1. Phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo - bài mẫu 4
Nam Cao là một nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm viết về người nông dân, trong đó “Chí Phèo” là một kiệt tác. Nhân vật chính của truyện, cũng mang tên Chí Phèo, dù đã trở thành một kẻ lưu manh và tha hóa, nhưng sâu thẳm bên trong vẫn là một con người lương thiện. Hình tượng Chí Phèo là một trong những nhân vật độc đáo nhất trong văn học Việt Nam, với ngoại hình, tính cách và tâm lí để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Nam Cao thường tập trung vào những con người bị xã hội bỏ rơi, những số phận bi thảm. Chí Phèo là một trong những nhân vật tiêu biểu, bị đẩy vào cảnh nghèo đói và bị chà đạp đến mức mất hết cả nhân hình lẫn nhân tính. Khi mới xuất hiện trong truyện, Chí Phèo gây ấn tượng mạnh với độc giả bằng tiếng chửi – hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, nhưng chẳng ai đáp lại ngoài vài con chó.
Tiếng chửi của Chí Phèo là biểu hiện của sự tuyệt vọng và bế tắc. Mặc dù say, nhưng hắn lại rất tỉnh táo trong việc chọn đối tượng để chửi, từ đó phản ánh nỗi đau khổ của hắn. Chí bị cô lập, bị khinh rẻ, và không ai chấp nhận hắn như một con người. Cả làng Vũ Đại coi hắn là một con quỷ dữ, không còn là con người.
Chí Phèo, từ một người hiền lành, đã trở thành kẻ lưu manh, mất hết nhân hình và nhân tính. Nam Cao khắc họa Chí với vẻ bề ngoài đáng sợ: đầu trọc lóc, răng trắng, mặt đen, mắt gườm gườm, đầy hình xăm, và khoác lên mình bộ quần áo thô kệch. Hắn không còn là anh canh điền hiền lành nữa, mà đã trở thành một kẻ côn đồ, chuyên đi uống rượu và gây sự.
Sự tha hóa của Chí Phèo bắt đầu từ khi hắn bị Bá Kiến đẩy vào tù vì sự ghen tuông vô cớ. Khi ra tù, hắn quay về làng và tiếp tục rơi vào vòng xoáy tha hóa, trở thành tay sai cho Bá Kiến, chuyên đi đòi nợ thuê. Chế độ tù ngục của xã hội phong kiến đã biến một người hiền lành như Chí Phèo thành một con quỷ dữ.
Cuộc đời của Chí Phèo từ đó chìm trong men rượu và bạo lực. Hắn không còn tỉnh táo để nhớ rằng mình đã từng là con người, trở thành nỗi kinh hoàng của làng Vũ Đại. Chí sống như một con quỷ dữ, phá hoại cuộc sống của bao người, nhưng bên trong hắn vẫn tồn tại bản chất của một con người lương thiện.
Sự lương thiện trong Chí Phèo chỉ thực sự trỗi dậy khi hắn gặp thị Nở. Hắn cảm nhận được tình người qua bát cháo hành và sự chăm sóc của thị. Đây là lần đầu tiên hắn khóc, lần đầu tiên hắn cảm thấy mình muốn được sống như một con người thực sự. Tuy nhiên, định kiến xã hội đã không cho Chí cơ hội làm lại cuộc đời. Sau năm ngày hạnh phúc ngắn ngủi, hắn bị cự tuyệt quyền làm người bởi chính thị Nở và bà cô của thị.
Chí Phèo không còn lựa chọn nào khác ngoài cái chết. Hắn kêu lên trong đau khổ, đòi quyền được sống lương thiện: “Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào cho mất được những mảnh chai trên mặt này?”. Chí Phèo đã thức tỉnh, nhận ra giá trị của bản thân, nhưng bản chất lương thiện trong hắn bị xã hội vùi lấp, không thể nào trỗi dậy được.
Chí Phèo là biểu tượng của người nông dân Việt Nam dưới ách thống trị của chế độ phong kiến nửa thuộc địa. Nam Cao đã khắc họa một nhân vật có một không hai trong lịch sử văn học, phản ánh hiện thực xã hội với quy luật “Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh”. Chí Phèo là tác phẩm để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc, khiến ta phải suy ngẫm về bản chất tốt đẹp của con người.
2. Bài cảm nhận về nhân vật Chí Phèo - mẫu số 5
Với tác phẩm truyện ngắn “Chí Phèo”, Nam Cao xứng đáng là một trong những tên tuổi lớn của trào lưu văn học hiện thực giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám 1945 cùng với những cái tên như Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng… Có thể nói cùng viết về đề tài nông dân nhưng các tác phẩm của nhà văn Nam Cao, đặc biệt là trong thể loại truyện ngắn thì “Chí Phèo” đã đạt tới một giá trị nhân đạo sâu sắc thông qua một hình thức mới mẻ. Nếu như các nhà văn khác đi sâu vào phản ánh phong tục hay đời sống cùng cực của nông dân dưới thời thực dân phong kiến thì Nam Cao lại chú trọng đến việc thể hiện nỗi đau đớn đến tột cùng của những tâm hồn, nhân cách bị xúc phạm, bị hủy diệt. Đồng thời, ông cũng kín đáo bênh vực và khẳng định nhân phẩm của những con người cùng khổ. Có thể nói rằng Chí Phèo là nhân vật thể hiện rõ nhất cái nhìn mới mẻ của Nam Cao về người nông dân trước Cách mạng.
Nhân vật Chí Phèo vốn là một thanh niên hiền lành, lương thiện nhưng đã bị bọn cường hào ở làng Vũ Đại đẩy vào bước đường cùng. Là một đứa con hoang bị bỏ rơi từ lúc mới lọt lòng, Chí được một bác phó cối không con đem về nuôi. Bác phó cối chết, Chí tứ cố vô thân, hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà khác. Hoàn cảnh éo le không cha không mẹ, không một tấc đất cắm dùi, Chí lớn lên như cây cỏ, chẳng được ai ban cho chút tình thương. Trong khoảng thời gian làm canh điền cho nhà lí Kiến, Chí được tiếng là hiền như đất. Dù nghèo khổ, không được giáo dục nhưng Chí vẫn biết đâu là phải trái, đúng sai, đâu là tình yêu và đâu là sự dâm đãng đáng khinh bỉ. Mỗi lần bị mụ vợ ba lí Kiến bắt bóp chân, Chí chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì. Và cũng như biết bao nông dân nghèo khác, Chí đã từng mơ ước một cuộc sống gia đình đơn giản mà đầm ấm: Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn để làm vốn liếng. Nếu làm ăn khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm. Một con người rất lành rồi cái mầm thiện trong con người Chí sớm bị quật ngã tả tơi và không sao gượng dậy được nữa.
Có ai ngờ đâu một anh canh điền chất phác đến thật thà ấy đã thực sự bị tha hóa bởi sự ghen ghét, tù đày, để rồi biến thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Vì ghen tuông vô lối, lí Kiến đã nhẫn tâm đẩy anh Chí vào tù và nhà tù thực dân đã nhào nặn Chí thành một con người khác hẳn. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp tạo nên bước ngoặt đau thương và bi kịch trong cuộc đời Chí. Nhưng có thể nói nguyên nhân sâu xa chính là xã hội đương thời với những thế lực bạo tàn luôn tìm cách vùi dập những người nông dân thấp cổ bé họng như Chí. Chí bị đẩy vào con đường bần cùng hóa, lưu manh hóa là tất yếu.
Khi ra tù, Chí như đã biến thành một con người hoàn toàn khác trước, với một cái tên sặc mùi giang hồ là Chí Phèo: Hắn về lớp này trông khác hẳn, mới đầu chẳng ai biết hắn là ai. Trông đặc như thằng săng đá… Cái đầu thì trọc lốc. Cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà lại rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc cái quần nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh, đầy những nét chạm trổ rồng phượng với một ông tướng cầm chuỳ, cả hai cánh tay cũng thế. Có thể nói chính nhà tù thực dân tiếp tay cho tên cường hào lí Kiến, bắt bỏ tù một anh Chí hiền lành, vô tội, để rồi thả ra một gã Chí Phèo lưu manh, côn đồ. Từ một người nông dân hiền lành, lương thiện, Chí bị biến thành quỷ dữ.
Khi mà Chí Phèo trở về làng Vũ Đại, cái mảnh đất quần ngư tranh thực, cá lớn nuốt cá bé ấy, Chí Phèo không thể hiền lành, nhẫn nhục như trước nữa. Hắn đã nắm rõ được quy luật khắt khe của sự sinh tồn: những kẻ cùng đinh càng hiền lành càng bị ức hiếp đến không thể ngóc đầu lên được. Hắn dường như đã hiểu và biết rằng phải dữ dằn, lì lợm, tàn ác mới mong tồn tại. Hắn đã mượn men rượu để tạo ra những cái đó. Hắn chìm ngập trong những cơn say triền miên và làm những việc như rạch mặt ăn vạ, đâm chém người cũng trong cơn say. Chí Phèo đã bị bá Kiến – kẻ thù của hắn biến thành con dao trong tay cường hào, thâm độc.
Và với nhân vật Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã phản ánh chân thực và sinh động bi kịch bị hủy diệt tâm hồn và nhân phẩm của những người nông dân nghèo khổ. Chí Phèo đã bị sa lầy trong vũng bùn của sự tha hóa mà không thể nào gượng đứng lên được, càng lúc càng lún sâu xuống đáy. Cũng có lẽ rằng hắn cũng không biết rằng hắn là con quỷ dơ của làng Vũ Đại, để tác quái cho bao nhiêu dân làng. Hắn biết đâu hắn đã phá vỡ bao nhiêu cơ nghiệp của mọi người, đập nát bao cảnh yên vui, đạp đổ bao nhiêu hạnh phúc, làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người lương thiện. Và vô tình hắn cũng đã đập nát tất cả những gì thuộc về tư cách của một con người trong hắn. Tất cả dân làng Vũ Đại đều quay lưng lại với hắn, khinh bỉ và ghê tởm hắn. Người ta rất sợ bộ mặt đầy những vết sẹo ngang dọc gần giống như mặt của một con thú dữ, sợ con quỷ trong tâm hồn hắn.
Có thể nói sự tha hóa của Chí Phèo một mặt tố cáo sự tàn bạo của xã hội thực dân phong kiến đã không cho con người được làm người, mặt khác thể hiện giá trị nhân đạo mới mẻ của Nam Cao trong cách nhìn nhận số phận người nông dân trước Cách mạng. Dường như đã đi sâu vào bi kịch tinh thần của nông dân, Nam Cao nhận ra vẻ đẹp ẩn chứa trong sâu thẳm tâm hồn họ. Chí Phèo luôn luôn bị bạo lực đen tối hủy diệt nhân phẩm nhưng trong đầu óc hắn như vẫn còn le lói đâu đó ánh lửa thiên lương và khát khao được làm người. Cái độc đáo của Nam Cao chính là ở chỗ tác giả đã để cho nhân vật Chí Phèo chênh vênh giữa hai bờ Thiện – Ác. Có thể nói đằng sau bộ mặt dở người dở thú là nỗi đớn đau, vật vã của một kẻ sinh ra là người mà bị cự tuyệt quyền làm người. Trong cơn say triền miên, Chí Phèo cất tiếng chửi trời, chửi đời… Tiếng chửi của hắn như một thông điệp phát đi, và sau đó lại cầu mong có sự đáp lại nhưng cả làng Vũ Đại chẳng ai thèm chửi nhau với hắn. Cho đến cuối cùng thì chỉ có ba con chó dữ và một thằng say rượu. Người ta coi hắn chẳng khác gì một con chó dại mà thôi, ai cũng đều xa lánh và sợ hãi.
