nhiều rạn san hô chết sạch trong thập kỷ qua. Dự báo cho rằng trường hợp tồi tệ nhất có thể là tuyệt chủng trong vòng 30-50 năm tới.
Theo thống kê của các nhà khoa học, năm 1998 có đến 16% rạn san hô trên thế giới chết do dịch tẩy trắng san hô; và năm 2010 được coi là năm tồi tệ nhất, khi nhiều rạn san hô ở vùng biển Indonesia tẩy trắng 100%.
Dường như san hô, với hệ gen phức tạp tương đương với hệ gen của người, và hệ thống thông tin sinh học tinh tế đang đe dọa bởi biến đổi khí hậu toàn cầu, chỉ có thể tồn tại bằng cách tận dụng mối quan hệ cộng sinh phức tạp với tảo sống trong cơ thể san hô – theo báo cáo gần đây trên tờ Science.
Một trong những phát hiện của nghiên cứu mới là sự phức tạp lớn lao của sinh học san hô, thậm chí có sự tương đồng với các dạng sống khác. Ví dụ, gen điều khiển sự phát triển xương ở người tương đồng với gen giúp san hô phát triển bộ xương mở rộng. Điều này là minh họa cho việc những đặc điểm chung có thể duy trì qua hàng triệu năm, từ khi chúng tách ra theo những đường tiến hóa khác nhau từ tổ tiên chung.
Các nhà nghiên cứu cho biết, vẫn còn nhiều điều cần khám phá về quá trình này và điều kèm theo là sự kết hợp vô cùng đa dạng. Ví dụ, có đến 1.000 loài san hô và hàng ngàn loài tảo khác nhau tạo ra những hệ sinh thái cộng sinh độc đáo với san hô. Chính sự đa dạng này mang lại hy vọng về những cách kết hợp hợp lý giúp san hô thích ứng tốt hơn với biến đổi về nhiệt độ đại dương, lượng axit và mối đe dọa khác.
Rạn san hô ngày càng đối mặt với nhiều vấn đề lớn, từ biến đổi nhiệt độ đại dương, ô nhiễm, đánh bắt cá quá mức, lắng cặn, axit hóa nước, áp lực ô nhiễm ô xy và các loại bệnh tật. Ước tính cho thấy có đến 20% số rạn san hô trên thế giới đã chết, và thêm 24% đang đứng trước nguy cơ nghiêm trọng.
Theo dự đoán, sự axit hóa của đại dương trong thế kỷ tới sẽ làm giảm 50% số rạn san hô và tăng quá trình phân rã xương san hô, theo báo cáo của các nhà nghiên cứu.

9. San Hô Tự Bảo Vệ Trước Sự Tăng Nhiệt Độ Nước Biển
Một số loại san hô đang phát triển 'lớp chống nắng' để tự bảo vệ trước sự gia tăng của nhiệt độ nước biển - theo nghiên cứu của Đại học Southampton (Anh).
Nhiều loại san hô tích hợp tảo vào tế bào để cùng phát triển. Tuy nhiên, chỉ cần nhiệt độ tăng 1 độ C cũng có thể tạo ra vấn đề khiến tảo mất đi, làm cho khung san hô tiếp xúc với ánh sáng Mặt trời và dẫn đến hiện tượng tẩy trắng san hô.
Hiện tượng này diễn ra khi nhiệt độ nước đạt 30 - 31 độ C do biến đổi khí hậu. San hô sẽ thải tảo cộng sinh ra khỏi mô của mình, gây mất nguồn thức ăn. Nếu tình trạng nước nóng kéo dài vài tuần, san hô sẽ chết.
Các nhà khoa học từ phòng thí nghiệm rạn san hô ĐH Southampton vừa công bố trên tạp chí Current Biology. Họ phát hiện một số san hô tạo ra 'lớp chống nắng' bằng một lớp màu sắc trong thời gian nước nóng ít hoặc ngắn.
Nhóm nghiên cứu tin rằng, màu sắc neon này được phát ra để khuyến khích tảo quay lại. Giáo sư Jorg Wiedenmann giải thích: 'Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng việc tạo ra màu sắc này bao gồm cơ chế tự điều chỉnh, gọi là vòng phản hồi quang học, với sự tham gia của các đối tác cộng sinh (san hô và tảo)'.
Ở san hô khỏe mạnh, sắc tố quang hợp của tảo cộng sinh hấp thụ hầu hết ánh sáng Mặt trời. Khi san hô mất cộng sinh, ánh sáng thừa sẽ vào mô, phản chiếu bởi xương san hô trắng. Tuy nhiên, nếu tế bào san hô vẫn hoạt động ít nhất một số chức năng bình thường, mức ánh sáng bên trong tăng cao sẽ kích thích tạo ra sắc tố quang học đầy màu sắc. Lớp chống nắng sẽ thúc đẩy quá trình tái tạo cộng sinh

