1. Bài văn phân tích bài thơ 'Đi đường' của Hồ Chí Minh số 1
Bác Hồ từng nói: 'Ngâm thơ ta vốn không ham / Nhưng trong ngục, làm sao đây?'. Tập thơ 'Nhật kí trong tù” nằm giữa những ngày Bác bị giam cầm, được ví như một đoá hoa mà văn học Việt Nam nhặt được bên đường. Nó toát lên tinh thần 'thép' rắn rỏi, lạc quan: “Từ những bài thơ viết trong nhà tù dưới chế độ Tưởng Giới Thạch tàn bạo, Hồ Chí Minh truyền đạt phong cách ung dung, khí phách hào hùng, ý chí sắt đá, tinh thần lạc quan cách mạng không gì lay chuyển nổi”. Bài thơ 'Đi đường' là một trong những số ấy.
“Tài lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian”.
Dịch sang tiếng Việt:
“Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Bài thơ ra đời trong những năm tháng Bác Hồ bị giam trong nhà lao Tưởng Giới Thạch. Bác bị giải bỏ hết nhà lao này đến nhà lao khác. Con đường chuyển lao không chỉ dài mà còn vô cùng khó khăn, phải trải qua núi non trùng diệp và những vực thẳm hiểm sâu. Nhưng dẫu vậy, từ trong khổ đau, ý chí “thép” của Bác vẫn toát lên trong bài thơ “Đi đường” - “Tẩu lộ”.
“Đi đường mới biết gian lao”. Câu thơ là một nhận định, nhưng cũng là một chân lý: Chỉ khi đã đi qua, người ta mới thấu hiểu sự vất vả, khó khăn của việc đi đường. Vậy những điều “nan”, “gian lao” ấy là gì?
“Núi cao rồi lại núi cao trập trùng'. Con đường chuyển lao là những con đường đi qua các vùng núi hiểm trở của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Tầng tầng lớp lớp những ngọn núi tiếp nối nhau chạy mãi đến chân trời. Hết ngọn núi này lại đến ngọn núi khác. Vậy nên mới có hình ảnh “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Trong nguyên văn chữ Hán là “Trùng san chi ngoại hựu trùng san”.
“Trùng san” có nghĩa là trùng trùng lớp lớp núi cao; “hựu” là “lại', câu thơ mang ý nghĩa: trùng trùng núi cao bên ngoài lại có núi cao trùng trùng. Một câu thơ mà có tới hai chữ “trùng san', huống chi lại có chữ “hựu”, bởi vậy, câu thơ nguyên gốc gợi lên hình ảnh những đỉnh núi nhọn hoắt cao vút trời xanh trập trùng chạy mãi đến chân trời. Con đường ấy, chỉ nhìn thôi đã thấy đáng sợ.
Nếu tù nhân là một người tù bình thường, chắc hẳn họ đã bị nỗi sợ hãi làm yếu mềm, nhụt chí. Nhưng người tù ấy lại là một người cộng sản vĩ đại - Hồ Chí Minh. Vì vậy, hai câu thơ cuối bài thực sự thăng hoa:
“Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian”
Dịch sát:
“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Sau những nỗ lực vất vả, con đường leo núi, khi đã lên đến đỉnh, người tù có dịp chiêm ngưỡng một hình ảnh hùng vĩ “muôn trùng nước non”. Theo tâm lý thông thường, trên con đường gian khổ đồi núi, khi lên đến đỉnh, con người thường lo lắng và mệt mỏi khi nghĩ đến đoạn đường xuống dốc thẳm và những quả núi ngút ngàn khác. Nhưng Hồ Chí Minh lại ngược lại.
Điều Người cảm nhận là niềm tự hào, sung sướng khi đứng từ trên đỉnh cao ngắm nhìn sự hùng vĩ bao la của nước non, vũ trụ. Hình ảnh “thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” thật hùng vĩ. Nó gợi lên hình ảnh bé nhỏ của con người đang đối diện với mênh mông, trập trùng của giang sơn. Con người ấy không sợ hãi trước sự kỳ vĩ của đất trời, mà thậm chí còn vui mừng, bồi hồi như lần đầu tiên nhìn thấy khuôn mặt của nước non. Cảm giác đó đã nâng cao đẳng cấp con người, đưa ta sánh ngang với vẻ đẹp của non sông.
Đứng trước một sự thật khách quan, mỗi con người có một cảm nhận khác nhau. Cảm nhận ấy phụ thuộc vào thế giới quan và bản lĩnh của con người. Hồ Chí Minh đã có cảm nhận lạc quan, tươi sáng về cuộc sống, không bị gian khổ của thể xác làm cho ước mơ và khát vọng mềm dại, nhưng ngược lại, Người đã vượt qua gian khó để khẳng định ý chí mạnh mẽ, sắt đá và lòng tin vào cách mạng của chính mình. Đó chính là tinh thần thép, vẻ đẹp tâm hồn của Bác Hồ.
Bài thơ 'Đi đường' - 'Tẩu lộ' không chỉ là bức tranh về con đường chuyển lao đầy khó khăn, trở ngại, đó còn là bức tranh chân dung tinh thần của Hồ Chí Minh. Từ bài thơ, độc giả có thể cảm nhận được vẻ ngoại hình bình tĩnh, ung dung của Bác và đồng thời, sự mạnh mẽ, lạc quan của một chiến sĩ cách mạng.
Và như vậy, bài thơ 'Đi đường' - 'Tẩu lộ' cùng với nhiều bài thơ khác trong tập thơ 'Nhật kí trong tù' thực sự là một đoá hoa đáng trân trọng của văn học Việt Nam.


2. Phân tích bài thơ 'Đi đường' của Hồ Chí Minh số 3
'Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng trong ngục, biết làm chi đây
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do'
Tâm sự của người tù đặc biệt: Hồ Chí Minh, bị giam cầm vì làm gián điệp khi đang tìm đường giải phóng dân tộc và đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược. Bài thơ 'Đi đường' (dịch từ 'Tẩu lộ') là một bản nhật ký chân thành và sâu sắc.
'Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian ' Bản dịch:
'Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non' Trước hoàn cảnh ra đời của bài thơ, có lẽ ai đó nghĩ rằng đây là lời thơ của một du khách thưởng ngoạn danh lam thắng cảnh! Nhưng 'đi đường' của tác giả không phải là chuyện trèo núi ngao du, mà là chuyện đi đường của một tù nhân: đi trong cột trói, đi trong đau đớn tinh thần lẫn thể chất. Tác giả nói về điều này ở 'Trên đường đi':
'Mặc dù bị trói chân tay
Chim ca rộn núi hương bay ngát rừng'Hoặc:
'Năm mươi ba cây số một ngày;
Áo mũ dầm mưa rách hết giày'Hoặc:
'Hôm nay xiềng xích thay dây trói
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung'....
Mường tượng cảnh đi đường như thế, ta mới thấu hiểu hai chữ 'gian lao' trong câu thơ 'đi đường mới biết gian lao' của tác giả. Nếu ai đó phải lội nước đi xa với 'núi cao rồi lại núi cao trập trùng' nhưng có thức ăn, chỗ nghỉ, đã thấy mệt mỏi vì đường xa, không có xe cộ.
