1. Cá voi xanh
Cá voi xanh được biết đến với tên khoa học là Balaenoptera musculus , là loài động vật lớn nhất từng tồn tại trên Trái Đất. Chúng có chiều dài lên đến 30 mét và trọng lượng gần 200 tấn. Cá voi xanh thường xuất hiện ở Đại Tây Dương, Ấn Độ và Thái Bình Dương.
Thân hình của chúng dài và thon, thường có màu xanh-xám ở mặt lưng và sáng màu hơn ở mặt bụng. Có ít nhất 3 phân loại của cá voi xanh: B. m. musculus sống ở vùng biển bắc Đại Tây Dương và bắc Thái Bình Dương, B. m. intermedia sống ở Nam Băng Dương và B. m. brevicauda (cá voi xanh lùn) sống ở Ấn Độ Dương và nam Thái Bình Dương. Chúng ăn chủ yếu là sinh vật phù du và giáp xác nhỏ, có khả năng nghe được sóng âm thanh ở khoảng cách 1000 dặm và sử dụng âm thanh để giao tiếp với nhau. Mỗi ngày, chúng tiêu thụ khoảng 40 triệu nhuyễn thể và có tuổi thọ lên đến 80 năm. Trước thế kỉ 20, cá voi xanh sống sống dồn dập ở hầu hết các đại dương trên thế giới. Nhưng trong hơn 100 năm qua, chúng đã bị săn bắn đến gần như tuyệt chủng, cho đến khi được bảo vệ bởi luật pháp quốc tế vào năm 1966.


2. Voi Châu Phi
Voi châu Phi thuộc một chi trong họ Elephantidae, là họ của các loài voi. Mặc dù được cho là Georges Cuvier đặt tên năm 1825, nhưng Cuvier gọi nó là Loxodonte. Một tác giả vô danh đã Latinh hóa tên gọi thành Loxodonta và ICZN công nhận tên gọi này là tên gọi chuẩn.
Voi châu Phi là động vật sống trên mặt đất lớn nhất thế giới, voi đực có chiều dài 6 – 7,5 m, chiều cao từ vai là 3,3 m, và nặng 6 tấn. Còn voi cái khá nhỏ, khoảng 5,4 – 6,9 m chiều dài, 2,7 m chiều cao từ vai, và nặng 3 tấn. Voi châu Phi trưởng thành thường không có kẻ thù tự nhiên do kích thước lớn, nhưng voi con có thể bị sư tử và cá sấu tấn công, đôi khi còn bị báo và linh cẩu tấn công. Chúng là loài vật có vú thông minh nhất thế giới, có khả năng nhận biết hình ảnh phản chiếu, dạy con và thậm chí đưa tang đồng loại.


3. Cá nhám voi - Cá mập voi
Cá nhám voi hay cá mập voi (danh pháp hai phần: Rhincodon typus) là một thành viên đặc biệt trong phân lớp Elasmobranchii (cá mập, cá đuối) của lớp cá sụn (Chondrichthyes). Nó là loài cá mập lớn nhất và cũng là loài cá hiện còn sống có kích thước lớn nhất thế giới.
Cá nhám voi sống trong các đại dương thuộc vùng nhiệt đới và ôn đới ấm của thế giới. Được coi là sống ngoài đại dương nhưng chúng cũng tụ tập lại theo mùa ở một vài khu vực ven bờ như dải đá ngầm Ningaloo ở khu vực miền tây Úc cũng như Pemba và Zanzibar ở khu vực ven bờ đại dương của Đông Phi. Khu vực phân bố của chúng giới hạn trong khoảng vĩ độ ±30° tính từ các khu vực này. Cá nhám voi chủ yếu sống cô độc và ít khi thấy chúng bơi thành đàn. Người ta tin rằng chúng sống di trú, nhưng các chuyên gia vẫn không rõ chúng có thể di cư xa bao nhiêu (có thể là di trú xuyên đại dương).
Chiều dài của cá nhám voi khoảng từ 9 - 11 m, nặng từ 10 - 15 tấn. Chiều dài tối đa được kiểm chứng là 12,45 m, và khối lượng tối đa là 21,5 tấn. Những con số không chính thức có nơi ghi là 18 mét (59 ft). Với chiếc hàm mạnh mẽ, chúng có thể tiêu thụ số lượng lớn các thực phẩm dễ dàng tại cùng một thời điểm. Thức ăn của loài này là cua, các loài giáp xác hay động vật có xương sống.