Những khi hắn tỉnh rượu, nỗi lo sợ xa xôi và sự cô đơn tràn ngập lòng hắn. Hắn thèm được làm hòa với mọi người biết bao! Mối tình bất chợt và bất ngờ với Thị Nở có thể nói là món quà nhân ái mà Nam Cao ban tặng cho Chí Phèo. Tình yêu của Thị Nở đã làm hồi sinh lại cho Chí Phèo, đánh thức lương tri và khát vọng làm người của hắn. Lần đầu tiên trong đời, hắn - một tên Chí Phèo tha hóa kia lại sợ cô đơn và hắn muốn khóc khi nhận bát cháo hành từ tay Thị Nở. Lần đầu tiên sau bao nhiêu năm dài đằng đẵng, những âm thanh quen thuộc của cuộc sống vọng đến tai hắn và ngân vang trong lòng hắn, khiến hắn càng thèm được làm một con người bình thường như bao người khác và khấp khởi hi vọng Thị Nở sẽ mở đường cho hắn.
Nhưng lúc này đây thì cánh cửa cuộc đời vừa mới hé mở đã bị đóng sập lại trước mặt Chí Phèo. Bà cô Thị Nở – đại diện cho dân làng Vũ Đại – đã dứt khoát không chấp nhận Chí Phèo. Từ hi vọng hạnh phúc, thì giờ đây Chí Phèo rơi xuống vực thẳm tuyệt vọng. Lần đầu tiên trong đời hắn ý thức sâu sắc về số phận bất hạnh của mình. Hắn lại đem rượu ra uống để mong cơn say làm vơi bớt khổ đau, tủi nhục nhưng khốn nỗi càng uống hắn càng tỉnh. Hắn đã thực sự muốn làm người trở lại, muốn làm người lương thiện nhưng cả làng Vũ Đại tẩy chay hắn, không ai coi hắn là người. Hắn cũng không thể tiếp tục làm quỷ dữ bởi đã ý thức sâu sắc về bi kịch đời mình.
Có thể nói để giành lại sự sống cho tâm hồn, thì Chí Phèo buộc phải từ bỏ thể xác. Chí Phèo đã chết trên ngưỡng cửa trở về cuộc sống của một người lương thiện. Cái chết vật vã, đau đớn và câu hỏi cuối cùng của Chí Phèo: Ai cho tao lương thiện ? còn làm day dứt và ám ảnh lương tâm người đọc cho đến tận ngày nay. Đó cũng là câu hỏi lớn của Nam Cao: Làm thế nào để con người được sống đích thực là con người trong cái xã hội tàn bạo ấy?
Với truyện ngắn đặc sắc “Chí Phèo’, Nam Cao đã thực sự đạt tới tầm cao của tư tưởng nhân đạo khi nhìn nhận và đánh giá người nông dân trước Cách mạng. Nhà văn không dừng ở hiện tượng bên ngoài mà đi sâu vào thể hiện bản chất bên trong của con người. Nam Cao cũng đã chứng tỏ bút lực già dặn của mình qua tài nghệ xây dựng hình tượng nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Ý nghĩa xã hội của hình tượng Chí Phèo rất lớn và sức sống của nó cũng thật lâu dài. Có thể nói tác phẩm và nhân vật đã tôn vinh tên tuổi Nam Cao trong lịch sử văn chương của nước ta.
3. Bài viết phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo - mẫu 6
Nhà văn Nam Cao là một tên tuổi vững chãi, giữ vị trí quan trọng trong văn học hiện thực Việt Nam. Nhân vật nổi bật mà ông xây dựng thành công không thể không nhắc đến Chí Phèo. Với tác phẩm 'Chí Phèo', Nam Cao khẳng định danh tiếng của mình trong nền văn học nước nhà, vì nhiều nhà văn khác như Ngô Tất Tố với 'Tắt Đèn' cũng đã thành công trong việc thể hiện nỗi khổ của người nông dân.
Chí Phèo, một thanh niên vốn hiền lành và lương thiện, đã bị xã hội phong kiến và các tầng lớp bóc lột đẩy đến bờ vực, đánh mất nhân phẩm và sự lương thiện vốn có. Sinh ra là một đứa trẻ mồ côi, Chí Phèo được bác phó cối nhận nuôi, nhưng cuộc đời lại xô đẩy anh vào cảnh cơ cực khi bác qua đời, để anh phải lang thang kiếm sống.
Khi trưởng thành, Chí Phèo làm việc cho gia đình Bá Kiến, một gia đình quyền lực ở làng Vũ Đại. Mặc dù hiền lành và chăm chỉ, anh vẫn không tránh khỏi sự ghen ghét của Bá Kiến và sự lợi dụng của bà Ba. Chí Phèo bị vu oan, bị bỏ tù nhiều năm, từ một người hiền lành trở thành một kẻ giang hồ, hoàn toàn biến chất. Cuộc sống sau khi ra tù của Chí Phèo chỉ xoay quanh rượu, cướp bóc và trở thành nỗi khiếp sợ của dân làng.
Nam Cao đã vẽ nên hình ảnh sống động của xã hội cũ, nơi người nông dân bị đẩy vào bần cùng và tha hóa. Chí Phèo, từ một người lương thiện bị xã hội đẩy vào con đường tội lỗi, trở thành một minh chứng cho sự tàn bạo của xã hội phong kiến. Những bi kịch của Chí Phèo phản ánh sự tha hóa của con người trong hoàn cảnh áp bức, nhưng cũng cho thấy vẻ đẹp tiềm ẩn trong những người nông dân. Cuộc gặp gỡ định mệnh với Thị Nở, đặc biệt là bát cháo hành của cô, đã mở ra cho Chí Phèo một cơ hội để trở về với con người lương thiện. Nhưng khi cơ hội đó bị chặn lại, Chí Phèo rơi vào sự tuyệt vọng và căm thù, với câu hỏi đau đớn 'Ai cho tao lương thiện?'
Truyện ngắn 'Chí Phèo' không chỉ mang lại cái nhìn sâu sắc về số phận con người mà còn thể hiện tinh thần nhân văn, phản ánh một cây bút tài ba trong nền văn học hiện thực của nước ta. Đây là một tác phẩm kinh điển, mang lại cho chúng ta cái nhìn mới mẻ về con người và xã hội.
4. Phân tích nhân vật Chí Phèo - mẫu 7
Trước Cách mạng tháng Tám, số phận của người nông dân đã là chủ đề chính trong văn học hiện thực phê phán. Ngô Tất Tố với 'Tắt đèn' và nhân vật chị Dậu, Nguyễn Công Hoan qua 'Bước đường cùng' và anh Pha, đặc biệt là Nam Cao với những tác phẩm nổi bật về người nông dân Việt Nam trước cách mạng, nổi bật nhất là hình tượng Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên. Hình ảnh Chí Phèo đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Chí Phèo là ai? Nam Cao mở đầu tác phẩm bằng cách giới thiệu nhân vật theo một cách độc đáo. Chí Phèo xuất hiện với hình ảnh của một kẻ say rượu: “Hắn vừa đi vừa chửi”. Những lời chửi của hắn không chỉ chửi trời, chửi đời, mà còn chửi cả làng Vũ Đại và tất cả những ai không chửi lại hắn. Lạ lùng hơn, đây không phải là lần đầu hắn chửi, bởi “Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi”. Vậy vì sao hắn lại đến nông nỗi này? Nhân vật của Nam Cao vừa xuất hiện đã trở thành một ẩn số, khiến người đọc cảm thấy xót xa – có lẽ hắn đã trải qua nỗi đau lớn đến mức dùng rượu để hủy hoại bản thân, và những tiếng chửi cũng phản ánh sự mất niềm tin vào cuộc sống và con người. Người đọc tiếp tục theo dõi và thấy cuộc đời Chí Phèo hiện lên như một bi kịch.
Chí Phèo vốn là đứa trẻ bị bỏ rơi, không được ai mong đợi. Hắn là con hoang, cha không thừa nhận, mẹ bỏ rơi ở cái lò gạch hoang. Hắn được những người nông dân nghèo khổ nhặt về, từ một anh đi thả ống lươn đến một bà góa mù, rồi bác phó cối. Khi bác phó cối chết, Chí trở thành đứa trẻ bơ vơ, phải đi xin ăn và sống trong nghèo khổ. Đời hắn bấp bênh, như cỏ dại trôi dạt. Đây là tình cảnh chung của người nông dân trước cách mạng, cuộc sống của họ bị xô đẩy và vất vả.
Vào tuổi đôi mươi, số phận đưa đẩy Chí đến nhà lí Kiến. Tưởng rằng sẽ có cơ hội, ai ngờ lại rơi vào địa ngục trần gian. Vợ ba của lí Kiến bắt hắn làm việc dâm dục. Tuy còn trẻ, Chí vẫn phân biệt được đâu là tình yêu chân chính, đâu là thói dâm dục. Sự cám dỗ không làm bản chất của Chí thay đổi. Chí là người tự trọng và lương thiện, điều này phản ánh bản chất tốt đẹp của người nông dân xưa. Chị Dậu của Ngô Tất Tố, lão Hạc của Nam Cao đều thể hiện lòng tự trọng và phẩm cách. Ở Chí Phèo, xã hội tăm tối đã hủy diệt bản chất lương thiện của hắn. Nhà tù thực dân và cường hào lí Kiến đã biến Chí từ người lương thiện thành con quỷ dữ.
Sau nhiều năm tù tội, Chí trở thành một kẻ ác với vẻ ngoài đáng sợ: “cái đầu thì trọc lốc”, “răng cạo trắng hớn”, “trông gớm chết”. Hắn xăm đầy hình thù quái dị, bản chất năm xưa đã biến mất. Giờ đây, hắn chỉ biết làm việc ác. Hành động của hắn thể hiện sự lưu manh, từ việc đốt quán khi không mua được rượu đến việc làm mọi việc cho bá Kiến. Chí ngày càng trượt dài trong tội lỗi.
Nam Cao đã phát hiện ra một điều mới mẻ về đời sống người nông dân trước cách mạng. Thay vì chỉ miêu tả cuộc sống khốn cùng, ông chỉ ra con đường bị lưu manh hóa của người nông dân, vốn chất phác và lương thiện. Nhà văn đã vạch trần thủ phạm của tội ác: cường hào địa phương và chính quyền thực dân đã tẩy não và làm bẩn những tâm hồn lương thiện.
Tuy nhiên, bản chất tốt đẹp của Chí Phèo vẫn còn tiềm ẩn sâu xa, như mặt trời không bao giờ tắt. Sau giấc ngủ dài, nó cựa quậy, đòi tỉnh giấc. Tình thương của Thị Nở đã mở ra một bước ngoặt lớn trong cuộc đời Chí Phèo. Thị Nở như ánh trăng mát lành, tình thương của cô đã khôi phục bản chất lương thiện trong Chí. Đoạn văn về sự thức tỉnh của Chí sau khi gặp Thị Nở tràn đầy chất thơ. Thị Nở đã giúp Chí tìm lại sự tự ý thức và ước mơ một cuộc sống bình dị: mái ấm gia đình.
Hôm nay, Chí nghe thấy “tiếng chim hót vui vẻ” và “tiếng hỏi nhau về giá vải”. Những âm thanh này vốn đã quen thuộc, nhưng hôm nay Chí mới thực sự nghe thấy, bởi hắn đã bừng tỉnh, hướng về cuộc sống. Bát cháo hành của Thị Nở làm Chí cảm động, “mắt ươn ướt nước” và “hắn cười thật hiền”. Hắn khao khát trở về thế giới lương thiện, và Thị Nở có thể là người mở đường cho hắn. Những trang văn này làm sáng bừng câu chuyện và quãng đời trôi nổi của Chí Phèo. Ước mơ giản dị của hắn có thể làm người ta nhìn lại và trân trọng cuộc sống hơn.