Vậy mà trong ăn uống thiếu thốn của tù nhân, đeo xích xiềng, đi trong mưa gió, không được nghỉ ngơi tự do, liệu có phải là thử thách lớn lao không? Ở đây, lời thơ không mang nỗi oán than, mà chỉ như là sự khám phá, sự chiêm nghiệm về cuộc sống: 'Đi đường mới biết gian lao', qua đó ta cảm nhận được bản lĩnh và nghị lực của một nhà thơ chiến sĩ,
Ở câu thứ hai, tác giả mô tả cảnh núi non hiểm trở, nhưng không đề cập đến nỗi đau vì xiềng xích. Câu thơ này là một cách thoại nội tâm, suy ngẫm về lẽ đời và sự ghi chép khi tìm ra một chân lí thú vị trong lúc phải chịu đựng những cảnh đau đớn phi lý, phi nhân. Dân gian Việt Nam thường sử dụng điều ngụ ngôn 'đi một ngày đàng, học một sàng khôn' ở câu thứ hai này, một phép dụ ngôn 'núi cao rồi lại núi cao trập trùng' mang tính biểu tượng về con đường cuộc sống, hoặc con đường cách mạng của dân tộc Việt Nam, cũng như con đường mà Bác phải trải qua. Qua hai câu sau, tứ thơ chuyển động đột ngột:
'Trùng san đăng cáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian'.
Bản dịch của Nam Trân là:
'Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non'.
Dù là bản dịch tốt nhất, nhưng dịch giả không thể truyền đạt được cảm xúc của tác giả trong ba từ 'cố miện gian'. Câu thứ tư mô tả tư thế của một người tha hương, đứng tận đỉnh núi cao, nhìn về non sông quê hương với trái tim lưu luyến, nặng trĩu nhớ thương. Đến đây, chúng ta hãy đọc bài 'Lên lầu Quan tước' của Vương Chỉ Hoán đời Đường:
Mặt trùi đã khuất non cao
Sông Hoàng cuồn cuộn chảy vào bể khơi
Muốn xem nghìn dặm xa xôi
Hãy lên tầng nữa trông vời nước non
(bản dịch của Trần Trọng San)
Cũng là hai nhà thơ 'Đăng cao', nhưng một người đi mãi mới đến đỉnh núi cao ngất. Một người chỉ cần bước lên một tầng lầu. Người thì phiêu lưu khắp nơi để phấn đấu. Một người thoải mái, sống nơi hương uốn để thưởng thức thiên nhiên.
Dù sao chúng ta quay lại tâm tư của nhà thơ chiến sĩ. Đó là một hình ảnh và tâm sự của một con người 'Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước', một bút với tâm huyết nhân văn, khao khát tự do cho dân tộc và quê hương Việt Nam. Một khao khát suốt đời mà ông đã thực hiện.


3. Phân Tích Bài Thơ 'Đi Đường' Của Hồ Chí Minh - Phần 2
Trong thời gian bị tù đày, Hồ Chí Minh trải qua nhiều nhà lao khác nhau. Trần Dân Tiên kể về những trải nghiệm của Chủ tịch trong cuộc sống tù đày, từ những nhà lao huyện đến những nhà lao xã. Hành trình 'đi đường' là điều hằng ngày.
Có những chặng đường êm đẹp, với cảnh đẹp tự nhiên, âm thanh của chim rì rào trong rừng (Trên đường đi) làm cho hành trình trở nên thoải mái. Tuy nhiên, thực tế thường là những chặng đường khó khăn, qua những ngày giá lạnh, đi qua những nẻo đường đầy thách thức, đặc biệt là những cung đường núi non hiểm trở. Bài thơ 'Đi đường' khởi đầu cho chuyến hành trình bị áp giải: Đi đường mới biết gian lao.
Đây chính là trải nghiệm của một người đã đi rất nhiều, đã trải qua nhiều hành trình. Đi đường không chỉ là cách để tích lũy những kinh nghiệm về việc đi đường. Đi đường ở đây không phải là những con đường phẳng lẳng, mà là những chặng đường núi non hiểm trở: Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.
Với bài thơ 'Đi đường', tác giả thấu hiểu rõ về cuộc đời đầy khó khăn. Con đường đời này cũng là con đường của cuộc chiến tranh cách mạng, và người chiến sĩ cách mạng chính là những người đi đường, không bao giờ mệt mỏi. Họ chấp nhận và vượt lên trên mọi khó khăn, hướng tới mục tiêu:
Giày rách, đường lầy, chân lấm láp
Vẫn tiếp tục bước, dặm đường xa xôi
Trong bài thơ Đi đường, những thách thức đối diện ngày càng nhiều và leo lên cao điểm. Câu thơ đặt ra như một thách thức: Núi cao lên đến tận cùng. Người chiến sĩ cách mạng đã vượt qua thử thách và chiến thắng. Ở đỉnh cao, niềm vui và hạnh phúc được thể hiện. Họ mừng vui vì đã chiến thắng khó khăn, vì họ đã hoàn thành trách nhiệm được giao.
Ở đỉnh cao, con người có những cảm xúc đặc biệt: Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non. Họ có thể quan sát và nhìn ra nhiều khía cạnh của cuộc sống. Đôi mắt không bị hạn chế trong tầm nhìn, mà đã được mở rộng, bao trùm mọi cảnh vật.
Bài thơ Đi đường mang đến những ý nghĩa sâu sắc, nó không chỉ nói về kinh nghiệm đi đường, mà còn là kinh nghiệm đầu tiên trong hành trình cách mạng. Ở những câu thơ đầu, thiên nhiên với những cảnh núi non hiểm trở che lấp con người. Nhưng sau cùng, con người đã tự chủ động vượt qua thách thức và trở thành nhân vật chính trong bức tranh.
Cuộc sống đầy khổ, hành trình cách mạng đầy chông gai, nhưng với sự quyết tâm vượt qua và kiên trì theo đuổi, một ngày nào đó sẽ đạt được thành công, giành được chiến thắng.


5. Phân Tích Bài Thơ 'Đi Đường' Của Hồ Chí Minh - Phần 5
Đi đường là một bài thơ nằm trong tập Nhật Ký Trong Tù của Hồ Chí Minh. Bài thơ được sáng tác trong những chuyển động từ nhà lao này sang nhà lao khác của Bác, nhưng không chỉ thấy được sự gian khổ và khó khăn trong từng câu chữ mà còn nhìn thấy một chân lý, khi trải qua những khó khăn nhất định sẽ đạt được vinh quang. Ý nghĩa sâu sắc này tạo nên giá trị của bài thơ.
Trong thời gian bị giam giữ ở Trung Quốc, Bác đã phải di chuyển hơn 30 nhà lao khác nhau, vượt qua đèo, thay đổi lối sống, băng rừng vượt sông, nhưng trong con người Bác vẫn tỏa sáng tinh thần lạc quan. Bài thơ này cùng nhiều bài thơ khác nằm trong chủ đề tự nhắc nhở, động viên bản thân vượt qua những thách thức, gian khổ.
Mở đầu bài thơ, Người nói lên nỗi gian lao của người bộ hành: Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan. Câu thơ nguyên tác chữ tẩu lộ được lặp lại hai lần, nhấn mạnh vào những khó khăn, gian nan trong hành trình đi đường. Những khó khăn ấy được thể hiện thành ý thơ thật giản dị, mộc mạc.
Trong những năm tháng kháng chiến, đọc câu thơ của Bác sẽ cảm nhận đầy đủ và chân thực nhất những khó khăn mà người phải trải qua nơi đất khách quê người. “Trùng san chi ngoại hữu trùng san” những dãy núi nổi nhấp nhô, liên tiếp hiện ra, như không có điểm bắt đầu và kết thúc, tạo nên những thách thức liên tiếp, thách thức sự đềo dai, kiên gan của người tù cách mạng.