4. Tê giác trắng
Tê giác trắng hay tê giác môi vuông (Ceratotherium simum) là một trong năm loài tê giác còn tồn tại và là một trong số rất ít loài động vật ăn cỏ lớn còn tồn tại. Tê giác trắng hay tê giác môi vuông là loài có nguồn gốc ở Đông Bắc và miền Nam Châu Phi với trọng lượng lên tới 3538kg. Mặc dù là những loài động vật lớn nhưng tê giác có xu hướng sống thành bầy đàn từ 1 đến 7 con.
Trên mõm của chúng có hai sừng với cấu tạo từ các sợi keratin. Nó cũng có một bướu rõ nét ở phía sau cổ của mình để giữ được cái đầu to lớn. Mỗi chân của tê giác trắng có ba ngón. Chúng có khả năng đi 4 đến 5 ngày mà không cần nước uống. Tê giác trắng rất ít sinh sản khi bị giam cầm; kể từ năm 1995, chỉ có một con tê giác cái được sinh ra ở Dvur Králové.
Tê giác trắng phương Bắc được xem là loài có nguy cơ hoặc bị tuyệt chủng trong hoang dã, trước đây tìm thấy ở một số quốc gia Đông Phi và Trung Phi phía nam sa mạc Sahara, phân loài này là một loài động vật sống ở đồng cỏ và rừng hoang mạc. Trên thế giới, hiện nay chỉ còn tồn tại có 3 cá thể được ghi nhận, mà đã được trả lại cho khu vực bảo tồn ở Kenya. Trong thời gian gần trước đó, số lượng tê giác trắng phương Bắc trong tự nhiên chỉ có trong Vườn quốc gia Garamba ở Cộng hòa Dân chủ Congo (trước đây là Zaire) và có bước đầu phục hồi từ mức thấp trong những năm 1970 đến khoảng 40 cá thể.


5. Voi Ấn Độ
Thêm một loài voi có trọng lượng lớn nữa đó là Voi Ấn Độ là một trong 3 phân loài được ghi nhận thuộc voi châu Á và là loài bản địa Châu Á. Từ năm 1986, Elephas maximus đã được liệt kê trong danh sách các loài nguy cấp bởi Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế khi số lượng cá thể sụt giảm ít nhất 50%.
Hiện nay, Voi Ấn Độ là loài động vật có vú lớn nhất đất trên Trái Đất của chúng ta với trọng lượng lên đến gần 5000 kg cùng chiều cao lên đến 3,5 m. Không giống như những con voi Châu Phi, Voi Ấn Độ có đôi tai nhỏ. Chúng thường lang thang trên những khu vực rộng lớn, đặc biệt là ở vùng đồng cỏ. Hơn nữa, chúng có thể bỏ ra 19 giờ trong một ngày chỉ để ăn. Thức ăn chủ yếu của chúng chủ yếu là cỏ, các loại trái cây và mía. Mỗi ngày, chúng có thể tiêu thụ hết 113 kg thực phẩm. Các loài voi châu Á hiện đang bị đe dọa bởi việc mất môi trường sống.