5. Bài viết phân tích nhân vật Chí Phèo - mẫu 8
Nam Cao, được biết đến như một cây bút nổi bật trong nền văn học hiện thực, đã sáng tác nhiều tác phẩm xoay quanh cuộc sống của người nông dân Việt Nam. Những tác phẩm của ông không chỉ phản ánh chân thực hiện trạng bần cùng của người nông dân trước cách mạng tháng Tám mà còn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
Nhân vật trong các tác phẩm của Nam Cao thường gánh chịu sự đắng cay và khổ cực do xã hội tạo ra, như trường hợp của Chí Phèo. Ban đầu, Chí là một người hiền lành, chân chất, làm việc vất vả để kiếm sống nhưng lại bị gia đình Bá Kiến đối xử tệ bạc, khiến Chí trở thành con người khác, từ một nông dân lương thiện trở thành kẻ tàn ác. Sự tha hóa của Chí là một phản ánh rõ nét của xã hội lúc bấy giờ, và khi đọc tác phẩm, độc giả không thể không cảm thấy xót thương và đồng cảm với nhân vật này.
Chí Phèo đã phải trải qua nhiều khó khăn, xuất thân không may mắn, bị bỏ rơi từ nhỏ và không được chăm sóc, dạy dỗ. Dù muốn sống bằng sức lao động của mình, nhưng Chí không thể thực hiện được vì phải chịu đựng sự áp bức và tha hóa từ xã hội. Chí vừa là đại diện cho cá nhân bị bóc lột, vừa là hình ảnh tiêu biểu của một tầng lớp nông dân bị áp bức về cả tinh thần lẫn thể xác. Sự cơ cực và bần cùng đã biến Chí từ một người lương thiện thành kẻ không còn nhân tính. Chí làm việc chăm chỉ, nhưng mọi công lao đều bị bọn cầm quyền xấu xa đàn áp, làm tụt lùi xã hội.
Chí Phèo bị đưa vào tù và biến thành người hoàn toàn khác, mất đi nhân cách và đạo đức. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến riêng Chí mà còn phản ánh tình trạng chung của nhiều nông dân thời bấy giờ. Sự tha hóa, thể xác đau khổ, tâm hồn bị xé nát và cái đói, cái khổ luôn ám ảnh cuộc đời Chí, làm nổi bật sự tha hóa của người nông dân Việt Nam trước cách mạng.
Chí Phèo là đại diện cho cuộc đấu tranh chống lại thế lực tàn ác, phản ánh hiện thực nghiệt ngã của xã hội phong kiến. Tuy nhiên, nhờ lòng nhân đạo của tác giả, Chí có cơ hội trải qua những ngày tháng hạnh phúc khi gặp Thị Nở. Tình cảm giữa họ nảy sinh trong hoàn cảnh éo le, nhưng đã làm ấm lên tình người trong Chí, giúp Chí tỉnh thức và trở nên nhân đạo hơn. Trước kia, Chí chửi đời, nhưng sau khi gặp Thị Nở, Chí mong muốn trở thành một con người lương thiện.
Chí từng nói: “Ai cho ta lương thiện”. Điều này thể hiện ước nguyện của Chí muốn trở thành một con người bình thường. Cuộc đời Chí trải qua nhiều thăng trầm, từ người nông dân hiền lành trở thành kẻ dữ tợn. Chí Phèo, qua nhân vật này, tác giả tố cáo xã hội phong kiến tàn ác và thể hiện sự nhân đạo sâu sắc khi để Chí gặp Thị Nở, tạo nên một tác phẩm đầy giá trị nhân đạo và sự phản ánh sâu sắc về xã hội phong kiến.
Tác phẩm để lại nhiều giá trị nổi bật, trong đó có giá trị nhân đạo và sự tố cáo mạnh mẽ đối với xã hội phong kiến.
6. Bài viết phân tích hình ảnh nhân vật Chí Phèo - mẫu 9
Chí Phèo – là một bi kịch sâu sắc của một người nông dân nghèo bị xã hội cũ tha hóa, đại diện cho một mẫu hình điển hình. Chí Phèo vốn là người lương thiện, luôn khao khát sống cuộc đời bình thường và tử tế, nhưng xã hội đã biến hắn thành một kẻ dữ tợn của làng Vũ Đại. Bi kịch của Chí Phèo khởi phát từ khi hắn gặp Thị Nở với ‘bát cháo hành’. Tình yêu giữa Chí Phèo và Thị Nở đã làm dấy lên trong hắn niềm hy vọng về sự lương thiện, và sự xuất hiện của Thị Nở, dù chỉ là thoáng qua, đã cứu Chí Phèo khỏi bi kịch của mình.
Chí Phèo là một kiệt tác của Nam Cao, nơi tác giả đã khéo léo vẽ nên bức tranh chân thực về xã hội nông thôn Việt Nam trước CMT8, với sự tăm tối, ngột ngạt và những bi kịch đau thương. Dù tác phẩm mang những tên gọi khác như Cái lò gạch cũ, Đôi lứa xứng đôi hay Chí Phèo, thì giá trị hiện thực và nhân đạo của nó vẫn luôn nổi bật. Chí Phèo là biểu tượng của bi kịch nông dân bị tha hóa trong xã hội cũ, nhưng niềm khao khát sống lương thiện vẫn luôn âm ỉ trong lòng hắn, dù trong hoàn cảnh cùng quẫn nhất.
Chí Phèo, từ một đứa trẻ mồ côi lớn lên trong lò gạch cũ, sống nhờ tình thương của những người nghèo, đã bị cuộc đời đối xử tồi tệ. Khi trưởng thành, hắn làm việc cho nhà Bá Kiến nhưng lại bị vợ của Bá Kiến lạm dụng, rồi Bá Kiến ghen tuông đưa hắn vào tù. Sau khi ra tù, Chí Phèo trở thành ‘con quỷ dữ’ của làng Vũ Đại, hành hạ dân lành. Chỉ có một lần hắn tỉnh táo vào một buổi sáng khi Thị Nở đánh thức. Nhưng tình yêu không bền, hắn rơi vào bế tắc, giết Bá Kiến rồi tự sát. Dù Chí Phèo chết, câu chuyện vẫn chưa kết thúc. Thị Nở nhìn xuống bụng mình, và một ‘Chí Phèo con’ sắp ra đời. Sự sắp xếp này rất tinh tế, mỗi lần Chí Phèo vươn lên thì cuộc đời lại đè xuống, khiến người đọc không thể rời mắt.
Nam Cao đã xây dựng tâm lý nhân vật thật xuất sắc. Ở đoạn Chí Phèo tỉnh dậy, trời đã sáng, hắn cảm nhận cuộc sống qua ánh sáng mặt trời và tiếng chim. Hắn bắt đầu cảm nhận những giá trị của cuộc sống, và nhớ về ước mơ gia đình hạnh phúc của mình, mặc dù chỉ là mơ hồ. Hắn cảm thấy buồn và cô độc, và diễn biến tâm lý của hắn cho thấy sự chuyển biến từ quỷ dữ sang khao khát lương thiện.
Trong truyện, quá trình bị từ chối quyền làm người đã diễn ra từ lâu, đồng thời với quá trình tha hóa. Tiếng chửi của Chí Phèo thể hiện sự phản kháng, dù là hình thức thấp kém nhất, nhưng không ai đáp lại. Bi kịch thực sự bắt đầu khi Chí Phèo gặp Thị Nở, đánh thức trong hắn sự khao khát trở lại làm người bình thường. Hương vị bát cháo hành của Thị Nở tượng trưng cho tình yêu chân thành và hạnh phúc giản dị. Chí Phèo cảm nhận được hơi cháo hành mỗi khi thất vọng, khi hắn suy nghĩ về sự lựa chọn giữa làm người và làm quỷ. Cuối cùng, hành động của hắn trước khi chết là nỗ lực cuối cùng để làm người.
Chí Phèo tỉnh táo đã tiêu diệt Chí Phèo say. Dù Chí Phèo đã chết về thể xác, hắn vẫn sống trong lòng người đọc như một hình tượng đòi quyền sống và sự lương thiện. Cái chết của Chí Phèo không chỉ là hành động của một kẻ lưu manh, mà là cuộc vùng dậy tuyệt vọng của người nông dân khi nhận thức được cuộc sống. Tác phẩm mang giá trị tố cáo sâu sắc, lên án giai cấp phong kiến và sự tha hóa, những bi kịch như vậy sẽ tiếp tục xảy ra.
7. Bài viết phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo - mẫu 10
Khi những nhân vật như chị Dậu và anh Pha xuất hiện trên văn đàn Việt Nam vào những năm ba mươi của thế kỷ trước, xã hội thực dân – phong kiến đương thời đã khiến nhiều người nghĩ rằng nạn nhân khổ đau nhất là những người bị bóc lột, bị tước đoạt hết của cải, sức lực và bị xúc phạm danh dự, tinh thần. Quan điểm đó tưởng chừng đã là chân lý, nhưng khi Chí Phèo của Nam Cao xuất hiện với hình hài xấu xí và những biến thái nhân cách tàn tạ, ta mới nhận ra rằng nỗi đau lớn nhất không phải là sự bức bách của xã hội mà là sự cô lập và từ chối. Chí Phèo đã để lại ấn tượng sâu sắc và sự cảm thông sâu sắc về số phận của một con người sống trong cảnh không còn được coi là người.
Sự xuất hiện của Chí Phèo, với những hành động và hồi tưởng trong tác phẩm, tạo ra ấn tượng mạnh mẽ nhờ sự xáo trộn tài tình của Nam Cao trong cốt truyện. Sự chuyển động đột ngột từ đầu đến kết thúc của câu chuyện, dù có vẻ như là xáo trộn, nhưng thực ra rất tự nhiên. Chí Phèo xuất hiện không cần bất kỳ sự chuẩn bị hay tô vẽ, và người đọc cảm nhận sự thay đổi của nhân vật qua từng chi tiết về xã hội và con người trong bối cảnh đó. Hình ảnh Chí Phèo phản ánh tư tưởng nhân văn cao cả của Nam Cao, thể hiện sự tôn trọng bản chất lương thiện của con người dù họ đã rơi vào con đường lầm lạc.
Cuộc đời Chí Phèo có thể chia thành ba giai đoạn. Giống như nhiều người nông dân khác, hắn bắt đầu với cuộc sống bình yên và phẩm hạnh lương thiện. Mồ côi từ nhỏ, làm việc cho nhà Bá Kiến, và bị ghen ghét của Bá Kiến hãm hại, đẩy vào tù thực dân, cuộc đời hắn bước sang một ngã rẽ mới. Bá Kiến là thủ phạm đầu tiên trong việc biến đổi một tâm hồn lương thiện thành lưu manh. Tù đày thực dân chỉ làm trầm trọng thêm sự biến chất đó. Sự liên kết giữa cường hào và thực dân đã phá hủy hàng ngàn viên ngọc lương thiện của những con người dưới đáy xã hội. Chúng ta cảm thấy tiếc cho Chí, là nạn nhân của trò hèn hạ, và căm ghét những kẻ phá hủy nhân tính của hắn. Ta đau đớn nhận ra rằng khi mãn hạn tù, Chí lại bị đưa vào một nhà tù khác do xã hội tạo ra, biệt lập với những kẻ tha hóa nhân phẩm như Năm Thọ và Binh Chức, bắt đầu giai đoạn mới đầy khắc nghiệt.