Đi một hành trình dài, không có phương tiện mà chỉ có duy nhất đôi chân liên tục di chuyển, đường đi khó khăn, đầy nguy hiểm đã cho thấy hết những gian lao, khổ ái mà người chiến sĩ cách mạng phải có lòng quyết tâm, ý chí kiên cường để vượt qua. Trải qua những khó khăn, khổ ái đó, ta sẽ thu lại được những gì đẹp đẽ, tinh tế nhất:
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian
Nếu trong hai câu thơ đầu tiên, Bác tập trung làm nổi bật những gian lao, vất vả mà người tù phải đối mặt thì đến câu thơ thứ ba người tù đã chinh phục được đỉnh cao ấy. Trong hành trình chinh phục thử thách thì đây chính là giây phút sung sướng và hạnh phúc nhất của người tù.
Trải qua bao khó khăn, Bác được đền đáp xứng đáng đó chính là muôn trùng nước non thu trọn vào tầm mắt. Cả một không gian bao la hiện ra trước mặt người tù, đồng thời mở ra những chiều ý nghĩa sâu sắc: hoạt động cách mạng chắc chắn sẽ gặp nhiều gian nan thử thách, nhưng chỉ cần kiên gan, bền ý chí, không chịu lùi một bước chắc chắn sẽ giành được thắng lợi cuối cùng.
Bằng ngôn ngữ thơ giản dị, cô động cùng hai tầng ý nghĩa sâu sắc, Bác đã mang đến những triết lý sâu sắc cho người đọc. Quá trình hoạt động cách mạng hay con đường đời sẽ va gặp rất nhiều chông gai, sóng gió bởi vậy chúng ta không được mềm yếu, nản lòng mà phải dũng cảm, kiên cường vượt qua những thách thức đó. Và ánh sáng, niềm vinh quang chắc chắn đang đợi ta nơi cuối con đường.


4. Phân Tích Bài Thơ 'Đi Đường' Của Hồ Chí Minh - Phần 4
Bài thơ 'Đi đường' xuất phát từ tập 'Nhật kí trong tù' của Hồ Chí Minh. Sáng tác trong tình trạng Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giữ một cách không công bằng năm 1942, đồng thời phải trải qua những ngày đày ải, đi từ nhà lao này sang nhà lao khác, khó khăn, gian nan vô cùng. Bài thơ không chỉ mô tả hình ảnh núi non trên con đường chuyển lao mà còn ẩn chứa tư tưởng và triết lý về cuộc sống sâu sắc mà Bác đã rút ra, chiêm nghiệm từ hoàn cảnh đặc biệt này: vượt qua gian khó, chúng ta sẽ đến với chiến thắng vẹn toàn.
Đầu thơ là câu chuyện nhỏ về hành trình đi đường của Bác trong thời gian bị chính quyền Tưởng bắt giữ:
Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian.
Dịch thơ:
Đi đường mới biết đến khó khăn
Núi cao rồi lại núi cao trùng trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
Trong câu khai đề, nhà thơ đưa ngay vào một bài học có tính chất khẳng định mạnh mẽ: chỉ khi đi đường, chúng ta mới hiểu được đường đi khó khăn. Điều này không phải là quan điểm chủ quan mà hoàn toàn phản ánh thực tế mà Bác đang và đã trải qua.
Bởi trong tình cảnh đó, hằng ngày Bác thường xuyên bị áp giải đi qua nhiều nhà lao khác nhau, từ Quảng Tây đến nơi khác, có lúc nghĩ rằng không thể chịu đựng nổi vì phải đối mặt với cảnh đày ải khổ cực: 'tay bị trói, cổ đeo xích... đi mãi mà không biết đi đâu về đâu.
Chịu mưa, nắng, vượt núi qua suối... đi qua gần ba mươi nhà tù' (Trần Dân Tiên). Do đó, câu thơ được viết từ hiện thực trần trụi của một con người trải qua trải nghiệm cực kỳ thuyết phục. Ở câu thừa đề, nhà thơ chỉ rõ sự vất vả, gian khó của hành trình khó khăn:
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
(Hết một lớp núi lại đến lớp núi khác)
Với sự kết hợp giữa lặp từ 'trùng san' (hết một lớp núi qua đến lớp núi khác) và 'hựu' (lại), thơ phản ánh cảnh núi non đầy hiểm trở, sự lặp lại nối tiếp của chuỗi 'trùng san' tạo nên bức tranh núi cao khó khăn, chuỗi lặp này không có điểm dừng. Vượt qua những dãy núi cao chót vót, trùng trùng, nghĩa là thoát khỏi khổ đau, những thách thức mới lại xuất hiện và chờ đợi phía trước.
Do đó, từ 'mới biết' ở câu thơ đầu điểm mặc câu thơ thứ hai tạo ra sự chiều sâu trong cảm xúc và suy ngẫm của nhà thơ: Sự thấm thía về những đoạn đường đã đi qua và những đoạn đường khó khăn tiếp theo. Điều này là hình ảnh của một hành trình không chỉ đòi hỏi một sức khỏe dẻo dai mà còn yêu cầu một ý chí, một nghị lực kiên trì, một tinh thần vượt khó phi thường. Cuối cùng, Bác đã vượt lên trên chính mình để đến với đỉnh cao chiến thắng:
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian.
Vượt qua biết bao nhiêu thử thách, vất vả với những đoạn đường gập ghềnh, uốn khúc, nỗ lực đã lùi về phía sau và người đi đường bước lên đỉnh cao chót vót. Sự lặp lại của từ ngữ, sự nối tiếp liên tục trong câu hai và ba qua từ 'trùng san' không chỉ thể hiện hình ảnh núi cao, nối tiếp mà còn như việc tạo ra những bước chân chắc chắn đặt lên từng bậc thang để leo lên đỉnh cao muôn trượng. Khi đó, người đi đường lộ diện với tư thế vĩ đại, tự tin, như đang tung cánh tay ra và làm chủ không gian của vũ trụ:
Vạn lí dư đồ cố miện gian.
(Cả nước non thu nhỏ vào trong tầm nhìn)
Câu thơ cuối cùng đã thành công trong việc miêu tả tư thế của người chiến thắng. Tất cả mọi thứ đột nhiên thu nhỏ lại thành đôi mắt của anh hùng. Những khó nhọc đã biến mất vào hư vô, thay vào đó là niềm hạnh phúc, niềm vui và cảm giác hoà mình với cảnh đẹp của thiên nhiên. Đó là đỉnh cao của chiến thắng, của sự vượt lên trước chính mình trước những khó khăn, thử thách.
'Đi đường' là một bài thơ có cấu trúc chuẩn mực theo trình tự của thể thơ tứ tuyệt (đề - thực – luận – kết) súc tích, có điệu biến đổi linh hoạt: hai câu đầu chậm rãi, suy tư; hai câu sau thoải mái, nhẹ nhàng, thoải mái... tất cả góp phần hiện thực hóa cảm xúc và suy ngẫm của nhân vật trong thơ.
'Đi đường' không chỉ đơn giản là nói về khó khăn trong cuộc sống mà hình ảnh của núi cao trùng trùng còn trở thành biểu tượng của sự khó khăn và gian khó trong cuộc sống và cuộc đời cách mạng. Chiến sĩ cách mạng phải trải qua nhiều chông gai thử thách nhưng khi vượt qua đó, sẽ mang lại thành công rực rỡ.
Và cuộc đời cũng vậy. Khi chúng ta vượt qua thách thức, sẽ đạt được kết quả xứng đáng, tạo ra những giá trị cao quý, không thể phai nhòa, thiêng liêng. 'Đi đường' ngắn gọn nhưng ý thơ mênh mang, mang lại cho độc giả nhiều bài học ý nghĩa và triết lý sâu sắc.


