1. Võ Thị Sáu
Võ Thị Sáu sinh năm 1933, là con ông Võ Văn Hợi và bà Nguyễn Thị Đậu. Bia mộ ghi quê cô tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Một số tài liệu khác cho rằng quê cô tại xã Phước Thọ hoặc xã Long Mỹ, thuộc huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Năm 1946, cô theo anh trai là Võ Văn Me vào khu kháng chiến, trở thành liên lạc viên của Đội Công an xung phong Đất Đỏ. Năm 1947, khi mới 14 tuổi, cô chính thức gia nhập Đội Công an xung phong Đất Đỏ. Từ đó, cô tham gia nhiều trận đánh bằng lựu đạn, ám sát sĩ quan Pháp và Việt gian cộng tác với quân Pháp, nổi bật là trận đánh bằng lựu đạn tại lễ kỷ niệm Quốc khánh Pháp ngày 14 tháng 7 năm 1949 tại Đất Đỏ.
Tháng 12 năm 1949, trong một chuyến công tác, cô bị quân Pháp bắt. Một số tài liệu khác cho rằng cô bị bắt vào tháng 2 năm 1950, sau khi cô và đồng đội dùng lựu đạn tấn công hương chức người Việt cộng tác với quân Pháp tại chợ Đất Đỏ. Sau khi bị bắt, cô bị thẩm vấn và giam giữ tại nhà tù Đất Đỏ, khám đường Bà Rịa và khám Chí Hòa. Tháng 4 năm 1950, tòa án binh Pháp xét xử cô với tội danh giết một sĩ quan Pháp và 23 người Việt cộng tác với Pháp.
Tại phiên tòa, Võ Thị Sáu thể hiện sự dũng cảm bằng những tuyên bố mạnh mẽ. Cô tuyên bố: 'Yêu nước chống thực dân xâm lược không phải là tội'. Khi quan tòa tuyên án tử hình và tịch thu toàn bộ tài sản, cô lớn tiếng thách thức: 'Ta còn mấy thùng rác ở khám Chí Hòa, tụi bây vô mà tịch thu!'. Cô hô vang: 'Đả đảo thực dân Pháp! Kháng chiến nhất định thắng lợi!'
Dù chưa tròn 18 tuổi, tòa án binh Pháp vẫn tuyên án tử hình. Bản án gây chấn động dư luận, dẫn đến phản đối mạnh mẽ cả tại Việt Nam và Pháp. Vì vậy, chính quyền quân sự Pháp không thể công khai thi hành án mà chuyển cô ra Côn Đảo để bí mật thi hành khi cô đã đủ 18 tuổi.
Ngày 21 tháng 1 năm 1952, cô bị đưa ra Côn Đảo và giam trong Sở Cò. Rạng sáng ngày 23 tháng 1 năm 1952, cô bị đưa đến văn phòng giám thị trưởng để làm lễ rửa tội. Đến 7 giờ sáng, cô bị đưa đến sân Banh III phụ và bị xử bắn tại đây. Thi hài cô được chôn tại Hàng Dương. Trong 'Sổ giám sát tử vong 1947–1954' tại Côn Đảo, có dòng chữ ghi bằng tiếng Pháp: 'Le 23 Janvier 1952: 195 G.267 Võ Thị Sáu dite CAM mort 23/1/1952 7h P.Condor Par balles...'.
2. Trần Văn Ơn
Trần Văn Ơn sinh năm 1931, ở xã Phước Thạnh, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Cha là ông Trần Văn Nghĩa, công chức, mẹ là bà Huỳnh Thị Tữu. Thời nhỏ, anh học tiểu học tại Mỹ Tho, sau đó cùng gia đình chuyển đến Sài Gòn, sống tại số 322/10, đường Verolun. Hầu hết anh chị em của anh đều tham gia cách mạng, trong đó có chị Trần Thị Lễ, liệt sĩ mất năm 1948.