“Hắn vừa đi vừa chửi” – đó là hình ảnh đầu tiên của Chí Phèo khi Nam Cao giới thiệu nhân vật ngay từ đầu tác phẩm. Đó cũng là giai đoạn thứ hai trong cuộc đời hắn – từ một tên lưu manh đến một kẻ tay sai – nỗi khiếp đảm của làng Vũ Đại. Sự lưu manh hóa của Chí Phèo không phải là điều mới trong văn học; Nguyên Hồng đã đề cập đến sự biến chất của con người trong xã hội qua tác phẩm Bỉ vỏ, nhưng chỉ dừng lại ở đó. Nam Cao, với sự khéo léo trong chi tiết nghệ thuật, đã làm nổi bật điều này trong truyện ngắn của mình. Tiếng chửi của Chí Phèo không chỉ là phản ứng với cuộc đời mà còn chứa đựng một khát khao: giá như có ai đó thèm chửi với hắn, bởi ít ra còn có người quan tâm đến hắn. Nhưng tiếng chửi vang cả làng mà không ai để ý đến hắn, chứng tỏ hắn đã bị loại khỏi cuộc đời. Dưới trời này, người ta đã quen với sự hiện diện của tên lưu manh Chí Phèo. Nam Cao đã để bản chất của Chí ló dạng qua cái say mơ màng và sự nhận thức đau đớn về bản thân trong tiếng chửi vang trời. Còn bản chất con người, còn khát khao được yêu thương, chứng tỏ hắn vẫn còn là người.
Sau tiếng chửi là những hành động của Chí Phèo: đến nhà Bá Kiến để ăn vạ, rồi ngày ngày sống theo thói lưu manh, rạch mặt và ăn chực của người khác. “Con quỷ dữ của làng Vũ Đại” hiện ra với hình dáng gớm ghiếc: đầu trọc lốc, răng cạo trắng hớn, mặt đen và cứng nhắc, hai mắt gườm gườm. “Cái ngực phanh” và “chạm trổ rồng phượng” làm nổi bật sự xấu xí của hắn. Nam Cao nhấn mạnh sự gớm ghiếc này để người đọc cảm nhận được sự tàn tạ của nhân vật. Hắn trở thành công cụ đắc lực trong việc huỷ hoại nhân tính của mình, là nỗi khiếp đảm của xã hội. Vòng biệt lập xã hội tạo ra cho Chí Phèo ngày càng chặt chẽ. Mặc dù ta có thể giận và trách Chí vì lợi ích trước mắt mà làm tay sai cho kẻ ác, nhưng ta nhận ra rằng nếu không có âm mưu nham hiểm của Bá Kiến, sẽ không có một kẻ tay sai hung dữ như vậy. Nghĩ lại, Chí đáng thương hơn là đáng trách.
Cuộc sống của Chí Phèo thể hiện quy luật bần cùng hóa dẫn đến lưu manh hóa trong xã hội đương thời. Nhưng Nam Cao không để Chí Phèo chết trong cảnh buồn tẻ. Với tinh thần nhân đạo, Nam Cao để tâm hồn lương thiện của Chí Phèo thức tỉnh từ đêm gặp Thị Nở. Đó là đêm đầu tiên hắn được đánh thức bản năng làm người và buổi sáng hôm sau là lần đầu tiên kể từ khi ra tù hắn được tận hưởng vẻ đẹp của thiên nhiên: tiếng chim hót, ánh nắng rực rỡ, và tiếng người trò chuyện. Hắn nhớ và hồi tưởng. Đoạn hồi tưởng của hắn làm nhiều độc giả bất ngờ: Chí vẫn còn là con người, biết yêu ghét, vui buồn, lo âu và hy vọng. Hắn lo sợ tuổi già và sự cô độc. Có sự hài lòng và hy vọng rằng cảm xúc của Chí Phèo sẽ duy trì mãi và hắn còn một con đường về với nhân loại.
Bản năng con người chỉ được đánh thức trọn vẹn khi có sự quan tâm của Thị Nở qua bát cháo hành. Lần đầu tiên, Chí cảm nhận được sự quan tâm từ người khác, một sự so sánh giữa người đàn bà độc địa và người duy nhất thể hiện sự quan tâm qua bát cháo đậm tình người. Tiếng nói của Chí Phèo và Nam Cao đột ngột cất lên: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn hòa nhập với mọi người biết bao!”. Khát khao sống trong xã hội và được yêu thương của Chí Phèo được thể hiện mạnh mẽ nhất. Tình yêu mộc mạc giữa Chí Phèo và Thị Nở nở ra và duy trì trong năm ngày hạnh phúc của Chí.
Thị Nở từ chối Chí Phèo! Đó là cú sốc nặng nề nhất từ xã hội đối với Chí. Toàn bộ hy vọng của hắn trở thành tuyệt vọng. Hắn uống rượu để say, nhưng càng uống càng tỉnh. Cải tỉnh của Chí luôn đi song song với sự say, nhưng giờ đây nó thúc đẩy hắn trả thù. Kẻ gây ra nỗi đắng cay và nhục nhã cho cuộc đời Chí chính là Bá Kiến. Những câu nói cuối cùng của Chí đối với Bá Kiến là tuyên bố của kẻ thấp bé nhất trong xã hội: “Tao muốn làm người lương thiện”. Dao đâm Bá Kiến và dao tự sát tuy khẳng định rằng một người như Chí khó mà sống trong xã hội khắc nghiệt, nhưng cũng là tuyên ngôn về sự tồn tại của tâm hồn lương thiện ngay cả khi con người đã về cõi chết.
Dù biết sau Chí Phèo còn nhiều kẻ bị bần cùng hóa và lưu manh hóa, và xã hội còn từ chối những con người như vậy, nhưng qua nhân vật Chí Phèo, ta vẫn tin rằng hạt giống lương thiện sẽ mọc thành cây cao. Nếu không có hạt giống lương thiện trong Chí Phèo, làm sao có cây nhân cách trong Lão Hạc. Niềm cảm thương và tin tưởng trong lòng độc giả vẫn song hành với tác phẩm Chí Phèo.
8. Bài viết phân tích nhân vật Chí Phèo - mẫu số 11
Khi nhắc đến văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, không thể bỏ qua 'Chí Phèo' của Nam Cao. Với ngòi bút sắc sảo và chân thực, Nam Cao đã tạo nên một tác phẩm nổi bật đến mức 'làm mờ các tác phẩm khác cùng thời'. Trong tác phẩm nổi tiếng này, Nam Cao đã khắc họa thành công hình tượng Chí Phèo - một nhân vật điển hình. Qua đó, ông gửi gắm những giá trị nhân đạo và hiện thực sâu sắc.
Hình tượng Chí Phèo được xây dựng với một số phận đầy bi kịch. Dù bị tha hóa và biến chất, nhân vật này vẫn giữ được vẻ đẹp tâm hồn và khát khao sống lương thiện. Cuộc đời Chí Phèo là chuỗi dài bi kịch và khổ đau. Đó là cuộc đời của một người nông dân khốn khổ, bị đẩy vào con đường lưu manh tội lỗi. Sinh ra đã bị cự tuyệt quyền làm người, bi kịch của Chí bắt đầu ngay từ khi hắn xuất hiện. Không có cha mẹ, Chí Phèo sinh ra 'trần truồng và xám ngắt trong một cái váy đụp bên cạnh lò gạch bỏ không'. Hắn bị bỏ rơi, 'rước lấy và đem cho một người đàn bà góa mù'. Sau đó, hắn bị bán cho bác phó cối và sống một cuộc đời lang thang, không gia đình, không nơi nương tựa, vật lộn với cuộc sống. Gần hai mươi năm, Chí Phèo lưu lạc, 'hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ', cho đến khi làm canh điền cho Lí Kiến ở tuổi 20.
Chí Phèo sống kiếp làm thuê không một tấc đất cắm dùi. Bi kịch vẫn không buông tha hắn. Chỉ vì một trận ghen tuông vô lý, Chí Phèo bị Lí Kiến đẩy vào tù, mất trọn 8 năm. Khi ra tù, hắn không còn là một canh điền hiền lành nữa mà trở thành một tên lưu manh, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhà tù đã hủy hoại nhân hình của hắn, biến hắn thành một con quái vật với 'cái đầu trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen và rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm'. Hắn chỉ còn mặc một bộ đồ rách rưới, hai tay và ngực chạm trổ rồng phượng. Khi trở về, Chí Phèo đã mang trên mình ngoại hình dữ tợn và hành động thay đổi. Hắn uống rượu, ăn thịt chó suốt cả ngày, rồi xông thẳng đến nhà Bá Kiến chửi bới, đập chai vào cổng, rạch mặt và kêu trời ăn vạ. Sự thay đổi này gây sốc cho cả làng Vũ Đại.
Chí Phèo vẫn ngang ngược và dữ dội trong những ngày sau đó. Hắn nhận ra Bá Kiến là người đã đẩy mình vào bi kịch. Nhưng không lâu sau, thủ đoạn của Bá Kiến đã làm Chí Phèo thay đổi. Một bữa rượu, một vài câu mơn trớn và tiền của cụ Bá khiến 'Chí Phèo vô cùng hả hê'. Bằng rượu, thịt và tiền, Bá Kiến ru ngủ hận thù của Chí. Từ đó, Chí Phèo tiếp tục trở thành tay sai cho Bá Kiến, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bá Kiến biến Chí Phèo thành công cụ đáng sợ để đòi nợ. Hắn trở thành một tay sai cho kẻ thù, làm mọi việc ức hiếp, phá phách và đâm chém. Nhân tính trong Chí dần biến mất, hắn trở thành con quỷ dữ, 'biết bao cơ nghiệp bị hắn phá hoại, bao nhiêu cảnh yên vui bị hắn đạp đổ, làm chảy máu và nước mắt của bao người lương thiện'.
Cuộc đời của Chí dường như tiếp tục trôi đi trong đơn độc và đau khổ. Xã hội ruồng bỏ hắn, dân làng sợ hắn, tránh mặt mỗi khi hắn qua. Khi Chí Phèo chửi bới, chẳng ai nghe, mọi người coi như 'những người say rượu hát'. Một người như vậy bỗng trở nên vô hình giữa làng Vũ Đại. Hình ảnh Chí Phèo 'vừa đi vừa chửi' trở thành nỗi ám ảnh trong lòng người đọc về bi kịch của con người bị gặm nhấm trong cô đơn tuyệt vọng.
Nhưng cuộc đời Chí Phèo không dừng lại ở đó. Một ngày, trong cuộc sống u ám đầy men say của hắn, Thị Nở - một người đàn bà xấu xí đã xuất hiện. Sau một đêm bên nhau, Chí Phèo ốm và Thị Nở chăm sóc hắn, nấu cho hắn một bát cháo hành. Chính bát cháo hành giản dị đã làm Chí Phèo thay đổi. Lần đầu tiên trong đời, hắn được chăm sóc một cách chân thành, không phải cướp hay đe dọa. Thị Nở nhận ra bản tính lương thiện trong hắn, và Chí Phèo cũng thấy mình hiền lành khi ăn cháo hành. Thị Nở là người duy nhất cảm nhận được sự hiền lành trong con người đã bị hủy hoại của Chí Phèo.
Sau cuộc gặp gỡ với Thị Nở, tâm lý của Chí Phèo đã thay đổi. Hắn bắt đầu nghe thấy âm thanh của cuộc sống: tiếng chim hót, tiếng người cười nói, tiếng thuyền chèo... Lòng hắn trĩu nặng nỗi buồn và nỗi sợ hãi. Hắn nhớ lại ước mơ về một cuộc sống bình dị và cảm thấy sợ hãi vì đã từng bất chấp mọi thứ. Hắn sợ đói rét, ốm đau và cô độc. Trong lúc ăn cháo hành và nhìn Thị Nở, hắn trăn trở về cuộc đời của mình.
Người đọc nhận ra rằng, trong sâu thẳm con người Chí Phèo, bản tính lương thiện vẫn còn. Nhờ tình yêu thương và sự chăm sóc của Thị Nở, bản tính ấy mới được đánh thức. Đây là cái nhìn nhân đạo sâu sắc của Nam Cao về những người nông dân bị xã hội xô đẩy vào con đường tha hóa. Khi linh hồn thức tỉnh, Chí Phèo khao khát được làm người, hòa nhập lại với xã hội. Lời mời của Chí Phèo: 'Hay là mình sang đây ở với tớ một nhà cho vui' không chỉ thể hiện khát khao có một gia đình mà còn là khát khao trở thành một con người bình thường. Quyết định của Thị Nở sẽ là điều quyết định số phận của hắn.