6. Hươu cao cổ
Hươu cao cổ (tên khoa học Giraffa) là một chi các động vật có vú thuộc bộ Guốc chẵn, là động vật cao nhất trên cạn và động vật nhai lại lớn nhất. Nó được phân loại trong họ Giraffidae, cùng với họ hàng gần nhất còn tồn tại của nó là hươu đùi vằn. Chi có 11 loài, bao gồm loài điển hình Giraffa camelopardalis. Trong số này, có bảy loài tiền sử đã tuyệt chủng được biết đến qua các hóa thạch, còn bốn loài hiện còn sống. Tuy Giraffa từng được coi là một loài hiện còn có chín phân loài, các nhà nghiên cứu ADN ty thể của Giraffa đã khám phá bốn loài riêng hiện còn sinh tồn. Vì thế, chi Giraffa gồm các loài Giraffa giraffa (hươu cao cổ phương nam), Giraffa tippelskirchi (hươu cao cổ Maasai), Giraffa reticulata (hươu cao cổ Somalia), và Giraffa camelopardalis (hươu cao cổ phương bắc).
Hươu cao cổ có phạm vi phân bố rải rác từ Tchad ở miền bắc đến Nam Phi ở miền nam, và từ Niger ở miền tây đến Somalia ở miền đông châu Phi. Hươu cao cổ thường sống ở xavan, đồng cỏ và rừng thưa. Nguồn thức ăn chính của chúng là lá cây keo mà chúng gặm ở độ cao mà hầu hết động vật ăn cỏ khác không thể với tới. Sư tử có thể săn hươu cao cổ, và con non là mục tiêu của báo hoa mai, linh cẩu đốm và chó hoang châu Phi. Trong các trận đánh khi cổ được dùng làm vũ khí, con đực dùng cách này củng cố hệ thống cấp bậc xã hội.
Hươu cao cổ là loài động vật móng guốc có vú cao nhất thế giới và bạn sẽ dễ dàng tìm thấy chúng tại Nam Phi. Loài hươu này có chiều cao lên đến hơn 6m và trọng lượng khoảng từ 1,6 tấn. Nhờ những đôi chân cao mạnh mẽ, hươu cao cổ có thể ăn lá từ ngọn cây cũng có thể chạy với tốc độ 50 km/giờ. Chúng dành hầu hết thời gian để ăn. Chiếc lưỡi dài đến 0,5m giúp chúng có thể gảy lá vào miệng được dễ dàng và có khả năng đi đường dài để tìm kiếm thức ăn.


7. Hà mã
Hà mã (danh pháp khoa học: Hippopotamus amphibius) là một loài động vật có vú ăn cỏ lớn sống ở châu Phi cận Sahara, và là một trong hai loài còn tồn tại của họ Hippopotamidae (loài còn lại là hà mã lùn.) Đây là một trong những loài thú có vú trên cạn lớn nhất và là động vật guốc chẵn nặng nhất còn lại, dù thấp hơn nhiều so với loài hươu cao cổ.
Đây là loài thú sống trên mặt đất lớn thứ ba trên Trái Đất và có nguồn gốc từ Nam Phi. Trọng lượng của mỗi con hà mã có thể lên đến 401 kg và chúng dành hầu hết thời gian trong nước để làm mát cơ thể nặng nề của mình. Cỏ và trái cây rụng là những thực phẩm chính của hà mã. Mỗi ngày, một con hà mã có thể tiêu thụ hơn 36kg cỏ, đặc biệt là thời gian ban đêm. Chúng có thể đi bộ được 6 dặm để tìm kiếm lượng thức ăn đủ cho cơ thể. Với hình dạng đặc biệt của bộ răng giúp hà mã tiêu thụ được một lượng lớn cỏ trong ngày.
Hà mã là một trong những sinh vật hung hăng nhất trên thế giới và thường được xem như một trong những động vật nguy hiểm nhất ở châu Phi cũng như trên thế giới. Không một loài thú hoang dã nào ở châu Phi giết người nhiều như những con hà mã.