Tháng 8/1945, anh thi đậu vào lớp năm thứ nhất, bậc cao đẳng tiểu học tại Trường Pétrus Ký. Năm học 1948-1949, anh học xong năm thứ ba cao tiểu, thi vượt lớp đỗ bằng đệ nhất cấp Pháp (Brevet du 1er cycle). Đến năm học 1949-1950, khi lên lớp năm thứ tư cao tiểu, Trần Văn Ơn được đặc cách lên lớp Ban tú tài (lớp seconde, tương đương lớp 10 hiện nay) của trường vì đã có bằng đệ nhất cấp. Trần Văn Ơn là học sinh chăm ngoan, hiếu nghĩa với cha mẹ, thầy cô, tích cực hoạt động xã hội.
Từ năm 1947, anh tham gia phong trào học sinh yêu nước của trường, gia nhập Hội học sinh sinh viên Việt Nam - Nam Bộ. Anh là hội viên mật của Đoàn học sinh kháng chiến nội thành, đảm nhận nhiệm vụ tuyên truyền, vận động học sinh tham gia các hoạt động chống Pháp. Anh là trụ cột phong trào học sinh yêu nước của Trường Pétrus Ký.
Trước ngày kỉ niệm 9 năm khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940 - 23/11/1949), chính quyền Pháp bắt cóc một số học sinh của trường Pétrus Ký, gây ra cuộc bãi khóa của học sinh 10 trường ở Sài Gòn ngày 23/11/1949. Lúc này, Trần Văn Ơn đang chuẩn bị thi tú tài nhưng vẫn tích cực tham gia bãi khóa, dẫn đầu nhóm học sinh Trường Pétrus Ký đi biểu tình.
Ngày 9/1/1950, tại Sài Gòn nổ ra cuộc biểu tình lớn của hơn 6000 học sinh-sinh viên và giáo viên, yêu cầu thả ngay những học sinh, sinh viên bị bắt. Lúc 13 giờ, chính phủ Trần Văn Hữu huy động cảnh sát đàn áp biểu tình, dùng vòi rồng và dùi cui đánh đập tàn nhẫn. Cuộc đàn áp khiến 150 người bị bắt, 30 người bị thương. Không lùi bước, Trần Văn Ơn cùng bạn bè tiến lên tố cáo tội ác, che chở cho các em nhỏ. Theo trang tỉnh Bến Tre, khi khiêng nữ sinh Tạ Thị Thâu bị cảnh sát đánh ngất, Trần Văn Ơn trúng đạn bụng. Theo Lê Trung Nghĩa trên Tuổi Trẻ, anh bị bắn khi đỡ học sinh trèo qua đống củi. Anh được đưa vào Bệnh viện Chợ Rẫy, nhưng do vết thương quá nặng, qua đời lúc 15 giờ 30 phút cùng ngày, chưa đầy 19 tuổi.
3. Lý Tự Trọng
Lý Tự Trọng (20/10/1914 - 20/11/1931) tên khai sinh là Lê Hữu Trọng, xuất thân từ làng Việt Xuyên, xã Thạch Minh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Gia đình anh là cơ sở cách mạng, nơi đào tạo cán bộ. Năm 1929, Lý Tự Trọng thành lập Đoàn thanh niên cộng sản trong nước.
Năm 1931, trong một cuộc họp kêu gọi đấu tranh chống Pháp bị phát hiện, Lý Tự Trọng bắn chết tên thanh tra mật thám để cứu đồng đội và bị bắt. Bị tra tấn dã man và kết án tử hình, anh hy sinh ở tuổi 17, để lại câu nói nổi tiếng: 'Tôi chưa đến tuổi thành niên thật, nhưng tôi đủ trí khôn để hiểu rằng con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng.' Cuộc đời và sự nghiệp của anh là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ Việt Nam noi theo.