Tuy nhiên, bi kịch lại kéo Chí Phèo vào đau đớn. Thị Nở bị bà cô đay nghiến và từ chối hắn. Chí Phèo rơi vào bi kịch tinh thần sâu sắc, dùng gạch đập đầu ăn vạ và uống rượu để giảm nỗi đau. Hắn ôm mặt khóc, không còn nước mắt hạnh phúc, chỉ còn nỗi đớn đau cực độ. Cuối cùng, Chí Phèo quyết định giết Bá Kiến và tự sát. Hắn không muốn tiếp tục cuộc sống bi kịch và tội lỗi. Chí Phèo chết trong sự đau khổ và uất hận, trên ngưỡng cửa của sự trở về cuộc đời.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh từng nói: “Chí Phèo là hiện thân của sự cùng khổ trong xã hội thuộc địa: bị dày đạp, cào xé, hủy hoại từ nhân tính đến nhân hình.” Đây là nhân vật điển hình mà Nam Cao xây dựng để phản ánh sự tàn bạo của xã hội đã đẩy người nông dân vào cuộc sống tối tăm, tước đoạt cả diện mạo và linh hồn của họ. Hình tượng Chí Phèo và tác phẩm cùng tên đã đưa Trí Hữu Tri trở thành Nam Cao, với phong cách văn chương độc đáo và lòng nhân đạo sâu sắc. Đến khi trang sách khép lại, hình ảnh Chí Phèo vừa đi vừa chửi vẫn là nỗi ám ảnh trong lòng người đọc.
9. Bài viết phân tích nhân vật Chí Phèo - mẫu 12
Trong Giăng sáng Nam Cao đã đã viết lên một quan niệm văn chương thật sâu sắc và thấm thía "Chao ôi, nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật chỉ có thể là tiếng kêu đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than và nhà văn không được trốn tránh nghệ thuật mà phải đứng trong lao khổ mở hồn ra đón lấy những vang động của đời". Với quan niệm nghệ thuật đáng quý ấy Nam Cao đã mạnh mẽ bước vào đứng giữa những tầng lớp nhân dân cùng khổ, những người nông dân nghèo, trí thức nghèo đang bị cái xã hội thối nát làm cho điêu đứng để viết ra những tác phẩm văn chương chân chính, vừa tố cáo hiện thực xã hội tàn ác vừa đồng cảm và xót thương cho những mảnh đời bất hạnh những năm tháng trước Cách mạng. Bên cạnh Đời thừa, Vợ nhặt, Sống mòn thì Chí Phèo là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của Nam Cao viết về đề tài người nông dân. Ở đó người ta thấy hiện lên một xã hội thực dân - nửa phong kiến tàn ác, từng bước dồn người nông dân, những con người vốn lương thiện như Chí Phèo vào bước đường bi kịch bị từ chối quyền làm người một cách đau đớn và xót xa vô cùng.
Có lẽ ai cũng có ấn tượng sâu đậm về một Chí Phèo nát rượu, chuyên rạch mặt ăn vạ và hay chửi thế nhưng có phải ngay từ ban đầu Chí đã đổ đốn và trở nên đáng sợ như vậy không? Câu trả lời là hoàn toàn không phải, Nam Cao đã tường tận nói về cả cái gốc gác con người và cả cái tâm hồn cao quý ban đầu của nhân vật, điều đó đã làm cho ấn tượng về cái bi kịch của nhân vật chính trong truyện càng thêm sâu sắc và có căn nguyên rõ ràng. Chí Phèo là một đứa trẻ bị bỏ rơi, được trao cho hết người này đến người khác, rồi cuối cùng lớn lên trong vòng tay yêu thương của làng Vũ Đại. Có thể nói rằng ngay từ khi lọt lòng Chí Phèo đã gặp phải bi kịch lớn của cuộc đời - bi kịch bị bỏ rơi. Thế nhưng thật may mắn rằng, Chí tuy lớn lên thiếu thốn tình cảm gia đình, cuộc sống vất vả không ruộng đất, nhưng anh lại là người hiền lành, lương thiện. Sự lương thiện của Chí Phèo thể hiện ở chỗ, anh quyết tâm làm ăn chân chính, đi làm canh điền cho nhà Bá Kiến, bỏ mồ hôi công sức để kiếm sống.
Hơn thế nữa ấn tượng về tâm hồn lương thiện của nhân vật này còn thể hiện ở lòng tự trọng sâu sắc trước sự ve vãn của bà ba vợ Bá Kiến, Chí thấy xấu hổ "chỉ thấy nhục chứ yêu đương gì" hay "Hai mươi tuổi, người ta không là đá, nhưng cũng không hoàn toàn là xác thịt. người ta không thích cái gì người ta khinh" cái nội tâm Chí khi nghĩ về bản thân cũng khiến người ta phải yêu thương, trân trọng về một tấm lòng trong sáng, hiểu biết và đạo đức vô cùng. Rồi năm 20 tuổi ấy, Chí Phèo cũng có một giấc mơ dung dị, bình thường nhưng rất đỗi tươi đẹp, đó là giấc mơ có một mái ấm gia đình, chồng cày thuê cuốc mướn, vợ dệt vải, nuôi lợn, dành dụm mua đất,...cứ thế mà bình bình đạm đạm qua ngày. Có thể nói rằng giấc mơ của Chí Phèo là một giấc mơ thực tế, giấc mơ có thể thực hiện được của những con người lương thiện, cần cù chứ không phải viển vông xa vời như "một túp lều tranh hai trái tim vàng". Và nếu không có gì bất ngờ thì có lẽ Chí Phèo đã thực hiện được ước mơ nhỏ bé đó của mình rồi, chỉ tiếc rằng cuộc đời vẫn lắm trái ngang, đặc biệt là trái ngang với kẻ lương thiện, hiền lành.
Thật lạ lùng, bởi một con người hiền lành lương thiện, có ý chí phấn đấu như Chí thế nhưng cuối cùng lại rơi vào bước đường bi kịch bị tha hóa nhân cách, bị tước quyền làm người. Chí Phèo có lòng tự trọng, anh giữ mình trong sạch trước sự lẳng lơ lăng loàn của người đàn bà kia, thế nhưng Bá Kiến, một kẻ hay ghen và ác độc đại diện cho chế độ phong kiến quyền lực lại không thấy vậy. Hoặc cũng có thể là hắn biết nhưng cái lòng ghen của hắn đã không thể tha thứ cho Chí Phèo và rắp tâm đẩy anh vào tù sống khổ sở tới tận 7, 8 năm trời vì một cái tội và Chí vốn không làm. Nhà tù của chế độ cũ chắc là một cái gì đó kinh khủng lắm, cái nhà tù thực dân - phong kiến đã nhào nặn Chí từ một người nông dân đứng đắn, có lòng tự trọng thành một thằng lưu manh chính hiệu, tha hóa nhân cách, không biết đến tự trọng là gì. Bởi khi thấy Chí trở về anh đã thay đổi cả hình dạng lẫn tính cách, còn đâu một anh Chí hiền lành, chất phác ngày xưa, mà chỉ thấy một người với bộ dạng "Trông đặc như thằng sắng cá! Cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất câng câng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần áo nái đen với cái áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế. Trông gớm chết!", khiến người ta e ngại và sợ hãi.
Nhưng những thay đổi về nhân hình vẫn chưa đủ để chứng minh Chí Phèo là một kẻ lưu manh, chỉ khi phát hiện những thay đổi về nhân tính người ta mới nắm chắc rằng, Chí đã không còn là anh canh điền khi xưa nữa mà là Chí Phèo, một kẻ nhân cách dị dạng. Ngay hôm đầu tiên ra tù hắn đã ra giữa chợ ngồi uống rượu ăn thịt chó từ trưa tới chiều, rồi uống cho say khướt, rồi xách cái vỏ chai đến nhà Bá Kiến, gọi thẳng tên tục ra mà chửi. Rồi từ chửi bới, hắn lại đâm ra đánh nhau với lý Cường, rồi sau đó đổ đốn ra ăn vạ, ăn vạ một cách vô cùng cực đoan, Chí Phèo đập vỡ vỏ chai rồi lấy mảnh vỏ cào vào mặt, máu chảy bê bết, khiến người ta từ hứng chí xem trò vui đâm ra sợ hãi và ghê tởm trước cảnh tượng Chí Phèo nằm lăn ra ăn vạ. Xong màn ăn vạ Chí Phèo lại đâm ra thách thức với cả Bá Kiến, với khẩu khí rất ngang ngược, bất cần "Tao chỉ liều chết với bố con nhà mày đây thôi". Có thể nói rằng Chí Phèo sau khi đi tù trở về đã bị lưu manh hóa hoàn toàn, trở thành con người hung hăng, liều lĩnh, cái bản chất lương thiện dường như đã bị bóp chết trong 7, 8 tù đày ấy.
Thế nhưng sự tha hóa của Chí Phèo không chỉ dừng lại ở đó, Chí Phèo tiếp tục trượt dài trên sự lưu manh, mất nhân tính trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, sự tha hóa này có một nửa nguyên nhân là sự gian xảo của Bá Kiến nửa còn lại cũng là bắt nguồn từ cuộc đời bị bỏ rơi, không gia đình, không học hành của Chí, thế nên hắn mới có thể dễ dàng bị Bá Kiến lợi dụng và tha hóa nhân cách đến độ không thể cứu vãn được. Sự khờ khạo u mê của Chí, đã khiến Chí bán lẻ nhân cách của mình, đi đâm thuê chém mướn cho Bá Kiến để lấy vài hào bạc sống qua ngày mà không hề ý thức được. Nam Cao đã rất dụng tâm để khắc họa lại chân dung của nhân vật này, đó không phải là chân dung của một con người có nhân tính như trước kia mà đó là chân dung của một con vật lạ, đó là một gương mặt "vàng vàng mà lại muốn xạm màu gio; nó vằn dọc vằn ngang, không thứ tự, biết bao nhiêu là sẹo".
Nhiêu đấy câu chữ thôi nhưng cũng đủ làm người ta phải thấy đau đớn, xót xa cho một số kiếp làm người, nhưng lại không phải là con người nữa mà là một "con vật lạ" không biết là con gì. Không chỉ nhân hình hóa thú mà cả nhân tính của Chí Phèo cũng hoàn toàn biến đổi, vặn vẹo từ một kẻ thích uống rượu trở thành một kẻ triền miên trong những cơn say, "cơn say của hắn tràn cơn này qua cơn khác, thành một cơn dài, mênh mông, hắn ăn trong lúc say, ngủ trong lúc say, thức dậy vẫn còn say, đập đầu rạch mặt chửi bới, dọa nạt trong lúc say, uống rượu trong lúc say, để rồi say nữa, say vô tận", cơn say ấy đã kéo dài suốt 15 năm. Và cơn say ấy đã biến cuộc đời Chí Phèo thành bi kịch, bởi khi say hắn có thể làm bất kỳ điều gì mà Bá Kiến yêu cầu, "bao nhiêu việc ức hiếp, phá phách, đâm chém, mưu hại, người ta giao cho hắn làm!", xót xa hơn cả là "Những việc ấy chính là cuộc đời của hắn", Chí Phèo bán linh hồn, bán cả cuộc đời cho rượu chè và việc đâm thuê chém mướn. Rồi cuộc đời hắn nát bấy, hắn trở thành kẻ chuyên chửi, hắn chửi đời, chửi tất cả, "chửi đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo?" để cho hắn đớn đau, khổ sở lay lắt trên cõi này đã hơn 40 năm.