6. Phân Tích Bài Thơ 'Đi Đường' của Hồ Chí Minh - Phần 7
Bài thơ 'Đi đường' của Hồ Chí Minh được trích từ tập Nhật kí trong tù. Tương tự như những tác phẩm khác như Từ Long An đến Đồng Chính, Đi Nam Ninh, Giải đi sớm, Trên đường đi, Chiều tối, bài thơ này không chỉ là những trải nghiệm trên đường đi mà còn là triết lý sâu sắc về cuộc sống. Bác mô tả không chỉ về cảnh đẹp tự nhiên mà còn về ý chí, niềm tin vững vàng của người chiến sĩ cách mạng:
Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan,
Trùng san chi ngoại hựu trùng san;
Trùng san đăng đáo cao phong hậu,
Vạn lí dư đồ cố miện gian.
Bác mô tả một cuộc hành trình vất vả, đầy gian khổ, nhưng qua những khó khăn đó, con người ta trở nên mạnh mẽ và chiến thắng, như đứng trên đỉnh cao nhìn thấy muôn vàn khắp nơi:
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu,
Vạn lí dư đồ cố miện gian.
Bài thơ không chỉ nói về con đường trần tục mà còn là hành trình tinh thần, là bài học sâu sắc về ý chí và niềm tin, đặc biệt trong cuộc sống cách mạng. Đây là tác phẩm có giá trị triết học cao, là nguồn động viên mạnh mẽ cho những người bước trên con đường khó khăn và gian nan.
Mỗi câu thơ là một bước chân, mỗi khó khăn là một thử thách, và cuối cùng, chiến thắng là của những người kiên trì, có ý chí và niềm tin không bao giờ phai nhạt.


7. Phân tích bài thơ 'Đi đường' của Hồ Chí Minh số 6
M.Goóc-ki đã từng nhấn mạnh: “Kỳ lạ thay con người!”. Bước vào cuộc sống, con người khẳng định sự tồn tại bằng ý chí, nghị lực và một tâm hồn rộng lớn. Cuộc sống là hành trình đầy thử thách, là lửa thử vàng làm tinh khiết và rạng ngời hơn. Trong tập thơ Nhật kí trong tù, chúng ta luôn gặp một con người như thế.
Bài thơ Đi đường, giống như những tác phẩm khác như Đi Nam Ninh, Chiều tối, Giải đi sớm,… không chỉ kể về gian khó của người tù trên con đường chuyển lao mà còn thể hiện triết lý mạnh mẽ trước những thách thức của cuộc đời và phong thái cao quý của một con người.
Câu thơ mở đầu của Bác không chỉ là lời than phiền của người đã trải qua nhiều khó khăn trên con đường chuyển lao mà còn là sự khẳng định, suy ngẫm từ trải nghiệm sâu sắc:
“Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng.”
Câu thơ như là một triết lý của con người đã trải qua. Chỉ khi đi đường, trải qua những khó khăn trên con đường mới hiểu được nỗi gian nan, mới thấu hiểu được gian khổ là gì. Bài học này không mới mẻ, nhưng chỉ thông qua thử thách và trải nghiệm cá nhân mới nhận thức sâu sắc được. Câu thơ giản dị nhưng chứa đựng một chân lí hiển nhiên: “Trùng san chi ngoại hựu trùng san.”
Điềp từ “trùng san” mở ra một con đường gập ghềnh với những dãy núi, nhấn mạnh sự trải dài vô tận, không kết thúc của lớp núi này đến lớp núi khác. Con đường đó dường như đối lập với sức người, vắt cạn sức lực của con người. Phải vượt qua con đường như thế mới thấu hiểu được chân lí tưởng như giản đơn: “Đi đường mới biết gian lao” như Bác đã nói ở câu thơ đầu.
Hai câu thơ không chỉ đơn giản kể về việc đi đường vất vả, không miêu tả trực tiếp hình ảnh người đi đường. Nhưng ta vẫn thấy hình ảnh người đi đường. Con người không xuất hiện ở trạng thái thảnh thơi ngồi ngắm cảnh với trập trùng núi, không là lữ khách du ngoạn để ngắm cảnh non sông, mây trời mà là một người tù đang trên đường chuyển lao.
Vai đeo gông, chân mang xiềng xích, đói khát phải vượt qua bao đèo cao, dốc sâu, vực thẳm, qua những con đường núi non hiểm trở. Chữ “hựu” ở giữa hai câu thơ không chỉ nói về sự nối tiếp của núi non mà còn nói về sự vất vả của người tù. Chưa kể hết con đường này thì con đường núi khác lại hiện ra trước mắt, chưa hết khó khăn này thì một khó khăn khác lại nằm phía trước.
Nhưng, câu thơ không phải là tiếng thở dài, lời than thở của người đi đường, mà chỉ là chân lí của người chiến sĩ cách mạng rút ra từ con đường chuyển lao, trong quá trình hoạt động cách mạng của mình. Hai câu thơ tiếp theo lại vút lên nhẹ nhàng:
“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”
Câu thơ thứ ba tiếp tục nói về núi. Không chỉ là núi cao rồi lại núi cao trập trùng, con đường đi đã đẩy lên đến tận cùng khó khăn, hiểm trở “lên đến tận cùng”. Câu thơ dường như là niềm vui của người tù khi đã vượt qua hàng núi, dốc sâu để lên đến đỉnh núi cao nhất, tận cùng nhất. Ta như bắt gặp ở đây một chủ đề quen thuộc: đăng cao và một phong thái vũ trụ của con người: Đăng cao, viễn vọng.
Khi lên đến đỉnh núi, con người có thể phóng tầm mắt bao quát và chiếm lĩnh cả một khoảng không bao la, như làm chủ vũ trụ, đất trời. Con người khi đó như trong tư thế chiến thắng. Con người tự nhiên như được tạo dáng hiên ngang, ngạo nghễ giữa một vũ trụ bao la như du khách dạo chơi giữa non nước mây trời.
Trong tư thế đó, con người như một “tiên ông đạo cốt”. Những khó khăn của đường đi không thể cầm tù, giam hãm con người trong những dãy núi. Con người đang cố gắng vươn lên làm chủ chặng đường của mình.
“Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”. Câu thơ cuối cùng là điểm cao trào của cảm xúc. Niềm vui khôn xiết của một con người đã vượt qua bao khó khăn, khổ ải để tận hưởng cảnh nước non mây trời. Tưởng như mọi khó khăn đã lùi xa, chỉ còn lại một con người làm chủ thiên nhiên, đất trời với phong thái ung dung, tự tại đầy lạc quan. Đến đây đất trời và con người như hòa làm một. Bài thơ vút lên trong một niềm cảm hứng lãng mạn.
Đi đường là một bài thơ ngắn nhưng chứa đựng một bài học lớn, nói về con đường thực tế trong những năm tháng tù đày, chuyển lao từ nhà lao này sang nhà lao khác. Nhưng hơn hết, nó không chỉ là con đường thật với núi non hiểm trở. Đó cũng là con đường với biết bao chông gai thử thách.
Những khó khăn không thể làm con người lùi bước. Bài thơ như một niềm tin vững vàng. Đường đời có gian nan đến đâu, chỉ cần con người kiên trì, nhẫn nại và quyết tâm vượt qua, cuối cùng sẽ đến đích. Khi đó con người sẽ lên đến đỉnh cao của vinh quang, trí tuệ và làm chủ được giá trị đích thực của cuộc sống.
Bài thơ Đi đường – Tẩu lộ không chỉ là bức tranh về con đường chuyển lao đầy rẫy khó khăn, đó còn là bức tranh chân dung tinh thần tự họa Hồ Chí Minh. Từ bài thơ, người đọc có thể cảm nhận thần thái ung dung, bình tĩnh của một bậc tiên phong đạo cốt cùng với sự kiên cường rắn rỏi, lạc quan của một người chiến sĩ cách mạng.