Nhà thờ Lý Tự Trọng được xây dựng trên nền nhà tổ tiên của dòng họ Lê tại xã Thạch Minh, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Lý Tự Trọng được Ban Bí thư Trung ương Đoàn TNCS Hồ Chí Minh công nhận là Đoàn viên đầu tiên với thẻ Đoàn viên danh dự số 1. Tên anh được đặt cho một giải thưởng của Trung ương Đoàn và nhiều trường học, con đường ở Việt Nam.
4. Nguyễn Văn Cừ
Nguyễn Văn Cừ (09/07/1912 - 28/08/1941) sinh ra trong gia đình Nho giáo tại xã Phù Khê, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm 1927, ông tham gia Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội. Tháng 6/1929, ông gia nhập chi bộ Đông Dương Cộng sản Đảng đầu tiên tại Hà Nội.
Năm 1930, ông được cử làm Bí thư đặc khu Hồng Gai – Uông Bí. Sau đó bị Pháp bắt, kết án khổ sai và đày đi Côn Đảo. Năm 1936, ông được trả tự do, hoạt động bí mật ở Hà Nội, khôi phục cơ sở Đảng và phong trào đấu tranh. Tháng 3/1937, ông lập lại Xứ ủy Bắc Kỳ, trở thành Ủy viên Thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ. Tháng 9/1937, ông vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tại hội nghị Hóc Môn.
Năm 1938, ông được bầu làm Tổng Bí thư khi mới 26 tuổi. Tháng 6/1940, ông bị bắt tại Sài Gòn. Sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ 1940, ông bị kết án tử hình vì soạn thảo 'Nghị quyết thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương' và 'chủ trương bạo động'. Ngày 28/08/1941, bản án được thi hành cùng với Hà Huy Tập, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Phan Đăng Lưu... tại trường bắn Hóc Môn.
5. Nguyễn Văn Trỗi
Nguyễn Văn Trỗi (01/02/1940 - 15/10/1964) là con thứ ba trong một gia đình nghèo tại làng Thanh Quýt, xã Điện Thắng, huyện Điện Bàn, Quảng Nam, Việt Nam. Sau Hiệp ước Geneve, gia đình Nguyễn Văn Trỗi vào Sài Gòn sinh sống. Nguyễn Văn Trỗi là người đã thực hiện một cuộc tấn công bom không thành công nhằm vào phái đoàn quân sự cao cấp do Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara và đại sứ tương lai Henry Cabot Lodge, Jr. dẫn đầu, khi họ đến thăm Việt Nam Cộng hòa vào tháng 5/1963 để hoạch định chiến lược chiến tranh ở Việt Nam.
Nguyễn Văn Trỗi bị bắt giam và kết án tử hình bởi chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Sau sự kiện này, quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam tôn vinh anh là một người chiến sỹ anh hùng trong Chiến tranh Việt Nam. Câu nói của người anh hùng Nguyễn Văn Trỗi: “Còn giặc Mĩ thì không có hạnh phúc” đã gây xúc động mạnh mẽ cho giới trẻ và nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới.
Sau khi bị xử bắn, thi hài Nguyễn Văn Trỗi được chôn cất tại nghĩa trang Văn Giáp ở Giồng Ông Tố (nay thuộc phường Bình Trưng Đông, Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh). Ngày 15/4/2018, phần mộ của anh được chuyển từ nghĩa trang Văn Giáp (quận 2) về khu vực các phần mộ tiêu biểu tại Nghĩa trang liệt sĩ TP Hồ Chí Minh (quận 9) theo nguyện vọng của gia đình.
6. Vừ A Dính
Vừ A Dính (1934-1949), là con một gia đình người dân tộc H'mông tại xã Pú Nhung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên).[1], miền bắc việt Nam. Vừ A Dính là con thứ ba của ông Vừ Chống Lầu (sinh năm 1899) và bà Sùng Thị Plây (sinh năm 1901).