Nhưng từ cái chửi của Chí Phèo người ta cũng nhìn ra được cái khát khao giao tiếp, đối thoại với cộng đồng của một con người khốn khổ, Chí Phèo mong rằng có ai đó chửi nhau với hắn, hoặc nói chuyện với hắn, thế nhưng hắn càng chửi người ta càng sợ, càng xa lánh hắn, thậm chí nghe hắn chửi miết cũng thành quen, mà không ai đoái hoài tới hắn cả. Như vậy bản thân Chí Phèo đã thất bại trong giao tiếp, hắn bị đẩy ra khỏi cộng đồng, bị cô lập, bị từ chối quyền làm người, hắn thực sự trở thành một con quỷ dữ, sánh ngang với cả loài chó "chỉ có ba con chó dữ với một thằng say rượu!". Như vậy đằng sau cái bi kịch đau thương của Chí Phèo, nhà văn Nam Cao đã gửi gắm một thông điệp để phơi bày, tố cáo và lên án cái xã hội cũ đầy bất công ngang trái, với giai cấp thống trị nắm trong tay quyền lực tối thượng đã gây ra biết bao đớn đau và bi kịch cho tầng lớp nông dân cùng khổ, tiêu biểu là Chí Phèo với bi kịch tha hóa.
Nhưng nếu chỉ tha hóa không thôi thì câu chuyện chỉ dừng lại ở mức độ tố cáo xã hội cũ, việc Nam Cao để cho Chí Phèo gặp Thị Nở rồi hồi sinh cái tấm lòng thiện lương tưởng đã chết của hắn mới thực sự đem lại cho câu chuyện những ý nghĩa nhân văn sâu sắc hơn cả. Khởi đầu của việc hồi sinh phải kể đến việc Chí Phèo tỉnh rượu sau đêm gặp gỡ thị Nở, hắn bắt đầu có những nhận thức về thế giới xung quanh, hắn nhận ra ánh sáng của nắng ngoài trời đã lên cao, nghe được tiếng chim ríu rít ngoài vườn nhà, tiếng người ta trò chuyện với nhau, và hắn cũng nhận ra cái thân thể yếu ớt, đã qua dốc bên kia đời người của mình. Hắn nhận ra mình cô độc, hắn thấy buồn, rồi bắt đầu hắn nhớ về những ước mơ khi còn trai trẻ, chỉ tiếc là đã dang dở tới hơn hai mươi năm nay, rồi hắn nhìn về hiện tại, cũng đoán trước được cái tuổi già ốm đau, đói rét, và đáng sợ nhất là sự cô độc, không thân thích. Nguyên nhân thứ hai khiến Chí Phèo hồi sinh và có ý nghĩa quyết định ấy là Thị Nở một người đàn bà xấu ma chê quỷ hờn, thế nhưng thị lại là người đầu tiên quan tâm tới hắn khi hắn ốm đau, thị nói chuyện với hắn, tình tứ với hắn, thị không xa lánh hắn, và bát cháo hành của thị khiến hắn cảm động vô cùng.
Tất cả những điều ấy đã khiến Chí Phèo thức tỉnh tính người, Chí Phèo đã khóc trước sự quan tâm ân cần của Thị Nở, hắn thấy mắt mình ươn ướt, những giọt nước mắt ấy đã ngăn cản không cho Chí Phèo tiếp tục trượt dài trên con đường tha hóa. Không chỉ thức tỉnh tính người mà ở Chí còn là sự thức tỉnh của tình người, Chí Phèo đã biết đến tình yêu, biểu hiện cao nhất của tình người, hắn yêu thị Nở, hắn thấy thị Nở có duyên, hắn khao khát được xây dựng mái ấm hạnh phúc với thị Nở. Không chỉ thức tỉnh tính người, tình người mà ở Chí Phèo còn thức tỉnh cả khát vọng làm người, khát vọng quay lại cuộc đời lương thiện "Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!(...). Họ sẽ nhận lại hắn vào cái xã hội bằng phẳng, thân thiện của những người lương thiện...". Và thị Nở sẽ thành cầu nối của hắn, đưa hắn về với cuộc sống hạnh phúc, chan hòa với mọi người cuộc sống mà bao năm nay hắn vẫn hằng khao khát nhưng nằm ngoài tầm tay với.
Thế nhưng bi kịch của Chí Phèo vẫn không hề dừng lại bởi sự thức tỉnh của hắn mà còn nên đau đớn và xót xa đến tận cùng, hắn bị cự tuyệt quyền làm người. Hắn muốn cưới Thị Nở thế nhưng chính bà cô của thị đã khiến hắn nhận ra rằng hắn không thể quay lại quay lại làm người được nữa, cả cái xã hội này đã từ bỏ hắn lâu rồi. Từ nhận thức đớn đau và tuyệt vọng như vậy, Chí Phèo đã nhận ra rằng chỉ có cái chết mới là sự kết thúc bi kịch, mới là sự giải thoát, quyết định tự tử của Chí Phèo chính là biểu hiện của bản chất lương thiện tồn tại bất diệt trong tâm hồn Chí, giờ đây chỉ có kết liễu mạng sống thì mới có thể hoàn toàn từ bỏ cuộc đời của một con quỷ dữ, một thằng lưu manh, bị cả xã hội xa lánh.
Cuộc đời của Chí Phèo từ lúc bắt đầu cho đến tận lúc kết thúc, hơn 40 năm trời đều chỉ là bi kịch, hắn chỉ được nếm chút hạnh phúc nhỏ nhoi rồi lại lập tức bị vùi ngay xuống những bi kịch không thể chịu đựng, bi kịch bị từ chối quyền làm người, rồi cuối cùng là cái chết để giải thoát. Bằng cách xây dựng nhân vật kỹ lưỡng, tài tình, ngôn ngữ biến ảo, chân thực, Nam Cao đã tạo nên một nhân vật điển hình, gây ấn tượng sâu sắc cho người đọc, phản ánh, tố cáo sự bất công, độc ác của chế độ cũ, đồng thời thể hiện tấm lòng xót thương cho những số phận người nông dân bất hạnh ở chế độ cũ. Không chỉ vậy đọc Chí Phèo người ta còn phát hiện ra những vẻ đẹp bất diệt trong tâm hồn của nhân vật đó là tấm lòng lương thiện, khao khát được sống, được giao tiếp với xã hội dù rằng trong những khốn cảnh nhất định nó đã vô tình bị che lấp đi.
10. Bài viết cảm nhận về hình ảnh nhân vật Chí Phèo - mẫu 14
Nhà văn Nam Cao, một tên tuổi lớn trong nền văn học hiện thực trước cách mạng tháng Tám, đã tạo dựng nhân vật Chí Phèo với nhiều chiều sâu tâm lý và ấn tượng mạnh mẽ. Tác phẩm của ông không chỉ phản ánh nỗi khổ của người nông dân mà còn khắc họa sự biến chất của tâm hồn con người khi bị xã hội phong kiến bần cùng hóa. Chí Phèo, từ một người hiền lành trở thành một kẻ côn đồ, là minh chứng cho sự tàn bạo của xã hội. Vào những năm đầu đời, Chí Phèo sống hạnh phúc với cha nuôi, nhưng sau cái chết của bác Phó Cối, cuộc sống của anh đã bị xô đẩy vào vực thẳm. Những năm tháng tù tội đã làm anh thay đổi hoàn toàn, biến anh thành một kẻ đáng sợ trong làng. Nam Cao đã xây dựng hình ảnh Chí Phèo với sự biến hình rõ nét, từ một con người lương thiện trở thành một kẻ bị xã hội ruồng bỏ và bị chính mình biến thành quỷ dữ. Cuộc gặp gỡ định mệnh với Thị Nở khiến Chí Phèo nhớ lại ước mơ giản dị về một mái ấm gia đình. Nhưng khi bị Thị Nở từ chối, anh đã quay lại với Bá Kiến và kết thúc cuộc đời mình một cách bi thảm. Truyện ngắn 'Chí Phèo' của Nam Cao phản ánh chân thực cuộc sống bần cùng dưới chế độ phong kiến.
11. Bài viết cảm nhận về hình ảnh nhân vật Chí Phèo - mẫu 13
Nam Cao là một trong những tên tuổi nổi bật của văn học hiện đại Việt Nam trước cách mạng. Qua tác phẩm “Chí Phèo” và đặc biệt là nhân vật Chí Phèo, Nam Cao đã gửi đến độc giả những ấn tượng sâu sắc về số phận và tính cách của những người dân thuộc địa bị chà đạp, tàn phá cả về hình hài lẫn nhân cách.
Đối với Nam Cao, nghệ thuật không phải là sự lừa dối như ánh trăng, mà là tiếng thét đau đớn thoát ra từ những số phận bất hạnh. Chính vì thế, văn học chân chính luôn phản ánh sự thật cuộc đời, yêu cầu người nghệ sĩ phải dùng thực tài, thực tâm để thể hiện những giá trị nhân đạo sâu sắc, nhằm hướng tới con người và vì con người mà lên tiếng. “Một tác phẩm thực sự có giá trị phải vượt qua mọi giới hạn, trở thành tài sản chung của nhân loại, giúp con người gần gũi hơn với nhau.”
Quan niệm sáng tác mới mẻ đã giúp Nam Cao cảm nhận sâu sắc và định hình ngòi bút của mình để khai thác những con người ở tầng lớp nghèo khổ. Ông thường viết về những chi tiết nhỏ nhặt nhưng ẩn chứa triết lý nhân sinh sâu sắc. Khi viết về con người, ông khám phá thế giới “con người bên trong con người” theo một cấu trúc tự sự đảo lộn không gian và thời gian, với một giọng văn dửng dưng nhưng chân thành, đầy tình cảm. Tác phẩm “Chí Phèo” là ví dụ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nam Cao.
“Chí Phèo” viết về người nông dân, một chủ đề quen thuộc trong văn học hiện thực phê phán trước cách mạng. Trước Nam Cao, đã có những nhân vật như anh Pha và chị Dậu đại diện cho nỗi đau của con người, nhưng Chí Phèo sống vì nhà văn đã khai thác đến mức tận cùng sự tha hóa của nạn nhân, bị tước đoạt cả nhân hình và nhân tính. Qua đó, nhà văn đã chỉ trích xã hội tàn nhẫn và khao khát tìm lại những giá trị tốt đẹp trong phẩm chất người nông dân.
Từ khi sinh ra, Chí Phèo đã là nạn nhân của xã hội bất công. Hắn là một đứa trẻ mồ côi bị bỏ rơi trong lò gạch cũ, được nhặt về và làm công cho nhiều gia đình, cuối cùng trở thành canh điền cho nhà Bá Kiến. Tại đây, Chí bị hành hạ, bóc lột sức lao động và bị chà đạp nhân cách khi bị bà Ba gọi lên bóp chân rồi phải làm việc thêm… rồi vào tù chỉ vì một cơn ghen vô lý của Bá Kiến.
Bảy, tám năm sau, Chí trở về làng với vẻ ngoài đáng sợ. Với răng cạo trắng, cơ thể chạm trổ và vẻ mặt dữ dằn, hắn bước đi như một tên côn đồ. Mới về hôm trước, hôm sau người ta đã thấy Chí ngồi uống rượu từ trưa đến chiều rồi đến nhà Bá Kiến để trả thù. Hắn đập chai vào cột cổng, rạch mặt, ăn vạ. Nhưng rồi, hắn bị Bá Kiến lôi kéo và trở thành tay sai đắc lực của cụ Bá. Hắn sa vào cơn say, làm bất cứ điều gì người ta sai khiến, ức hiếp, phá phách và mưu hại những người dân lương thiện, làm tổn hại nhiều cuộc sống và hạnh phúc của họ. Vẻ ngoài của hắn không còn là của con người mà giống như một con quỷ dữ với đầy sẹo.
Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại, không chỉ bán đi bộ mặt mà còn bán cả linh hồn cho quỷ dữ. Hắn bị xa lánh, bị xã hội từ chối quyền làm người. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại nhưng không ai đáp lại, chỉ có tiếng chó sủa. Hắn chửi cả chính mình, nỗi đau và sự cô đơn được thể hiện trong tiếng chửi như một khao khát được giao tiếp. Nhưng cả làng không công nhận hắn là người, nhà hắn cũng cách biệt như nơi trú ẩn của ma quái.