Và như thế, bài thơ Đi đường cùng với nhiều bài thơ khác trong tập thơ Nhật kí trong tù thực sự là một tác phẩm đáng trân trọng của văn học Việt Nam.


8. Phân tích bài thơ 'Đi đường' của Hồ Chí Minh số 9
Bài thơ “Đi đường” mang tựa đề là một cụm từ, chỉ một hệ thống. Nó không chỉ diễn đạt cảm xúc trước cảnh núi non hùng vĩ, đất trời cao rộng, mà còn thể hiện tư thế chủ động của một nhà thơ - chiến sĩ. Bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, được chuyển ra thể lục bát:
“Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Mở đầu là một câu thơ giản dị gần như một lời nói thường: “Đi đường mới biết gian lao”. “Đi đường”, hai từ đơn giản thế nhưng chứa đựng biết bao ý nghĩa. Đầu tiên là nghĩa cụ thể của nó. Nói “đi đường” thực chất là bị giải đi đường, là đi đày. Bác Hồ có thể không kể, không tả, nhưng người đọc không thể không đặt bài thơ trong bối cảnh Bác bị giải đi triền miên giữa cảnh đói rét, giày dép rách, nắng mưa cùng chiều dài 53 cây số mỗi ngày, cơ thể bị trói, cổ mang vòng xích.
Thế mà, câu thơ nói đi nói lại dường như chỉ là một nhận định, một đúc kết bình thường. Từ “mới biết” nghe nhẹ nhàng, khiêm tốn nhưng chất chứa ở bên trong là những sóng gió cuộc đời, những suy nghĩ của người trong cuộc. Như vậy, câu đầu trong bài “Đi đường” không chỉ là sự đúc kết của một cuộc đi đường cụ thể, mà còn chứa đựng một thái độ đánh giá, nhận thức suốt cả chặng đường dài trên bước đường đời nói chung, trên bước đường cách mạng nói riêng. Câu thơ vừa mang nội dung cụ thể, vừa mang nội dung khái quát.
Đằng sau câu thơ, ta bắt gặp một tâm hồn lớn, cao khiết, đẹp đẽ, một trí tuệ mẫn cảm của bậc chí sĩ đang đối diện, chịu đựng những gian khó khủng khiếp nhưng đã vượt lên bằng thái độ làm chủ, bằng phong thái ung dung bình tĩnh, với cái nhìn minh mẫn, sáng suốt mà khiêm tốn.
Câu thơ thứ hai: “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng”. Đầu tiên, đó là một câu thơ mô tả thực về cảnh những lớp núi đồi trùng điệp mà Bác phải vượt qua. Có người cho rằng đây là hình ảnh cụ thể hóa các gian khó trong câu thơ đầu, cũng có thể như vậy. Nhưng như trên đã phân tích, câu đầu trong bài thơ không phải là một cảm hứng đầu mà là cảm hứng kết luận. Hơn nữa, âm thanh của câu thơ mang người đọc đến với cái gian khó thì ít, nhưng mở ra một không gian bao la, đồi trùng, đẹp đẽ, hùng vĩ nhiều hơn.
Chẳng thấy đâu đầy đẳng xiềng xích, chỉ thấy một trái tim tự do đang thưởng thức, ngắm nhìn thiên nhiên như một nghệ sĩ. Điều này khó giải thích, lí giải bằng lí luận chữ nghĩa. Từ tâm hồn nó đến trực tiếp tâm hồn. Thưởng thức thơ Bác như thưởng thức một bông hoa. Đọc thơ Người, đôi khi phải dừng lại, suy nghĩ để thưởng thức những âm vang tâm hồn, tỏa ra từ lớp chữ nghĩa, gam màu, âm thanh... giản dị, trong trắng.
Hai câu cuối:
“Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non”.
Cảnh núi non không ngừng, không chấm dứt, như vẽ ra trước mắt chúng ta bức tranh những lớp núi đồi trùng, qua từng lớp, trong đó con người, với tư cách là chủ thể của bức tranh, đang vượt lên trên những lớp núi chồng chất đó, đang đứng ở đỉnh cao ngất với niềm tự hào, thu vào tầm mắt cả một không gian rộng lớn, khung cảnh hùng vĩ của đất nước, non sông.
Câu thơ mô tả cảnh nhưng không che giấu một tiếng reo hạnh phúc ở bên trong, niềm hạnh phúc chân chính của một con người đã vượt qua bao khó khăn, đã đi và đã đến, đang đứng ở đỉnh cao vời vợi. Trong khuôn khổ âm điệu, hình ảnh, vần luật của thơ ca cổ điển, khuôn phép, mực thước, ý thơ lại như có xu hướng vượt ra ngoài, muốn vươn tới cái tầm cao cả.
Những câu thơ mang vẻ đẹp của một thiên nhiên lớn và một tâm hồn lớn. Nó không chỉ mô tả độ cao vời vợi của khung cảnh núi non cụ thể, mà còn mô tả chiều cao của tầm nhìn, của ý chí, nghị lực, niềm tin, của lí tưởng cao cả, đẹp đẽ. Quả là khi có một lí tưởng cao cả, một tâm hồn kiên cường, không có đỉnh nào mà con người không thể đạt tới. Và lúc ấy, người sẽ tìm thấy nguồn hạnh phúc không ngừng. Kết luận ý nghĩa của bài thơ mang lại cho người đọc là như thế.


9. Phân Tích Bài Thơ 'Đi Đường' Của Hồ Chí Minh Số 8
“Bác Hồ với chiếc áo nâu giản dị,
Màu sắc quê hương bền bỉ và đậm đà.
Chúng ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta…'
(Tố Hữu)
Mỗi hành động, mỗi bài thơ của Bác là nguồn sống, tăng cường nghị lực và lòng kiên nhẫn để vượt qua mọi thử thách gian khó và tin tưởng rằng chúng ta sẽ đạt được thành công trong công việc của mình.
Vào mùa thu năm 1942, từ Pác Bó, Bác Hồ đã đi qua Trung Quốc để tìm sự giúp đỡ quốc tế cho cách mạng Việt Nam và bị chính quyền tỉnh Quảng Tây bắt giữ. Trong một năm giam cầm, Bác viết Nhật Ký, gồm 133 bài thơ bằng Hán văn nhằm tự động viên bản thân, trong đó có bài Đi Đường (Tẩu Lộ).
Bài thơ được viết bằng thể thất ngôn tứ tuyệt, được dịch ra tiếng Việt bằng thể thơ lục bát bởi nhà thơ Nam Trân. Bác thường sử dụng hình ảnh phong phú trong cuộc sống để truyền đạt tư tưởng và tình cảm của mình. Ngay từ tựa đề “Đi Đường”, Bác đã làm rõ điều này.
Thay vì chỉ là một câu nhận định, câu đầu tiên trong bài “Đi Đường mới biết gian lao” chứa đựng biết bao ý nghĩa. Câu thơ không chỉ là một tóm tắt về cuộc đi đường cụ thể mà còn là một đánh giá, một nhận thức toàn diện về chặng đường dài trên cuộc sống, đặc biệt là trên con đường cách mạng. Câu thơ này vừa chứa nội dung cụ thể, vừa bao hàm nội dung tổng quát.
Câu thứ hai “Núi cao rồi lại núi cao trập trùng” là một mô tả thực tế về cảnh núi đồi chồng chất mà Bác phải vượt qua. Hình ảnh này không chỉ là khó khăn trong cuộc đi đường của Bác mà còn mở ra một không gian đẹp, hùng vĩ.
Câu cuối cùng “Núi cao lên đến tận cùng, Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” mô tả không ngừng về cảnh núi non, nhưng không che giấu niềm hạnh phúc bên trong, niềm hạnh phúc của một con người đã vượt qua khó khăn, đứng ở đỉnh cao với niềm tự hào, thu vào tầm mắt một không gian rộng lớn, khung cảnh hùng vĩ của đất nước, non sông.