8. Cá sấu
Cá sấu là loài bò sát khổng lồ sống ở vùng nhiệt đới. Đây là một trong những sinh vật nguy hiểm nhất thế giới. Chiều dài trung bình của cá sấu dao động từ 1,8m đến 7,62m, với trọng lượng lên đến 1043kg. Cá sấu có khả năng sống mà không cần ăn trong nhiều tuần, sử dụng năng lượng từ cơ thể tích trữ chất béo.


9. Gaur - Bò tót châu Á
Gaur hay bò tót châu Á là một loài động vật thuộc bộ Guốc chẵn, họ Trâu bò có lông màu sẫm và kích thước lớn. Chúng sống chủ yếu ở vùng đồi của Ấn Độ và Đông Nam Á, có thể tự nhiên hoặc được con người thuần hóa. Nó còn được biết đến với các tên gọi như bò rừng Mã Lai hay bò rừng bizon Ấn Độ.
Bò tót châu Á là loài gia súc hoang dã lớn nhất có nguồn gốc từ Nam Á. Chúng có chiều dài khoảng từ 2,5 đến 3,5 m và trọng lượng lên đến 1134 kg. Những con bò tót đực có một chiếc đầu lớn cùng sừng, kích thước lớn hơn 30% so với con cái. Chúng thường sống ở những nơi xanh tốt, khu rừng hoặc phong phú về nguồn thực vật và nước. Thức ăn chủ yếu của loài này là lá cây và cỏ, dành phần lớn thời gian để ăn và có thể nhịn đói rất lâu nếu không có thực phẩm.
Trong tự nhiên, bò tót sống thành từng đàn từ 8 - 10 cá thể. Những con bò đực già thường sống đơn độc hoặc hợp với nhau thành từng nhóm nhỏ. Bò tót thích ăn lá non, mầm tre non, cỏ non mới mọc ở nương rẫy cháy. Có thai khoảng 270 ngày, đẻ mỗi năm một lứa, mỗi lứa một con. So với bò rừng, bò tót dữ hơn, nguy hiểm hơn cho người. Khi bị bắn, bò rừng phân tán chạy trốn nhưng bò tót sẵn sàng tấn công kẻ thù. Bò tót khá hung dữ, thường húc tung những chướng ngại vật và có thể húc chết người.


10. Cá voi đầu bò Bắc Thái Bình Dương
Cá voi đầu bò Bắc Thái Bình Dương có trọng lượng lên đến 60 tấn và chiều dài từ 49 đến 60 feet (15 - 18m), là một loài đang nguy cấp và cực kì quý hiếm. Trong các vùng phía Đông bắc Thái Bình Dương, số lượng cá voi đầu bò còn lại không quá 50 con, trong khi ở phía Tây chỉ còn dưới 100 con. Trước năm 1835, khi bắt đầu sự khai thác cá voi thương mại, số lượng cá voi đầu bò ở Bắc Thái Bình Dương là hơn 20.000 con. Theo Trung tâm Sinh học Đa dạng, đây là loài cá voi nguy cấp nhất trên trái đất do các hoạt động săn bắn phi pháp khiến số lượng chúng ngày càng giảm nghiêm trọng.
Do bị săn bắn gần mức tuyệt chủng, số lượng loài cá voi đầu bò Bắc Thái Bình Dương ngày càng suy giảm, các nhà khoa học đang kêu gọi cộng đồng cần hành động ngay lập tức để bảo tồn sự sống của loài vật này. Một báo cáo từ tổ chức môi trường biển Oceana cho biết trừ khi có các biện pháp bảo vệ được ban hành, cá voi đầu bò Bắc Thái Bình Dương sẽ khó có khả năng sinh sôi, theo các nhà nghiên cứu. Số lượng cá voi đầu bò chỉ còn khoảng 400 cá thể và chưa tới 25% là những con cái đủ tuổi sinh sản. Ít nhất 28 con cá voi đã chết trong 2 năm qua, giám đốc chiến dịch của Oceana - bà Whitney Webber, cho biết.