Bước chân lảo đảo dưới ánh trăng đưa Chí đến gặp Thị Nở, mở ra một chương mới trong cuộc đời hắn. Hắn tỉnh rượu và nhận ra cuộc sống của mình, khao khát trở về làm người lương thiện. Lần đầu tiên trong đời, hắn thấy rõ sự khác biệt giữa hiện tại và quá khứ, từ ước mơ có một gia đình nhỏ đến hiện thực ốm đau và tương lai cô độc. Khoảnh khắc tỉnh táo đã giúp Chí nhận thức lại cuộc đời và mong muốn thay đổi tương lai.
Thị Nở đến với một nồi cháo hành nóng, làm Chí cảm động và mong muốn trở thành người lương thiện. Đây là lần đầu tiên hắn nhận được sự quan tâm mà không phải doạ nạt hay cướp giật. Cháo hành đã làm hắn cảm thấy ấm lòng và muốn làm hòa với mọi người. Tình yêu của Chí không chỉ dành cho Thị Nở mà còn là tình người. Thị Nở là cầu nối giúp Chí trở về với xã hội.
Tuy nhiên, cuộc đời đầy bất công và định kiến. Thị Nở và tình yêu của cô như cầu vồng xuất hiện rồi biến mất sau cơn mưa. Chí Phèo chưa kịp thay đổi đã bị mất đi cơ hội. Thị Nở đến và mang lời chửi mắng vào mặt Chí, làm hắn đau đớn, tìm đến rượu để làm giảm nỗi buồn. Hắn khóc rưng rức như một đứa trẻ bị cướp giật, không thể kìm nén nỗi đau.
Phẫn uất và tuyệt vọng, Chí quyết định giết Bá Kiến và tự tử. Chí từ một kẻ tay sai trở thành người nô lệ thức tỉnh, đặt ra những câu hỏi sâu sắc về nhân phẩm và xã hội. Hành động giết Bá Kiến và tự sát là sự giải thoát duy nhất cho cuộc đời Chí, phản ánh sự bế tắc và xung đột giai cấp trong xã hội trước cách mạng.
Truyện ngắn “Chí Phèo” đã thành công trong việc khắc họa nhân vật qua ngòi bút tài ba của Nam Cao. Ông đã sử dụng cốt truyện độc đáo, tình huống ấn tượng, và ngôn ngữ bình dị nhưng giàu sức gợi để tạo nên sức hút đặc biệt cho tác phẩm và bảo vệ tên tuổi tác giả qua thời gian.
12. Bài viết cảm nhận về nhân vật Chí Phèo - mẫu 15
Viết về người nông dân trước cách mạng, nhiều tác giả nổi tiếng đã tạo ra những tác phẩm tiêu biểu. Chúng ta có nhà văn Ngô Tất Tố với hình ảnh chị Dậu bị áp bức bởi thuế má, hoặc là Lão Hạc với cái chết bi thương vì tương lai của con trai, gần như chẳng khác nào một loài chó. Tuy nhiên, hình ảnh gây ám ảnh nhất vẫn là Chí Phèo, sống một cuộc đời như thú vật và chỉ khi nhận ra giá trị của nhân phẩm thì cuộc sống đã chấm dứt. Chí Phèo trong tác phẩm của Nam Cao là đỉnh cao của việc tái hiện người nông dân bị lãng quên trong xã hội phong kiến bất công.
Tuổi thơ của Chí là một chuỗi dài những nỗi đau và nước mắt. Sinh ra không cha mẹ, không bao giờ được trải nghiệm sự ngọt ngào của dòng sữa mẹ hay những lời dạy dỗ của cha. Chí sống như một cỏ dại, tự mình vươn lên, đối mặt với bao thử thách. Mặc dù được một người nhận nuôi, nhưng người này cũng qua đời, để lại Chí đơn độc trong cuộc sống. Chí trở thành người làm công cho nhà Bá Kiến. Hiền lành và chăm chỉ, dù không được học hành, anh vẫn phân biệt đúng sai. Ước mơ giản dị của anh là có gia đình, đất đai, nhưng đó là điều xa vời với một kẻ bất hạnh. Một người nông dân hiền lành lại phải vào tù vì một chữ oan, và cuộc sống nơi tù giam đã biến anh thành một con quỷ dữ, tâm hồn lương thiện bị tha hóa.
Sau khi ra tù, Chí trở thành một kẻ lang thang của làng Vũ Đại. Với chai rượu trên tay, hắn vừa đi vừa chửi, lượn lờ trên đường với những câu chửi rủa không ai quan tâm. Chí hận cuộc đời, hận những người đã đẩy anh vào con đường tội lỗi, nhưng chính bản thân hắn cũng không biết ai là kẻ gây rắc rối. Hắn chửi mẹ, chửi cha, nhưng không ai trả lời, hắn chuyển sang chửi những người không đáp lại. Tâm hồn Chí không thể tìm ra nguyên nhân nào đã đẩy hắn vào con đường tối tăm. Chửi không xong, Chí lại cào mặt ăn vạ. Rồi anh gặp Thị Nở.
Thị Nở có thể là người đã giúp Chí tìm ra hướng đi mới trong cuộc đời. Trong một xã hội thờ ơ với sự tồn tại của mình, Chí được Nở chăm sóc khi ốm đau. Hình ảnh bát cháo hành là hình ảnh cảm động nhất của tác phẩm. Nhờ bát cháo, Chí cảm nhận được tình yêu thương giữa con người với con người. Chí khóc, lần đầu tiên ta thấy Chí khóc. Bát cháo hành của người đàn bà xấu xí đã chạm vào sâu thẳm trái tim Chí. Từ đó, anh khao khát được yêu và sống hơn bao giờ hết. Tâm hồn lương thiện của Chí trỗi dậy và nhận ra chính Bá Kiến đã đẩy anh vào vực thẳm.
Chí đi tìm Bá Kiến để đòi lại quyền sống và phẩm giá. Chính cha con nhà Bá Kiến đã đẩy Chí vào cảnh tù đày, biến anh thành con ma của làng Vũ Đại. Họ đã tha hóa tâm hồn lương thiện của một nông dân chất phác thành con quỷ dữ. Họ đã làm cho Chí bị mọi người quay lưng, không ai dám gần gũi, yêu thương anh như trước. Câu chuyện kết thúc bằng cái chết đầy bi thương của ba nhân vật. Câu hỏi mà Chí luôn tìm kiếm câu trả lời vẫn ám ảnh người đọc: Ai cho tôi lương thiện? Chí đã tìm mãi mà không thấy đáp án. Chính sự thối nát và bất công của xã hội đã biến những nông dân lương thiện thành nỗi khiếp sợ của xã hội.
Hình ảnh nhân vật Chí Phèo sẽ mãi là nỗi ám ảnh với người đọc. Chúng ta không thể không thừa nhận tài năng của nhà văn Nam Cao khi xây dựng hình ảnh đầy đau đớn của Chí. Chí trở thành biểu tượng của kiếp người nông dân thấp cổ bé họng, bị đẩy vào con đường không lối thoát trong xã hội phong kiến bất công. Tác phẩm khép lại với nỗi xót xa nghẹn ngào của một kiếp sống lầm than, tha hóa.
13. Phân tích nhân vật Chí Phèo - mẫu 1
“Chí Phèo” là một kiệt tác vĩ đại trong văn học hiện đại, đánh dấu đỉnh cao của sự nghiệp nhà văn Nam Cao. Cây bút Nam Cao đã khai thác sâu sắc số phận người lao động bị áp bức. Nhân vật Chí Phèo, một biểu tượng nghệ thuật bất hủ trong văn xuôi Việt Nam, thể hiện cái nhìn mới mẻ và sâu sắc về nỗi khổ của con người trong tác phẩm của ông.
Chí Phèo ra đời không có cha mẹ, không họ hàng, không nhà cửa, không một mảnh đất để sống, và suốt đời không biết đến bàn tay chăm sóc của người phụ nữ nếu không có thị Nở. Hắn được sinh ra trong một cái lò gạch hoang phế, và tuổi thơ của hắn trôi qua trong cảnh lang thang, từ nhà này đến nhà khác, cho đến khi làm canh điền cho Bá Kiến. Cuộc đời của hắn không chỉ thiếu thốn về vật chất mà còn bị xã hội cướp đi cả bản chất con người, biến hắn thành một con thú dữ, bị loại khỏi xã hội loài người. Tiếng chửi của Chí Phèo không chỉ là dấu hiệu của sự say xỉn mà còn là nỗi đau vô tận của một người trước đây hiền lành. Qua tiếng chửi, người đọc cảm nhận được ba thái độ: sự căm thù của Chí Phèo, sự thờ ơ của xã hội, và lòng thương cảm của tác giả dành cho nhân vật. Tiếng chửi ấy thực sự đánh thức lòng nhân ái của người đọc.
Cuộc đời Chí Phèo hiện ra đầy xót xa. Bản chất lương thiện của hắn đã bị xã hội tàn phá. Bá Kiến, vì ghen tuông, đã đẩy Chí vào tù, nơi hắn trở thành một tên lưu manh hung ác. Khi trở về làng, hắn trở thành con quỷ dữ của Vũ Đại, gây rối và làm tan nát biết bao gia đình. Sự thay đổi về ngoại hình và tính cách của Chí Phèo cho thấy sự tha hóa sâu sắc. Nhưng điều đặc biệt ở Nam Cao là dù miêu tả nhân vật bị tha hóa, ông vẫn phát hiện bản chất tốt đẹp còn sót lại trong Chí Phèo. Nhân vật thị Nở xuất hiện như một ánh sáng trong bóng tối, giúp Chí nhận ra giá trị của con người và thắp sáng trái tim hắn. Tuy nhiên, ngay khi vừa mở ra cơ hội trở lại làm người, Chí lại bị đóng cửa bởi định kiến xã hội. Chí rơi vào bi kịch tinh thần, uống rượu để quên đau khổ, rồi kết án Bá Kiến và tự sát. Qua hình tượng Chí Phèo, Nam Cao đã đưa ra một vấn đề xã hội quan trọng về số phận người nông dân trước CMT8.
Bi kịch của Chí Phèo không chỉ phản ánh một thời kỳ đen tối đã qua mà còn nhắc nhở chúng ta suy ngẫm về cuộc sống hiện tại, khẳng định giá trị vĩnh cửu của tác phẩm và tầm vóc của Nam Cao.
14. Phân tích nhân vật Chí Phèo - mẫu 2
Nam Cao là một trong những cây bút vĩ đại của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trong hành trình sáng tác của mình, ông đã để lại nhiều tác phẩm quý giá. 'Chí Phèo' là một trong những truyện ngắn nổi bật nhất của Nam Cao, miêu tả số phận của những người nông dân trước Cách mạng. Tác phẩm không chỉ phản ánh tiếng nói của những người nông dân mà còn tố cáo xã hội đã tước đoạt quyền sống của con người.
Ngay từ những dòng đầu tiên, Nam Cao đã khắc họa nhân vật của mình một cách ấn tượng: 'Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng vậy, sau khi uống rượu là hắn chửi'. Tiếng chửi của Chí dường như đã trở thành thói quen. Tiếng chửi này tạo nên sự tò mò lớn cho độc giả về cuộc đời đầy cay đắng của Chí. Cuộc đời của Chí đã trải qua bao đau khổ để dẫn đến việc phải phát ra những tiếng chửi không chỉ của riêng mình?