Gia đình Vừ A Dính là cơ sở cách mạng của Việt Minh tại huyện Tuần Giáo.Năm 13 tuổi, Vừ A Dính làm nhiệm vụ canh gác, liên lạc, tiếp tế gạo, muối cho nhân dân bị thực dân Pháp bao vây... Đến năm 1949 anh vừa đủ điều kiện gia nhập bộ đội Việt Minh. Trong 1 lần liên lạc, quân Lê dương Pháp vây bắt được Vừ A Dính và yêu cầu anh chỉ điểm nơi ở của cán bộ Việt Minh.
Vừ A Dính chống lại và bị tra tấn, nhưng Pháp và Quốc gia Việt Nam không khai thác được tin tức gì. Vào chiều tối ngày 15-6-1949, quân Pháp đã bắn và treo anh lên cây đào cổ thụ ở Khe Trúc gần đồn Bản Chăn. Anh hy sinh khi chưa tròn 15 tuổi. Vừ A Dính liệt sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kháng chiến chống Pháp, và là một nhân vật trong nhiều tài liệu, sách giáo khoa của Việt Nam.
7. Cù Chính Lan
Cù Chính Lan (1930 - 1951) sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo tại làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An. Cha anh là ông Cù Khắc Nhượng, mẹ là bà Hồ Thị Hạ. Anh là con thứ ba và là con út. Mẹ mất khi anh mới 4 tuổi.
Sau đó cha anh tục huyền với bà Hồ Thị Hoe và sinh hạ tiếp 4 người con nữa. Gia đình nghèo, từ nhỏ anh phải lao động vất vả để giúp đỡ sinh kế cho gia đình. Thuở nhỏ, anh còn có tên là 'cu Nâu'. Với lập trường ủng hộ dân nghèo, Việt Minh đã nhận được sự ủng hộ của nhiều người dân nghèo Việt Nam thời bấy giờ, trong đó có cả Cù Chính Lan.
Anh tham gia cướp chính quyền và tham gia đội du kích xã của Việt Minh năm 1945. Anh là một trong 7 cá nhân đầu tiên được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân của Việt Nam. Ngày 13 tháng 12 năm 1951, trong trận tấn công cứ điểm Giang Mỗ, anh đã một mình đuổi xe tăng Pháp, nhảy lên thành xe, ném lựu đạn vào buồng lái, lựu đạn nổ diệt hết lính tăng trong xe, chiếc xe dừng lại tại chỗ, tạo điều kiện cho đồng đội hoàn thành nhiệm vụ. Do thành tích này, anh được tuyên dương trước đại hội chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc.
8. Tô Vĩnh Diện
Tô Vĩnh Diện (1924 - 1954) là một Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân của Việt Nam. Anh hùng Tô Vĩnh Diện sinh ra ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống (nay là huyện Triệu Sơn), tỉnh Thanh Hóa. Anh sinh trưởng trong một gia đình nghèo, lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ, phải chịu bao cảnh áp bức bất công.
Năm 1946, anh tham gia dân quân ở địa phương. Năm 1949, anh xung phong vào bộ đội. Tháng 5 năm 1953, Quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị đánh lớn. Tô Vĩnh Diện được điều về làm Tiểu đội trưởng pháo cao xạ, thuộc Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367. Trong quá trình hành quân cơ động trên chặng đường hơn 1000 km tới vị trí tập kết để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, anh luôn luôn gương mẫu, đảm nhiệm những công việc khó khăn nặng nề nhất. Khi bộ đội ta kéo pháo qua những chặng đường khó khăn nguy hiểm, anh xung phong giữ càng lái để bảo đảm an toàn cho khẩu pháo.
Anh nổi tiếng với giai thoại hy sinh thân mình để cứu khẩu pháo không bị lăn xuống vực trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Ngày 01/02/1954, anh Tô Vĩnh Diện đã hi sinh tại rừng Pá Có, Điện Biên. Tấm gương hy sinh vô cùng anh dũng của đồng chí Tô Vĩnh Diện đã cổ vũ mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ.