10. 10 Loài San Hô Có Nguy Cơ Tuyệt Chủng Cao Nhất
Theo tờ Guardian (Anh), các rạn san hô là hệ sinh thái biển đa dạng nhất trên thế giới, được xem như rừng mưa nhiệt đới của đại dương. Mặc dù chỉ chiếm khoảng 0,2% diện tích đáy đại dương, nhưng chúng cung cấp môi trường sống cho khoảng 1/3 số loài sinh vật biển. Thống kê của các nhà khoa học cho biết, năm 1998, 16% rạn san hô trên thế giới bị chết do dịch tẩy trắng san hô, và năm 2010 được coi là một trong những năm tồi tệ nhất, với nhiều rạn san hô ở vùng biển Indonesia bị tẩy trắng 100%.
Đối mặt với tình trạng lo ngại này, dự án bảo vệ ưu tiên 10 loài san hô nhiệt đới, được chọn lựa bởi EDGE từ các rạn san hô nổi tiếng trên thế giới. Từ rạn san hô ngầm lớn nhất thế giới Great Barrier ở Úc, đến các dải san hô quanh quần đảo Chagos thuộc Vương quốc Anh, từ khu vực tam giác san hô ở vùng biển Philippines đến các vùng san hô ở phía tây Đại Tây Dương xung quanh kênh đào Mozambique và các rạn san hô ở biển Caribbean.
Dưới đây là cận cảnh của 10 loài san hô thuộc dự án EDGE:
- San hô não Catenella chagius, đặc hữu của quần đảo Chagos.
- San hô Catalaphyllia jardinei.
- San hô Acropora palmata.
- San hô Dendrogyra cylindrus.
- San hô Dichocoenia stokesii thuộc vùng biển Caribbean.
- San hô Horastrea indica.
- San hô nấm Helio fungia actiniform.
- San hô Parasimplastrea sheppard.
- San hô Physogyra lichtensteini.

11. San Hô Không Thật Sự Tự Cung Tự Cấp
San hô, một loài động vật tí hon, polip tồn tại với các cá thể giống hệt nhau về hệ gen, có khả năng ăn, tự vệ và tiêu diệt sinh vật phù du làm thức ăn. Chúng cũng sinh ra canxi cacbonat, chất tạo nền tảng cho bộ xương mở rộng.
Qua thời gian, những lớp vôi hóa này phát triển thành rạn san hô, hệ sinh thái quan trọng nuôi dưỡng hơn 4.000 loài cá và nhiều dạng sống ở biển khác.
San hô, tuy nhiên, không tự cung tự cấp hoàn toàn. Bên trong cơ thể, chúng chứa một loài tảo hữu ích sống cộng sinh - một loại thực vật biển có khả năng hút cacbon và sử dụng năng lượng mặt trời cho quang hợp, sản xuất đường.
“Một số loài tảo sống trong cơ thể san hô cung cấp đến 95% năng lượng cho san hô,” Weis nói. “Điều đặc biệt là tảo thu nitrogen, một loại dinh dưỡng hiếm trong đại dương, tạo nên mối quan hệ cộng sinh tốt đẹp.”
Tuy nhiên, nghiên cứu của các nhà khoa học làm sáng tỏ mối quan hệ này dựa vào thông tin tinh vi từ tảo đến san hô, cách san hô “đối xử” với tảo như một vật kí sinh hoặc kẻ xâm phạm, và sẽ tìm cách giết chúng nếu không hài lòng.