Chí Phèo vốn là một đứa trẻ mồ côi, bị chính cha mẹ mình bỏ rơi ngay từ khi mới sinh. Hắn không được cha mẹ đón nhận, bị vứt bỏ tại một lò gạch cũ và được nhiều người nhặt về nuôi dưỡng. Đầu tiên là một người thả ống lươn, sau đó là một góa phụ, rồi đến tay bác phó cối. Cuối cùng, Chí lại trở thành đứa trẻ không nơi nương tựa khi bác phó cối qua đời. Cuộc đời của Chí phản ánh cuộc sống khó khăn của những người lao động trước cách mạng tháng Tám. Đến khi mười tám tuổi, Chí vào làm cho nhà Bá Kiến với hy vọng có được bữa cơm sống qua ngày. Chí vốn là người chân chất, mộc mạc nhưng phẩm chất tốt đẹp của hắn lại bị xã hội hiện tại phá hủy. Chí bị Bá Kiến đẩy vào tù vì tính ghen của lão khi thấy vợ mình thường xuyên sai Chí bóp chân. Giống như chị Dậu vứt đống giấy bạc vào mặt tên quan bỉ ổi, hay Lão Hạc tìm đến cái chết vì lòng tự trọng, Chí không hề khuất phục trước sự quyến rũ của bà ba. Tuy nhiên, xã hội không chấp nhận những người lương thiện. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho Bá Kiến cướp đi phẩm hạnh của Chí.
Sau bảy, tám năm, khi ra tù, Chí trở về làng Vũ Đại nhưng không còn là anh nông dân chân chất ngày xưa mà trở thành con quỷ dữ với cái 'đầu trọc lốc', 'răng cạo trắng hớn', 'trông ghê chết', cơ thể xăm đầy hình thù quái dị. Nam Cao đã miêu tả dáng vẻ Chí với từ 'ghê chết'. Tính khí lưu manh của Chí được thể hiện rõ qua các hành động của hắn, từ việc rạch mặt ăn vạ đến đốt quán khi không mua được rượu và đặc biệt là khi Chí trở thành tay sai của Bá Kiến. Chỉ với vài đồng bạc, Chí ngày càng lún sâu vào tội lỗi. Điều mới mẻ trong 'Chí Phèo' là việc Nam Cao khám phá quá trình tha hóa của những người nông dân vốn hiền lành, từ đó phơi bày bộ mặt xấu xa của xã hội hiện tại. Qua quá trình tha hóa của Chí từ người lương thiện trở thành kẻ lưu manh, Nam Cao đã chỉ ra sự tàn ác của xã hội.
Gặp gỡ Thị Nở đã thay đổi cuộc đời Chí. Thị Nở như ánh trăng dịu dàng trong cuộc đời Chí. Sự quan tâm và tình thương của Thị đã đánh thức trong Chí khát vọng trở lại làm người lương thiện. Buổi sáng hôm đó, lần đầu tiên Chí nghe thấy âm thanh trong trẻo của cuộc sống hàng ngày, từ tiếng chim hót đến tiếng hỏi thăm của các bà, các cô. Chí nhớ về ước mơ có một gia đình nhỏ, nuôi gà, trồng cây và sống hạnh phúc. Thị Nở đã khiến Chí, một người chỉ sống qua ngày, suy nghĩ về tương lai và hy vọng vào một gia đình hạnh phúc. Chí khóc vì bát cháo hành của Thị, làm cho Thị nghĩ rằng 'có lúc hắn hiền như đất'. Chí ngỏ ý muốn Thị về sống cùng mình, và nhờ có Thị, Chí khao khát trở về cuộc sống lương thiện và cùng Thị xây dựng hạnh phúc.
Đây là những trang viết làm bừng sáng cuộc đời Chí. Từng suy nghĩ, hành động, lời nói của Chí đều khiến người đọc cảm động. Mong ước giản dị của Chí, đến từ một người đàn bà bị xã hội xa lánh, khiến độc giả trân trọng hạnh phúc hiện tại hơn. Dù tưởng rằng cuộc đời Chí sẽ có bước ngoặt khác, nhưng bi kịch vẫn chưa dừng lại. Chí bị Thị từ chối vì bà cô của Thị không chấp nhận hắn. Cái nhìn của bà cô đối với Chí cũng phản ánh cái nhìn của xã hội phong kiến. Không ai nhận ra sự thay đổi của Chí, không ai chấp nhận hắn. Chí khóc lần thứ hai, trở lại với những tháng ngày bi kịch. Chí quay lại với rượu và chửi rủa. Cuộc đời hắn lại rơi vào bế tắc. Chí đến tìm Bá Kiến trong trạng thái nửa tỉnh nửa say, vừa chửi rủa vừa đòi 'làm người lương thiện'. Cuối cùng, Chí đã nhận ra sự tuyệt vọng của cuộc đời mình và tự kết liễu cuộc sống. Câu hỏi 'Ai cho tôi làm người lương thiện?' không có lời đáp, và cái chết của Chí trở thành bản tố cáo rõ nhất cho xã hội thối nát lúc bấy giờ. Chí chọn cái chết như một cách giải thoát cuối cùng trong xã hội đó, đồng thời là niềm tin của Nam Cao dành cho nhân vật và những người khó khăn. Nam Cao đã chỉ ra nguyên nhân khiến Chí rơi vào con đường tha hóa, phần nào do xã hội và phần nào do sự từ chối của những người cùng cảnh ngộ.
'Chí Phèo' kết thúc nhưng hình tượng nhân vật Chí Phèo vẫn sống mãi trong lòng độc giả, tạo nên một màu sắc đặc biệt trong kho tàng truyện về người nông dân.
15. Bài viết phân tích hình tượng nhân vật Chí Phèo - mẫu số 3
Trước Cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân luôn là chủ đề hấp dẫn được các nhà văn khai thác. Trong khi Ngô Tất Tố phát hiện vẻ đẹp và sức sống tiềm tàng của người nông dân, và Vũ Trọng Phụng chỉ chú trọng đến những khía cạnh tiêu cực của họ, thì Nam Cao, dù đến sau, đã khám phá được một mặt khác: sự lương thiện và bi kịch của sự tha hóa. Nhân vật Chí Phèo là hình mẫu điển hình mà Nam Cao xây dựng để miêu tả người nông dân, đồng thời cũng là nhân vật để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả qua các thế hệ.
Ngay từ đầu tác phẩm, Nam Cao đã gây ấn tượng mạnh mẽ với tiếng chửi của Chí Phèo. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi cả làng Vũ Đại, nhưng không ai đáp lại, hắn còn chửi đến “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn, đẻ ra cái thằng Chí Phèo”. Tại sao tiếng chửi lại đau đớn, uất ức đến vậy? Ngược lại quá khứ, Nam Cao đã phác họa số phận đau khổ của Chí Phèo, từ đứa trẻ mồ côi bị mẹ bỏ rơi ở lò gạch cũ, may mắn được một ông lão nhặt về. Chí Phèo bị trao tay qua nhiều người, từ bà góa mù đến bác phó cối, và khi bác phó cối qua đời, Chí lớn lên dưới sự chăm sóc của xóm làng. Dù sống trong thiếu thốn tình yêu thương, Chí vẫn giữ được phẩm hạnh. Chí làm việc cho Bá Kiến để nuôi sống bản thân, yêu lao động, và mơ ước về một cuộc sống giản dị: lập gia đình, làm ruộng. Chí còn có lòng tự trọng, cảm thấy xấu hổ hơn là thích khi bóp chân cho bà ba. Ai có thể ngờ rằng một người lương thiện như Chí lại bị tha hóa, trở thành quỷ dữ của làng Vũ Đại.
Sự tha hóa của Chí Phèo có nguyên nhân trực tiếp từ Bá Kiến. Sự ghen tỵ của Bá Kiến đã đẩy Chí vào nhà tù thực dân, nơi tàn bạo và tra tấn đã biến Chí thành kẻ mất hết nhân tính. Khi ra tù, Chí trở thành một kẻ đáng sợ, với hình dáng ghê rợn. Người đọc vừa ngỡ ngàng vừa đau xót, tự hỏi nhà tù thực dân có sức tàn phá nhân tính con người đến mức nào? Bi kịch chồng chất, Chí trở về bị Bá Kiến dụ dỗ, làm tay sai, đòi nợ và chém giết thuê. Cuộc đời của Chí có vẻ đã kết thúc, từ đây cho đến lúc chết, Chí chỉ là tay sai của Bá Kiến và xã hội thực dân.
Nam Cao khác biệt so với các nhà văn trước đây ở việc chỉ ra con đường tha hóa của người nông dân. Các tác phẩm trước chỉ mô tả sự bí bách và túng quẫn của họ, như “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố hay “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan. Nam Cao tiến xa hơn, khẳng định sự lương thiện vốn có của họ, đồng thời chỉ ra nguyên nhân và con đường tha hóa chính là do nhà tù thực dân và bọn cường hào ác bá, những kẻ đã biến người nông dân lương thiện thành quỷ dữ bị xã hội xa lánh.
Điều đặc sắc trong tác phẩm của Nam Cao là sự liên tục tạo ra những khúc quanh và biến cố, thúc đẩy câu chuyện phát triển. Cuộc đời Chí tưởng như sẽ mãi chìm trong bế tắc, cho đến khi gặp Thị Nở. Thị Nở xuất hiện như một làn gió mới trong cuộc đời Chí Phèo. Sáng hôm sau, Chí nằm một mình trong lều, cảm thấy yếu hơn, và đây là cơ hội để hắn cảm nhận cuộc sống xung quanh. Hắn nghe tiếng chim hót, tiếng người đi chợ, và cảm thấy nhớ về những ước mơ đơn giản của mình.
Nhìn lại hiện thực, hắn chẳng còn gì ngoài những vết sẹo, nhận ra mình đã sang bên kia của cuộc đời. Trong dòng suy nghĩ, Thị Nở xuất hiện với bát cháo hành. Lần đầu tiên trong đời, sau những năm chém giết và ăn vạ, Chí được người ta cho bát cháo hành, cảm nhận được tình yêu thương và sự chăm sóc. Đây cũng là lần đầu Chí thấy cháo hành ngon đến vậy, tự hỏi tại sao mãi đến giờ hắn mới biết đến hương vị cháo hành. Câu hỏi đó khiến ta không khỏi thương cảm cho số phận của Chí. Hắn cầm bát cháo với đôi mắt hiền lành, cảm động, ướt lệ vì biết ơn. Những ngày sống cùng Thị Nở khiến Chí khao khát cuộc sống khác, mong mỏi hòa nhập với mọi người, khát khao làm người lương thiện. Năm ngày đó như ánh sáng rực rỡ trong cuộc đời u tối của Chí Phèo. Chưa bao giờ người ta thấy một kẻ chuyên chém giết lại hiền lành đến vậy, hắn cố uống ít rượu để tận hưởng hạnh phúc và say trong tình yêu. Lần đầu tiên sau khi ra tù, Chí Phèo tìm lại được mục đích và lý tưởng sống, những ước mơ giản dị mà ai cũng trân trọng.
Nhưng cuộc đời của Chí Phèo vẫn chưa thoát khỏi bi kịch. Thị Nở, từ người cứu vớt trở thành người chối bỏ quyền làm người và hạnh phúc của Chí, chỉ vì bà cô không chấp nhận kẻ chỉ biết chém giết. Bà cô đại diện cho những hủ tục xã hội đẩy Chí vào tuyệt vọng. Chí uống rượu, nhưng càng uống lại càng tỉnh, nhận ra số phận nghiệt ngã. Hắn định tìm đến nhà Thị Nở để giết cả nhà, nhưng lại hướng về Bá Kiến. Chí Phèo kêu gọi lương thiện, nhưng hiểu rằng không thể quay lại. Hắn rút dao giết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình. Cái chết của Chí Phèo là kết quả tất yếu nhưng vẫn khiến ta thương xót và đồng cảm.
Qua nhân vật Chí Phèo, Nam Cao để lại ấn tượng sâu sắc về một người nông dân lương thiện nhưng bị đẩy đến bước đường cùng phải tìm đến cái chết để khôi phục danh dự. Tác giả cũng lên án xã hội thực dân nửa phong kiến tàn ác, đồng thời thể hiện niềm tin vào bản chất lương thiện của người nông dân.