Bài thơ không chỉ là sự miêu tả về vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn là sự miêu tả về chiều cao của tầm nhìn, của ý chí, nghị lực, lòng tin, của những lý tưởng cao cả và đẹp đẽ.
Câu cuối cùng “Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non” không chỉ là hình ảnh về cảnh đẹp mà còn là niềm hạnh phúc chân chính của một con người đã vượt qua gian khó, đứng ở đỉnh cao với niềm tự hào. Trong khuôn khổ của âm điệu, hình ảnh và vần luật của thơ ca cổ điển, ý thơ đã vươn tới đỉnh cao.
Thực tế cuộc sống của Bác Hồ khi bị di tản từ nhà lao này sang nhà lao khác ở tỉnh Quảng Tây đã rõ ràng truyền đạt những khó khăn không ngừng trong cuộc sống. Câu thơ không chỉ là nguồn động viên trên con đường đi mà còn là lời nhắc nhở về những khó khăn không lường trước trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ vững độc lập, tự do từ thời dựng nước cho đến khi Bác bị bắt và sáng tác bài thơ này.
Thế hệ của Bác và những người kế cận đã học tập tinh thần trong bài thơ để đối mặt với khó khăn, chuẩn bị hành trang để vượt qua mọi thách thức. Bản dịch của Nam Trân không chỉ chính xác về ngôn ngữ mà còn tận dụng những điệp ngữ, biểu tượng một cách linh hoạt, thể hiện rõ những giá trị tinh thần và tri thức chân chính.


10. Phân Tích Bài Thơ 'Đi Đường' Của Hồ Chí Minh Số 11
'Nhật Ký Trong Tù' là một tập thơ độc đáo và nổi bật của Hồ Chí Minh. Đọc những bài thơ Bác viết trong thời kỳ khó khăn tại nơi tù cấm, ta không chỉ ngưỡng mộ một tâm hồn sâu sắc, yêu thiên nhiên và yêu dân tộc, mà còn chiêm nghiệm tinh thần lạc quan giữa khó khăn và nguy hiểm. Bài thơ 'Đi Đường' của Người thể hiện rõ tâm hồn lớn đó.
'Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng,
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.'
Mở đầu bài thơ, như một trải nghiệm được rút ra từ những cuộc hành trình đầy gian khổ, qua những nơi lao lực này đến nơi lao lực khác bằng đôi chân chính mình, Bác thấu hiểu rằng cuộc hành trình ấy không phải là dễ dàng, mà chứa đựng những gian nan, khó khăn. Đường dài từ núi này sang núi kia, những đỉnh núi dốc cao liên tục làm cho tù nhân mệt mỏi.
Những dãy núi liên tiếp như thách thức từng bước chân, thách thức ý chí và nghị lực của những tù nhân cách mạng. Mỗi câu thơ tả thực để chúng ta hiểu rõ hơn về chặng đường đầy khó khăn, thách thức. Vượt qua những dãy núi cao nhất là lúc đến đỉnh. Những chặng đường khác Người đã vượt qua để chạm đến đỉnh núi cuối cùng. Lúc này, núi non hùng vĩ, đất trời bao la, non sông rộng lớn như thu vào tầm mắt.
Sau những bước chân nặng nề vượt qua núi vượt ngàn, những người tù nhân giờ đây dường như đang đứng trong một tâm trạng vô cùng thoải mái, thư thái tận hưởng vẻ đẹp của non sông. Một vẻ đẹp 'muôn trùng' mênh mông, vẫn còn với thời gian. Mọi khó khăn được xua tan và thay vào đó là niềm hạnh phúc khi ngắm nhìn và cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên.
Bài thơ cũng không chỉ dừng lại ở mức ý nghĩa này. Nó như một khúc ngân về lẽ sống cuộc đời, về con đường cách mạng hướng đến độc lập tự do cho đất nước. Con đường cách mạng đầy khó khăn đòi hỏi mỗi người phải có bản lĩnh để vượt qua. Những khó khăn đến từ nhiều nguyên nhân, nhưng người cách mạng cần phải nhìn nhận điều này một cách điềm tĩnh, sử dụng ý chí để vượt qua, hướng đến một tương lai tốt đẹp cho dân tộc.
Khi cách mạng chiến thắng, đất nước giải phóng, là lúc nhân dân sống trong hòa bình, núi sông yên bình. Con đường cách mạng không phải là một hành trình dễ dàng, đường đi chật ngõ, nhưng những người biết nỗ lực, coi khó khăn như một phần tự nhiên của cuộc sống, sẽ thành công và đạt được những thành quả tốt đẹp hơn. Hãy tin tưởng vào chính mình, giữ vững tinh thần lạc quan nhất để hướng đến những điều đẹp đẽ trong cuộc sống.
Đọc bài thơ, ta cảm nhận sâu sắc tình yêu và trọng trách của Bác. Những dòng thơ đậm đà cảm xúc, chứa đựng ý chí và niềm lạc quan. Bác từng nói: 'Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông'. Qua bài thơ, Bác gửi đến chúng ta những thông điệp sống tích cực, mãi mãi giữ giá trị qua thời gian.


11. Phân Tích Bài Thơ 'Đi Đường' Của Hồ Chí Minh Số 10
Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh là tác phẩm văn học có giá trị lớn, là một tác phẩm quý trong kho tàng văn học Việt Nam. Nhiều bài thơ trong Nhật kí trong tù thể hiện quan niệm sống đúng đắn, trở thành bài học quý cho tất cả mọi người. Bài thơ Đi đường là một dẫn chứng tiêu biểu. Đọc bài thơ Đi đường của Bác ta lại có thêm một bài học quý giá trong đường đời.
Đi đường mới biết gian lao,
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên đến tận cùng,
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non.
Trước hết, hình ảnh con đường trong bài thơ là con đường đi lại. Con đường lên núi thật khó khăn vất vả, nhiều gian nan, khó nhọc. Vượt qua ngọn núi này, phải trèo lên ngọn núi khác cao hơn, núi non trập trùng nối tiếp nhau. Thế nhưng, khi đã đặt chân lên đỉnh núi cao nhất, ta sẽ thấy được mọi thứ ở xung quanh, khi đó mọi khó khăn sẽ trở thành nhỏ bé.
Hình ảnh con đường trong bài thơ chứa đựng một ẩn ý sâu sắc. Con đường ấy chính là cuộc đời. Cuộc đời người có lắm gian nan, vất vả. Nếu có quyết tâm và lòng kiên trì vượt qua thử thách thì nhất định sẽ có được thành quả cao.
Bài thơ nêu ra một chân lí tuy bình thường nhưng rất sâu sắc và không phải ai cũng có thể thực hiện được. Những khó khăn trong cuộc sống xảy ra đòi hỏi con người phải giải quyết. Đó là thước đo cho lòng kiên trì và quyết tâm của mỗi con người. Chỉ khi có sự phấn đấu, rèn luyện thì mới mong đạt được kết quả cuối cùng.
Bác Hồ cũng đã có một số câu thơ nói lên những thử thách trong cuộc sống, qua đó đề cao ý chí quyết tâm của con người:
Gạo đem vào giã bao đau đớn
Gạo giã xong rồi trắng tựa bông
Sống ở trên đời người cũng vậy
Gian nan rèn luyện mới thành công.
Bài thơ Đi đường đã cho thấy khí phách và ý chí của Bác Hồ. Quả thật bài thơ Đi đường không còn là chuyến đi riêng của Bác mà là chuyến đi cho tất cả mọi người.