11. Gấu Kodiak
Gấu Kodiak, còn được biết đến với tên gọi gấu nâu Kodiak, gấu xám Alaska hay gấu nâu Mỹ, sống trên các đảo của quần đảo Kodiak ở tây nam Alaska. Phân loài này trong tiếng Alutiiq được gọi là Taquka-aq. Đây là phân loài lớn nhất của gấu nâu, với chiều cao trung bình của gấu đực lên đến 3m và trọng lượng khoảng 680 đến 816 kg. Gấu Kodiak cái thì nhỏ hơn khoảng 20 - 30% so với gấu đực.
So với các loài khác trong họ gấu, sự đa dạng của thực phẩm khiến cho gấu Kodiak nặng hơn nhiều so với các loài gấu khác. Chúng ăn lá để ngủ đông trong mùa xuân, khiến trọng lượng tăng khoảng 50% vào thời kỳ này. Chúng không săn bắt động vật khác và cũng không cần bảo vệ loài khác do sự cô lập trên hòn đảo này.
Gấu Kodiak có nguồn gốc từ quần đảo Kodiak. Đây là nơi duy nhất trên thế giới có gấu Kodiak sống, và cũng là nguồn gốc của tên gọi của chúng. Chế độ ăn uống của họ bao gồm nhiều loại thực phẩm địa phương, như quả mọng, rong biển, động vật không xương sống sống ở bãi biển và cá hồi.


12. Cá voi trắng
Cá voi trắng là một loài cá voi tấm sừng và là động vật lớn thứ hai trên thế giới với cân nặng 57 tấn cùng chiều 89,5 feet (27m). Nhà tự nhiên học người Mỹ Roy Chapman Andrews đã gọi nó là “Chiếc tàu của biển cả” vì cơ thể dài và mảnh mai của nó có thể “vượt qua tốc độ của chiếc tàu hơi nước nhanh nhất trên đại dương“. Hiện nay, một số bộ xương và vây cá voi được trưng bày tại các viện bảo tàng trên thế giới.
Loài cá voi trắng có thể được tìm thấy ở tất cả các đại dương, nhưng cũng giống như các loài khác, chúng hiện đang bị đe doạ nghiêm trọng về số lượng. Cá voi trắng có tính hòa đồng hơn các loài cá voi khác và thường sống trong các nhóm nhỏ từ 6 đến 10 con, nhưng khi kiếm ăn thì số lượng cá voi trong các nhóm có thể lên đến 100 con. Phạm vi phân bố cực nam của phạm vi của chúng bao gồm quần thể cô lập ở cửa sông St Lawrence sông và vịnh hẹp Saguenay, xung quanh làng Tadoussac, Quebec, ở Đại Tây Dương và Đồng bằng sông Amur, quần đảo Shantar và các vùng biển xung quanh đảo Sakhalin trong vùng biển Okhotsk.
Trong văn học của Mỹ có hư cấu về một con cá voi trắng khổng lồ Moby Dick làm kinh hoàng đoàn người đi săn cá voi.


13. Cá voi đầu bò phương Nam
Cá voi đầu bò phương Nam nặng 58 tấn, không có vây lưng nhưng bù lại chúng có cái miệng với vòm khá dài, các khuẩn lạc ximua hay giận cá voi gây các vết chai màu trắng trên đầu chúng. Tinh hoàn của loài cá voi này có lẽ là lớn nhất so với bất kỳ con vật nào vì nó nặng tới 1.100 pound (khoảng 450kg) mỗi bên.
Cá voi đầu bò phương Nam không thể vượt qua vùng nước ấm áp gần xích đạo vì lớp da cách điện ngăn cản chúng phân tán nhiệt phía bên trong cơ thể. Việc săn bắt loài cá này đã bị cấm kể từ năm 1937 nhưng các vụ săn bắt bất hợp pháp vẫn diễn ra sau đó nên hiện tại chúng đã được liệt vào danh sách các loài động vật sắp bị tuyệt chủng.