9. Nguyễn Viết Xuân
Nguyễn Viết Xuân (20/01/1933 - 18/11/1964) là một chiến sĩ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được biết đến nhiều qua khẩu hiệu 'Nhằm thẳng quân thù! Bắn!' trong Chiến tranh Việt Nam. Ông sinh tại xóm Thượng, xã Ngũ Kiên, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên, nay thuộc tỉnh Vĩnh Phúc. Năm 7 tuổi, ông phải đi ở đợ cho gia đình địa chủ trong 10 năm. Tháng 11 năm 1952, ông gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam. Trong Chiến tranh Đông Dương, đơn vị ông chiến đấu với không quân đối phương ở Lũng Lô.
Ngày 5 tháng 1 năm 1955, ông được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Sáng ngày 18 tháng 11 nǎm 1964, trong trận chiến với Không quân Hoa Kỳ tại phía tây tỉnh Quảng Bình, ông bị máy bay bắn bị thương nát đùi phải, song ông yêu cầu phẫu thuật bỏ chân, tiếp tục được vào bờ công sự và chỉ huy chiến đấu, động viên cán binh bằng khẩu lệnh 'Nhằm thẳng quân thù! Bắn!'. Trong đời binh nghiệp, ông từng làm trinh sát thuộc C3 Đoàn 99, kế đó là Tiểu đội trưởng trinh sát, Trung đội trưởng pháo cao xạ, rồi Chính trị viên phó đại đội pháo cao xạ.
Khi tử trận, ông mang quân hàm Thiếu úy, Chính trị viên Đại đội 3, Tiểu đoàn 14 pháo cao xạ, Sư đoàn 325, Quân khu 4. Hiện hài cốt của ông được an táng tại nghĩa trang xã Ngũ Kiên.
10. Kim Đồng
Kim Đồng (1929 – 15 tháng 2 năm 1943) là bí danh của Nông Văn Dèn (một số sách báo ghi nhầm thành Nông Văn Dền), một thiếu niên người dân tộc Nùng, ở thôn Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Anh là người đội trưởng đầu tiên của tổ chức Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh. Đội TNTP HCM được thành lập ngày 15 tháng 5 năm 1941. Bí danh của năm đội viên đầu tiên là: Kim Đồng, Cao Sơn, Thanh Minh, Thanh Thủy, Thủy Tiên.
Kim Đồng đã cùng đồng đội làm nhiệm vụ giao liên, đưa đón Việt Minh và chuyển thư từ. Trong một lần đi liên lạc, khi cán bộ đang có cuộc họp, anh phát hiện có quân Pháp đang tới nơi cư trú của cán bộ, Kim Đồng đã đánh lạc hướng họ để các bạn của mình đưa bộ đội về căn cứ được an toàn. Kim Đồng chạy qua suối, quân Pháp theo không kịp liền nổ súng vào anh. Kim Đồng ngã xuống ngay bên bờ suối Lê Nin (Cao Bằng) ngày 15 tháng 2 năm 1943, khi vừa tròn 14 tuổi.
Tháng 7 năm 1997, Kim Đồng được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.[2]
11. Bế Văn Đàn
Bế Văn Đàn (1931 - 1953), là người dân tộc Tày, quê ở xã Quang Vinh (nay là xã Triệu Ẩu), huyện Phục Hòa, tỉnh Cao Bằng. Xuất thân trong một gia đình nghèo có truyền thống cách mạng, cha làm thợ mỏ, mẹ mất sớm. Lớn lên ông tham gia hoạt động du kích.