12. Phân Tích Tinh Hoa Bài Thơ 'Đi Đường' của Chủ Tịch Hồ Chí Minh số 13
Nguyễn Thành Dũng từng bày tỏ ý kiến như sau về thơ của Chủ Tịch:
“Thơ bác như dòng thơ thép
Mênh mông, làm say lòng mọi tâm hồn.”
Chất thép hiện rõ trong tinh thần lạc quan, ý chí kiên cường của bác trong những ngày hành quân, dù đối mặt với những đoạn đường gian truân. Bài thơ “đi đường” phản ánh rõ chất thép trong tâm hồn của Bác.
“Đi đường mới hiểu khó khăn
Núi cao, liên tục nối núi cao trùng trùng
Núi cao cao đến muôn trùng lớp lớp
Thu nhỏ vào tầm nhìn muôn trùng nước non”.
Câu thơ mở đầu như lời chân thành, tự nhiên của người đi đường đã trải qua những chặng đường gian truân, khắc nghiệt. Đồng thời, nó còn là sự thể hiện về sự vất vả, gian truân của người chiến sĩ cộng sản. Tuy nhiên, đó không phải là khó khăn duy nhất và là điều đầu tiên mà ta nhìn thấy trong thơ Bác. Trong một bài thơ khác, ta cũng đã chứng kiến cảnh tượng ấy:
“Bước chân lủng lẳng trên đỉnh núi đá”. Nhưng trong tình cảnh hiện tại, con đường ấy không chỉ là con đường hành quân khó khăn, mà còn là con đường đời đầy những thách thức, chông gai, hay đó chính là con đường cách mạng đầy gian nan muôn nỗi. Đó là hành trình dài mà không phải ai cũng có đủ bản lĩnh, ý chí để vượt qua: “Núi cao, liên tục nối núi cao trùng trùng.”
Điệp từ “núi” được lặp lại hai lần, như những nét vẽ rõ ràng, gân guốc về bức tranh miền rừng núi hoang vu, hẻo lánh, sâu thẳm đến đỉnh đỉnh đầy những thâm u và nguy hiểm. Ta gợi nhớ hai câu thơ quen thuộc:“Dáng vẻ núi gần xa”Hoặc câu thơ mạnh mẽ của Quang Dũng:
“Độc bước trên dốc dốc thăm thẳm
Heo hút mây cồn, mũi súng ngửi trời”.
Với câu thơ giản dị, cách sử dụng từ “điệp” kết hợp với tính từ có tính thanh thoát càng làm cho nhịp thơ trở nên trúc trắc, như bám chặt bước chân của người đi đường giàu nghị lực. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở đó, ta không thể nhận ra chân dung của người chiến sĩ cách mạng Hồ Chí Minh. Câu thơ tiếp theo là những nét vẽ chân thực, làm nổi bật tinh thần của Bác:
“Núi cao, lên tận cùng cực
Thu nhỏ vào tầm nhìn muôn trùng nước non”.
Dường như sau hành trình gian truân và đầy mệt mỏi, sự kiên trì, bền bỉ và ý chí của người đi đường đã được đền đáp. Ở đây, chính là đỉnh cao của hành trình, người đi đường đã vượt qua những thách thức đầy khó khăn. Đó là bản lĩnh của người chiến sĩ cộng sản, tinh thần thép, ý chí thép và nghị lực phi thường bền vững. Có người nói: đường đi không khó vì ngăn sông cách núi, khó vì lòng người ngại núi e sông.
Với câu thơ này, Bác đã chứng minh sức mạnh của ý chí, khả năng chịu đựng và ý chí kiên cường. Dường như đó là vẻ đẹp tinh thần đặc biệt, rất riêng và cũng rất truyền thống của tâm hồn người Việt, một dân tộc kiên trì, bền bỉ. Cuối cùng, câu thơ cuối cùng là kết quả xứng đáng mà người đi đường nhận được. Khi vượt qua ranh giới khó khăn giữa bỏ cuộc và tiếp tục, khi đến đỉnh cao, cũng là lúc ngắm nhìn cảnh đẹp thiên nhiên thơ mộng, trữ tình và hùng vĩ.
Một tâm hồn ung dung, tự do, tận hưởng tâm trạng chủ động, kiêu hãnh như con người làm chủ núi rừng, làm chủ đại ngàn rộng lớn. Giữa vô số nỗi đau, gian truân của người đi đường, họ tìm thấy một không gian để nâng cao tâm hồn, không bị ràng buộc và gò bó.
Đó là vẻ đẹp lạc quan của người chiến sĩ cách mạng. Câu thơ cuối cùng còn là biểu tượng của sự đổi mới trong hình tượng thơ. Nếu trước đó là gian khổ, giờ đây lại là sự thảnh thơi và tự tin. Điều này là cái nhìn tích cực của người chiến sĩ cách mạng, luôn tin tưởng vào con đường cách mạng của dân tộc.
Với ý chí và nghị lực kiên cường, tinh thần thép bền vững, bài thơ là nguồn động viên để chúng ta vượt qua mọi khó khăn. Đồng thời, nó là minh chứng cho tinh thần chiến sĩ-thi sĩ Hồ Chí Minh, tràn đầy niềm tin và tự hào.


13. Phân Tích Chất Thơ Bài 'Đi Đường' của Chủ Tịch Hồ Chí Minh số 12
Bị bắt vì tình nghi gián điệp, những ngày tháng giam giữ dưới chính quyền Tưởng Giới Thạch, Bác Hồ đã trải qua nhiều nhà tù ở nhiều tỉnh thành khác nhau trong Trung Quốc. Ra đời trong tình cảnh như vậy, nhiều bài thơ trong bộ sưu tập “Nhật ký trong tù” lấy cảm hứng từ chủ đề đi đường, như bài thơ “Tẩu lộ”. Mở đầu bài thơ, Chủ Tịch đưa ra một triết lý giản dị, tự nhiên và chân thực:
Tẩu lộ tài tri tẩu lộ nan
(Đi đường mới hiểu gian lao)
Đúng là chỉ khi trực tiếp bước chân trên con đường mới thấu hiểu được những khó khăn, gian nan của nó. Hơn nữa, tuyến đường mà Hồ Chủ Tịch đang áp giải không hề dễ đi, trải đầy những cạm bẫy và khó khăn. Một con đường không chút dễ dàng nào. Việc lặp lại từ “tẩu lộ” trong một dòng thơ khác giúp làm sâu sắc hơn ấn tượng về cuộc hành trình vất vả. Các câu thơ tiếp theo miêu tả cụ thể về những khó khăn này:
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
(Núi cao lại núi cao trùng trùng;
Núi cao đến tận cùng)
Ở đây, chúng ta nhận thức được rằng những con đường mà thi nhân phải vượt qua không chỉ là những con đường xấu, gồ ghề mà còn là những con đường núi đồi cao, nguy hiểm và gập ghềnh. Không chỉ khó khăn mà còn là hiểm trở nguy cơ. Từ từ “trùng” được lặp lại nhiều lần gợi lên cảm giác về những dãy núi cao trùng trùng, từng đỉnh núi xuất hiện liên tục và khó khăn vượt qua.
Ở câu trên, núi được miêu tả theo chiều rộng, còn ở câu dưới, núi mở ra theo chiều cao. Núi không chỉ nhiều mà còn cao, đứng vươn lên đến tận cùng, vô cùng khó khăn để vượt qua. Trong bối cảnh của người tù cách mạng, nói đúng là khó khăn gia tăng nhiều lần.