14. Cá nhà táng hay Cá voi tinh trùng
Cá nhà táng hay Cá voi tinh trùng là loài cá voi có răng và cũng là một động vật ăn thịt to lớn nhất với cân nặng khoảng 31,25 tấn. Một con trưởng thành thường có chiều dài 52 feet (16m) nhưng nó cũng có thể đạt tới 67 feet (20m) với chiếc đầu dài bằng một phần ba kích thước của cơ thể.
Nó có thể bơi sâu xuống tới 9,800 feet (3000m) để săn mồi, và điều này khiến cho nó là động vật có vú lặn sâu nhất. Nó cũng có tiếng kêu to nhất với tần số gần 230 decibel. Đặc biệt, có thể sống được hơn 60 năm với một bộ não lớn hơn bất kỳ loài động vật nào và nặng hơn gấp 5 lần so với con người. Cá voi tinh trùng được phân bố rộng rãi và được bảo vệ bởi lệnh cấm đánh bắt cá voi vì đặc tính rất dễ bị tổn thương của chúng.
Chúng là loài động vật có vú lặn sâu thứ nhì thế giới, sau cá voi mõm khoằm Cuvier. Và âm thanh lách cách của cá nhà táng cũng là loại âm thanh lớn nhất được tạo ra bởi các loài động vật. Âm thanh này được dùng để định vị vật cản, mục tiêu cũng như trong các mục đích khác. Cá nhà táng sống trong các nhóm nhỏ gọi là 'đơn vị xã hội'. Các đơn vị của cá cái và cá con sống tách biệt với cá đực trưởng thành. Cá cái hợp tác với nhau để bảo vệ con cũng như giúp nhau cho con bú. Cứ cách ba đến sáu năm thì cá nhà táng sinh con một lần và thời gian chăm con có thể kéo dài đến hơn 10 năm. Cá nhà táng có rất ít kẻ thù tự nhiên, rõ ràng có rất ít sinh vật đủ mạnh để tấn công một con cá nhà táng trưởng thành khỏe mạnh; tuy nhiên một bầy cá hổ kình có thể tiêu diệt những con cá nhà táng con. Tuổi thọ của cá nhà táng có thể lên tới hơn 70 năm.


15. Cá đầu bò Bắc Đại Tây Dương
Cá voi đầu bò Bắc Đại Tây Dương là loài cá voi thuộc họ cá voi tấm sừng có cân nặng lên đến 55 tấn nhưng chúng dễ bị tấn công vì bản năng hiền lanh và các thói quen kiếm ăn ở những khu nước cạn. Loài cá voi này hiện đang là loài cá voi nguy cấp nhất trên thế giới khi chỉ còn khoảng 400 con ở phía Tây Bắc Đại Tây Dương và có khả năng lớn rằng chúng đã tuyệt chủng ở phía Đông. Chúng có chiều dài trung bình 43 - 52 feet (13 - 16m).
Ước tính khoảng 100 con cá voi đầu bò cái Bắc Đại Tây Dương hướng về phía Nam trong mùa đông để sinh đẻ trong vùng nước Florida và Georgia, nhưng hiểu biết về địa điểm di trú của các con cá voi khác còn rất hạn chế, chủ yếu do điều kiện khảo sát khó khăn. Với số lượng ước tính khoảng 325 con cá voi còn sót lại, việc biết vị trí của chúng tại bất cứ thời điểm nào mang ý nghĩa quyết định trong việc bảo vệ chúng.
Thức ăn của chúng gồm chủ yếu là copepoda và một số động vật không xương sống như nhuyễn thể, pteropoda và ấu trùng hàu. Con trưởng thành dài trung bình 45 - 55 feet (14 - 17 m) và nặng tới 70 tấn, các mẫu vật lớn nhất đo được 60 fêt (18m) và 117 tấn. Con cái lớn hơn con đực.