Tháng 1 năm 1948 ông xung phong vào bộ đội giữa lúc cuộc chiến tranh Đông Dương đang quyết liệt. Ông tham gia nhiều chiến dịch, luôn nêu cao tinh thần dũng cảm, tích cực vượt qua mọi khó khăn ác liệt, kiên quyết chấp hành mọi chỉ thị mệnh lệnh nghiêm túc, chính xác kịp thời, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Bế Văn Đàn nổi tiếng với giai thoại lấy thân mình làm giá súng. Trong lúc lấy thân mình làm giá súng, đồng chí Bế Văn Đàn bị hai vết thương nữa và đã anh dũng hy sinh, hai tay vẫn còn ghì chặt súng trên vai mình. Tấm gương hy sinh dũng cảm của đồng chí đã cổ vũ cán bộ, chiến sĩ trên toàn mặt trận hăng hái thi đua giết giặc lập công, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Bế Văn Đàn là một người anh hùng liệt sĩ cùng hàng ngàn các anh hùng liệt sĩ đã ngã xuống lúc tuổi đôi mươi, góp phần làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ ''nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng''
12. Nguyễn Thái Bình
Nguyễn Thái Bình (1948 - 1972) sinh ra tại Trường Bình, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An, là con thứ hai trong 9 người con của bà Lê Thị Anh và ông Nguyễn Văn Hai, Nguyễn Thái Bình là một sinh viên phản chiến người Việt du học tại Mỹ. Trong chuyến bay về nước, sau khi khống chế một chiếc máy bay để thể hiện sự phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam. Anh bị một viên cảnh sát Mỹ bắn chết tại sân bay Tân Sơn Nhất. Sau cái chết, Nguyễn Thái Bình trở thành một biểu tượng cho phong trào phản chiến của sinh viên miền Nam Việt Nam vào thập niên 1970.
Ngày 4-7-1972, hay tin Nguyễn Thái Bình bị sát hại, các bạn học của anh đã tưởng niệm anh tại Đại học Washington. Một số tổ chức sinh viên Việt kiều cũng tổ chức các cuộc tưởng niệm anh. Hội sinh viên Việt Nam tại Mỹ đã họp báo tại San Francisco công bố hai lá thư ngỏ của anh gửi cho Tổng thống Mỹ Nixon và gửi cho nhân dân yêu chuộng hòa bình công lý trên thế giới. Dưới áp lực của những người yêu chuộng hòa bình, chính phủ Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã phải trả tự do cho gia đình anh những ngày sau đó.
Tại Mỹ, 20 năm sau ngày Nguyễn Thái Bình bị bắn chết, các bạn học của anh tại Đại học Washington vẫn họp mặt và tổ chức một buổi lễ tưởng niệm anh. Hiện nay tại Việt Nam, Nguyễn Thái Bình được truyền thông nhà nước coi như một hình tượng đấu tranh chống Mỹ. Có một số trường được đặt tên theo Nguyễn Thái Bình và một quỹ học bổng dành cho học sinh nghèo học giỏi ở Việt Nam cũng được đặt tên theo anh. Tại thành phố Hồ Chí Minh, có một phường mang tên anh (tại Q.1) và tên anh cũng được đặt cho những con đường tại quận 1, quận Tân Bình và các trường THCS, THPT tại huyện Bình Chánh, quận Tân Bình. Tại thành phố Đồng Hới (Quảng Bình) có con đường mang tên Nguyễn Thái Bình ở phường Nam Lý (nối đường Hoàng Việt với đường Võ Thị Sáu). Tại thành phố Hạ Long tên anh được đặt cho một phố tại phường Hồng Hà. Ngôi trường anh theo học thời tiểu học tại Cần Giuộc (Long An) nay mang tên anh - Trường Tiểu học Nguyễn Thái Bình. Tại Cà Mau, có một trường trung học cơ sở mang tên anh - Trường Trung học cơ sở Nguyễn Thái Bình.
Ngày 30 tháng 4 năm 2010, anh được Nhà nước Việt Nam truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.