12. San Hô Xuất Hiện Cùng Thời với Khủng Long
Các nhà di truyền học Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ả Rập Saudi xác nhận rằng polip san hô hiện đại đã xuất hiện từ kỷ Jura, sống sót qua thời kỳ khủng long và tồn tại nhờ sự cộng sinh với tảo zooxanthellae.
Theo tạp chí Current Biology, polip san hô xuất hiện từ kỷ Jura khi khủng long còn sống. Sự sống sót này là nhờ tảo zooxanthellae giúp polip san hô và tảo chia sẻ hợp chất và carbon, cùng màu sắc sặc sỡ của polip san hô được tạo ra nhờ công lao của tảo.
Trước đó, tin đồn cho rằng sự cộng sinh này xuất hiện không quá 65 triệu năm, nhưng nghiên cứu mới của các nhà di truyền học Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Ả Rập Saudi chỉ ra rằng sự kết hợp của hai sinh vật này đã xảy ra cách đây 165 triệu năm, vào đầu thời kỳ kỷ Jura.
Công trình nghiên cứu nghiên cứu ADN của nhiều loài tảo Symbiodiniaceae và kết luận rằng có nhiều loài tảo hơn và chúng còn tuổi thọ hơn so với ước lượng trước đây. Mối quan hệ cộng sinh giữa polip san hô và tảo được xác định thông qua theo dõi đột biến trong ADN của Symbiodiniaceae, chứng minh rằng cả hai loài này đã liên kết để tạo ra sinh vật cộng sinh.
Theo nghiên cứu, rạn san hô hiện đại xuất hiện đồng thời với sự cộng sinh đầu tiên của polip và tảo, chứng minh rằng sự kết hợp này giúp polip san hô lan rộng, sống sót qua thời kỳ khủng long và duy trì đến ngày nay.

13. San Hô Có Khả Năng Chuyển Đổi Giới Tính ở Đáy Biển
Cây chuyển đổi giới tính, ong chuyển đổi giới tính, và giáo sư Yossi Loya đầu tiên phát hiện san hô biển Nhật Bản cũng chuyển đổi giới tính.
Nghiên cứu của ông cung cấp thông tin về khả năng tồn tại của san hô biển mong manh, đặc biệt trong bối cảnh môi trường bị áp lực và tình trạng ấm lên toàn cầu. San hô nấm cái, khi đối mặt với áp lực như nhiệt độ cực kỳ cao, có khả năng đổi giới tính, tạo ra hầu hết là giống đực. Điều này giúp chúng chống lại áp lực khi tài nguyên khan hiếm. Chiến lược tiến hóa này cho phép chúng chuyển từ giống cái sang giống đực và ngược lại để tối đa hóa sinh sản.
San hô, mặc dù là động vật, nhưng lại có khả năng chuyển đổi giới tính, làm tăng khả năng sống sót trong điều kiện khắc nghiệt. Giống đực và giống cái của san hô đều là dạng sống tĩnh tại và không thể di chuyển khi môi trường trở nên khắc nghiệt.

14. Tình Trạng Hủy Diệt Nghiêm Trọng của San Hô Biển Việt Nam
Số liệu thống kê cho thấy, chỉ 1% trong số 1.300km2 rạn san hô dọc bờ biển Việt Nam đang trong tình trạng rất tốt; 26% rạn san hô ở điều kiện tốt; 41% rạn san hô trung bình, còn lại 31% là rạn san hô nghèo.
Lo ngại khi có 96% rạn san hô trên toàn quốc chịu tác động tiêu cực từ hoạt động khai thác của con người, trong đó gần 75% rạn có mức độ rủi ro cao và rất cao do khai thác gây hủy diệt.
Đà Nẵng là ví dụ, năm gần đây, ngư dân sử dụng loại lưới tiêu diệt sinh vật biển tại vùng ven bờ và rạn san hô ở nam bán đảo Sơn Trà, khiến san hô ở đây đang đối mặt với nguy cơ hủy diệt nghiêm trọng.
Không chỉ ở Đà Nẵng, mà ở các tỉnh khác như Khánh Hòa, Bà Rịa-Vũng Tàu, các đối tượng không chỉ khai thác trái phép san hô bằng phương tiện thô sơ, mà còn sử dụng máy đào, máy múc, xe ôtô để tiêu diệt san hô.
Mỗi năm, Việt Nam mất hơn 50 tấn san hô do khai thác hủy diệt và vì mục đích kinh doanh, chưa kể mất san hô đen ở các tỉnh như Quảng Ninh, Hải Phòng, Quảng Trị, Quảng Bình.
Với tình trạng khai thác san hô như hiện nay, chuyên gia dự đoán khoảng 20 năm nữa, san hô có thể sẽ không còn trong vùng biển Việt Nam.