16. Cá voi Sei
Cá voi Sei là thành viên của nhóm lớn nhất trong họ cá voi tấm sừng - loài cá voi lưng xám có cân nặng khá lớn khoảng 22,5 tấn với chiều dài 64 feet (19,5m), một ngày chúng có thể tiêu hóa đến 2.000 pound (90kg) thực phẩm. Đây là loài cá nhanh nhất trong số những loài cá voi (cá voi, cá heo và cá heo Đại dương) vì chúng có thể đạt tốc độ 27 hải lý/giờ.
Trong năm 2008, số lượng cá voi Sei được ghi nhận lên tới 80.000 con, bằng gần một phần ba số cá voi trước đây. Hiện tại chúng đã được bảo vệ theo tiêu chuẩn quốc tế để ngăn ngừa tình trạng săn bắt trái phép.
Nó là loại sinh vật thuộc họ cá voi lưng gù, và là loài cá voi lớn thứ ba sau cá voi xanh và cá voi vây. Nó sinh sống chủ yếu ở các đại dương và các vùng biển liền kề, ưa thích vùng biển ngoài khơi nước sâu. Chúng không ưa các vùng biển cận địa cực (gần Bắc và Nam Cực), vùng biển nhiệt đới và các vùng nước nửa kín. Cá voi Sei di cư hàng năm tới vùng biển mát cận địa cực vào mùa hè và đến các vùng biển cận nhiệt đới và ôn đới vào mùa đông.


17. Cá voi lưng gù
Cá voi lưng gù với trọng lượng 29 tấn là một loài cá thuộc họ cá voi tấm sừng khác, là một trong những loài cá voi lưng xám lớn nhất với kích thước từ 39 đến 52 feet (khoảng 12m - 16m), với phần vây ngực dài và chiếc đầu có gò lớn. Những trò nhào lộn của chúng khiến những người quan sát cảm thấy vô cùng thích thú. Những con đực thường hát một bài hát kéo dài 10-20 phút, được lặp lại trong thời gian dài. Cá voi lưng gù được tìm thấy khắp nơi trên thế giới, di chuyển 16.000 dặm (khoảng 26.00 km) mỗi năm. Vào mùa đông, chúng sống nhờ vào lượng thức ăn được dự trữ từ trước.
Mặc dù cá voi lưng gù có thể chứa vừa một người trong chiếc miệng khổng lồ dài tới 3 mét, nhưng theo Nicola Hodgins của tổ chức bảo tồn phi lợi nhuận Whale and Dolphin Conservation ở Anh, khoa học đã chứng minh rằng chúng không thể nuốt chửng con người. Cổ họng của cá voi lưng gù lớn bằng nắm tay của con người và chỉ có thể giãn rộng 38 cm để chứa bữa ăn lớn.


18. Cá voi xám
Cá voi xám thuộc họ cá voi tấm sừng, sử dụng tấm sừng hàm để lọc thức ăn từ nước thay vì sử dụng răng. Chúng có cân nặng khoảng 19,5 tấn, chiều dài chừng 49 feet (15m), và trước đây được biết đến như một loài cá của quỷ vì những hành vi khá hung dữ khi bị săn bắt. Tuổi thọ của chúng khoảng từ 50 đến 70 năm, di chuyển hàng năm giữa khu vực tìm kiếm thức ăn và vị trí sinh sản.
Trong số 2 quần thể được biết đến ở Thái Bình Dương, loài cá voi xám này đang đối mặt với nguy cơ đe dọa nghiêm trọng. Một con cá voi xám đã được phát hiện ở Israel vào năm 2010, khiến một số nhà khoa học đưa ra giả thuyết rằng loài cá voi này có thể tái cư trú đến những khu vực sinh sản có từ lâu đời. Một con cá voi xám khác cũng được phát hiện ở ngoài khơi bờ biển Namibia vào năm 2013 trong khi con đầu tiên ở Nam bán cầu.