Ba câu thơ trên đều nói về sự khó khăn và vất vả trong hành trình đi đường. Tuy nhiên, ở câu dưới, mọi khó khăn, nguy hiểm dường như tan biến, thay vào đó là khung cảnh thiên nhiên đẹp của muôn trùng nước non. Không còn hình ảnh của một người tù bị áp giải, chỉ còn hình ảnh của một du khách đứng giữa thiên nhiên, tận hưởng thành quả sau hành trình đầy khó khăn.
Ở câu thơ này, ánh sáng cuối con đường làm cho mọi gian khó, hiểm trở trở nên nhẹ nhàng, biến mất và chỉ còn lại là cảnh đẹp của muôn trùng nước non. Người đang không còn là người tù bị thiên nhiên khiến cho sợ hãi, mà trở thành một con người cao lớn, tự do và hạnh phúc. Đây cũng là tinh thần lạc quan, tình yêu thiên nhiên của người chiến sĩ cách mạng vĩ đại, không bao giờ mất niềm tin vào cuộc sống.
Qua bài thơ, Chủ Tịch đã truyền đạt một triết lí sâu sắc: đi đường có khó khăn nhưng nếu có đủ can đảm vượt qua, ta sẽ thu được hạnh phúc cuối con đường. Mở rộng ra, đây không chỉ là con đường cách mạng, đời sống mà bất cứ con đường nào cũng đầy khó khăn nhưng khi vượt qua, ta sẽ đạt được những thành quả xứng đáng.
Chỉ với bài thơ ngắn nhưng đầy ý nghĩa, Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã làm nổi bật khí chất vĩ đại và sáng tạo của mình, giúp Bác trở nên kiên cường hơn ngay cả trong những tình huống khó khăn nhất.


14. Phân Tích Chất Thơ Bài 'Đi Đường' của Chủ Tịch Hồ Chí Minh số 15
Bài thơ 'Đi đường' là tác phẩm quý báu của Chủ Tịch Hồ Chí Minh - người lãnh đạo vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Bức tranh thơ ra đời trong bối cảnh đặc biệt, khi Bác bị bắt và giam giữ tại Trung Quốc. Trải qua những trải nghiệm đắng cay, Bác sáng tác bộ thơ 'Ngục trung nhật kí' và 'Đi đường' là một phần quan trọng trong đó. Bài thơ sử dụng hình thức thất ngôn tứ tuyệt, được biên soạn lại thành thể lục bát:
'Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non'
Từ câu thơ đầu tiên, chúng ta cảm nhận được cách diễn đạt đơn giản và chân thực của Bác Hồ: 'Đi đường mới biết gian lao'. Cụm từ 'đi đường' nghe có vẻ bình thường, nhưng thực tế, chỉ khi chúng ta bị gông cùm, xiềng xích, mới hiểu rõ 'đi đường' đồng nghĩa với việc bị giải đi, bị đày.
Bác không sử dụng nhiều hình ảnh miêu tả, nhưng qua bài thơ, ta cảm nhận được bối cảnh lịch sử. Mặc dù không mô tả chi tiết cảnh Bác bị giải đi từ nhà lao này đến nhà lao khác, sống trong điều kiện đói rét và đau đớn, cụm từ 'mới biết' giống như bản kể khiêm tốn, nhưng bên trong chúng ta hiểu được những khó khăn mà Bác đã trải qua.
Như vậy, câu đầu tiên của 'Đi đường' không chỉ là kết luận từ kinh nghiệm trên một cuộc hành trình, mà còn là một thái độ đánh giá, nhận thức sâu sắc về suy nghĩ suốt quãng đường bị tù đày và trên con đường giải phóng, tìm tự do cho dân tộc. Sang câu thứ hai, thiên nhiên xuất hiện: 'Núi cao rồi lại núi cao trập trùng'.
Các lớp núi cao xen kẽ, mô tả những khó khăn và gian khổ mà Bác phải đối mặt trên hành trình giải lao. Núi là biểu tượng của những khó khăn, với những đỉnh cao và thấp xen kẽ, giống như cuộc sống đầy gian truân mà Bác phải vượt qua. Câu thơ thứ hai như là bản diễn giải cho ý của câu thơ thứ nhất. Con đường nào cũng gồ ghề, núi cao trắc trở cản trở bước chân con người đeo trên vai những xiềng xích. Sang hai câu cuối, Bác miêu tả thiên nhiên rõ ràng hơn:
'Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non'
Những dãy núi cao không chỉ trải dài mà còn 'lên đến tận cùng', thể hiện sự đối mặt với khó khăn tột cùng. Con người giữa vũ trụ trở nên vô cùng nhỏ bé. Mặc dù vậy, con người với ý chí và quyết tâm cuối cùng cũng đạt đến đỉnh cao sau những dốc cao và đèo thấp.
Người đi đường, dù trông có vẻ nhẹ nhàng, nhưng thực sự phải đối mặt với muôn vàn khó khăn. Tuy nhiên, người tù vẫn làm chủ được thiên nhiên. Lúc đó, họ thu vào tầm mắt mọi cảnh vật xung quanh, trong câu thơ có niềm vui của một con người vượt qua mọi khó khăn, để có thể tận hưởng cảnh nước non muôn màu, cảnh giang sơn tuyệt vời từ đỉnh cao, đó chính là chiến thắng.
Bài thơ 'Đi Đường' của Chủ Tịch Hồ Chí Minh không chỉ là bức tranh thông thường mà còn là sự mô tả hình ảnh của người đi đường, với những nét phác họa giản dị và lãng mạn. Điều này làm cho bài thơ trở nên hấp dẫn và độc đáo.


15. Phân Tích Bài Thơ 'Đi Đường' Của Chủ Tịch Hồ Chí Minh Số 14
Hồ Chí Minh, người lãnh đạo vĩ đại của dân tộc Việt Nam, không chỉ có công đối thoát dân tộc khỏi bóng tối nô lệ mà còn là nhà thơ, nhà văn xuất sắc. Mỗi tác phẩm của ông đều thể hiện tinh thần yêu quê hương, hòa mình với cảnh đẹp thiên nhiên.
Bài thơ 'Đi đường' phản ánh tinh thần thép, sự lạc quan trong hoàn cảnh tác giả bị bắt giữ tàn bạo tại nhà lao của Tưởng Giới Thạch.
'Tài lộ tài tri tẩu lộ nan
Trùng san chi ngoại hựu trùng san
Trùng san đăng đáo cao phong hậu
Vạn lí dư đồ cố miện gian'.
Bài thơ dịch như sau:
'Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng
Núi cao lên đến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non'.
Bài thơ được sáng tác trong giai đoạn tác giả bị giam giữ, là một phần trong tập thơ 'Nhật ký trong tù'.
'Đi đường' ra đời khi tác giả bị áp giải từ nhà lao này sang nhà lao khác, trải qua những con đường gian nan, hiểm trở với những ngọn núi trùng điệp ở vùng đất hoang sơ, đầy nguy hiểm.
'Đi đường mới biết gian lao', nhận định sâu sắc về những khó khăn, vất vả trong cuộc hành trình. 'Núi cao rồi lại núi cao trập trùng'
Trong chuyển lao, qua những con đường núi ngoằn nghèo của tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, hình ảnh những vùng núi lớp lớp, tầng tầng, biểu tượng cho những khó khăn, gian nan mà tác giả phải vượt qua. Cảnh núi cao trùng trùng làm thấy sự tàn ác của chế độ Tưởng Giới Thạch đối với những người bị áp giải.
Núi vững chãi, hùng vĩ, cao trùng trùng, thể hiện gian nan, vất vả của người tù áp giải trên đường đi. Hình ảnh núi lớn, cao trùng trùng, là biểu tượng của sự khó khăn, đau khổ trong hành trình của họ.
Bài thơ thể hiện sự tàn nhẫn, man rợ của chế độ Tưởng Giới Thạch, hành hạ những người vô tội.


