Câu chuyện kể rằng khi Bác Hồ đi công tác ở Việt Bắc, luôn có hai đồng chí đi cùng. Sợ Bác mệt, hai đồng chí muốn mang theo ba lô để giúp Bác. Nhưng Bác không chấp nhận. Bác nói:
- Trên đường rừng, leo núi ai cũng mệt, nếu tập trung đồ đạc cho một người mang theo thì người đó sẽ mệt hơn. Hãy chia đều cho cả ba người.
Hai đồng chí phải làm theo lời Bác, phân chia đồ đạc vào ba cái ba lô. Bác hỏi lại:
- Các chú đã chia đồ đạc đều chưa?
Hai đồng chí trả lời:
- Dạ, đã chia đều rồi ạ!
Sau đó, cả ba người cùng tiếp tục hành trình. Sau một đoạn đường, khi nghỉ, Bác đến nơi các đồng chí đang ngồi và nâng chiếc ba lô lên. Bác hỏi:
- Tại sao ba lô của hai đồng chí nặng mà của Bác lại nhẹ?
Bác nhanh chóng kiểm tra và thấy bên trong ba lô của mình chỉ có một chiếc chăn mỏng.
Bác tỏ ra không hài lòng và nói:
- Chỉ có lao động thực sự mới mang lại hạnh phúc cho con người.
Sau đó, Bác yêu cầu hai đồng chí phải chia đều đồ đạc vào ba chiếc ba lô mới được tiếp tục hành trình.
Mặc dù câu chuyện nhỏ nhưng lại chứa đựng bài học lớn. Có thể thấy, Bác là người yêu công việc. Bác luôn làm việc hết mình, từ những công việc lớn như cứu nước đến những việc nhỏ như trồng cây trong vườn. Mọi công việc mà Bác có thể tự mình thực hiện, Bác đều làm. Cách sống của Bác giúp mỗi người nhận ra giá trị của lao động, cũng như khuyến khích mọi người học tập và làm việc với ý thức tự giác hơn.
1. Khai mạc
2. Phần chính
- Mô tả lại quá trình diễn ra của sự việc theo thứ tự (thời gian, không gian…).
- Đề cập đến mối liên hệ giữa sự việc với nhân vật lịch sử, kết hợp việc kể chuyện với miêu tả.
3. Kết luận
Vào giữa mùa thu năm 1954, Bác tham dự “Hội nghị rút kinh nghiệm cải cách ruộng đất” tại Hà Bắc. Tại đây, khi nghe về việc rút bớt cán bộ để đi học lớp tiếp quản thủ đô, mọi người đều háo hức muốn tham gia, đặc biệt là những người quê ở Hà Nội. Sau nhiều năm xa cách với quê hương, mọi người đều mong muốn được cấp trên chiếu cố. Tâm trạng của các cán bộ dự hội nghị có phần chia rẽ. Ban lãnh đạo cũng thấy khó khăn trong việc điều hành.
Mặc dù đã vào thu nhưng thời tiết vẫn khá nóng, làm cho mồ hôi ướt đẫm hai bên áo nâu của Bác. Khi bắt đầu diễn thuyết, Bác bắt đầu nói về tình hình thời sự. Khi nhắc đến nhiệm vụ của toàn Đảng, Bác đột nhiên rút ra một chiếc đồng hồ từ túi áo và giơ lên. Sau đó, Bác hỏi các đồng chí về chức năng của từng bộ phận trên đồng hồ. Cuối cùng, Bác đặt câu hỏi:
- Trong chiếc đồng hồ này, bộ phận nào quan trọng nhất?
Mọi người đều im lặng, không ai trả lời:
- Trong chiếc đồng hồ, bỏ một bộ phận có được không?
- Thưa không ạ!- Các cán bộ đồng thanh đáp.
Nghe mọi người trả lời, Bác giơ cao chiếc đồng hồ lên và kết luận:
- Các bạn ạ, các bộ phận của một chiếc đồng hồ cũng giống như các cơ quan của một quốc gia, như các nhiệm vụ của cách mạng. Đã là nhiệm vụ của cách mạng thì đều quan trọng, điều cần phải thực hiện. Các bạn hãy suy nghĩ xem: Trong một chiếc đồng hồ mà kim đồng hồ đòi làm cánh cửa, máy đồng hồ lại đòi đi làm bảng hiển thị... cứ cãi nhau như vậy thì còn gọi là chiếc đồng hồ chứ?
Nghe xong, toàn bộ hội trường trở nên im lặng. Mỗi người đều có những suy nghĩ riêng về những gì Bác vừa nói.
Vào cuối năm 1954, Bác đến thăm một đơn vị pháo binh đóng ở Bạch Mai để tham gia luyện tập cho cuộc diễu binh chào mừng chiến thắng ở Điện Biên Phủ. Sau khi thăm nơi ăn ngủ của các chiến sĩ, Bác đã trò chuyện với họ. Bác lấy ra một chiếc đồng hồ từ túi và chỉ vào từng bộ phận, từng con số rồi hỏi các chiến sĩ về chức năng của từng phần. Mọi người đều trả lời đúng, nhưng chưa ai hiểu tại sao Bác nói như vậy?
Bác tiếp tục nói với vẻ vui vẻ:
- Suốt bao nhiêu năm qua, chiếc kim đồng hồ luôn hoạt động để cho ta biết thời gian, con số trên mặt vẫn giữ nguyên tại một vị trí, bộ máy vẫn hoạt động mạnh mẽ bên trong. Tất cả đều làm việc theo sự phân công đó. Nếu đổi chỗ từng phần cho nhau thì chiếc đồng hồ còn là chiếc đồng hồ không? Sau câu chuyện của Bác, mọi người đều hiểu ý Bác muốn dạy: Mọi công việc của cách mạng được giao phải được thực hiện đúng theo phân công.
Không chỉ vậy, chiếc đồng hồ quả quýt còn là biểu tượng của tình cảm quốc tế dành cho Bác, là món quà đặc biệt từ Tổ chức Quốc tế 'Cứu Thế giới', Bác luôn giữ trong lòng, từ những ngày bị giam cầm đến khi Việt Nam đoạt được độc lập.
Bác dắt hai em nhỏ nhất, đi giữa đoàn học sinh, ánh mắt rạng ngời, tràn đầy tình thương và sự quý mến. Rồi Bác cùng các em thiếu nhi thăm phòng ngủ, phòng ăn, nhà bếp, phòng tắm và sinh hoạt hàng ngày của các em.
Khi quay trở lại phòng họp, giữa sự vui vẻ của các em nhỏ, Bác ân cần hỏi:
- Các em đã chơi vui chưa?
Những lời đáp đồng thanh của các em vang lên:
– Thưa Bác, vui lắm ạ!
Sau đó, Bác hỏi tiếp:
– Các em đã no chưa?
– Dạ, chúng em đã no ạ.
Các cô giáo ở đây có trừng phạt các em không?
– Dạ, không ạ!
Cuối cùng, Bác mỉm cười, hài lòng khen ngợi:
- Điều đó rất tốt! Các em có thích ăn kẹo không? Bây giờ Bác sẽ phát kẹo cho các em nhé!
Trong niềm vui mừng, tất cả các em nhỏ cùng hò reo:
– Có ạ! Có ạ!
Sau đó, trong đám đông, một em bé giơ tay, xin phép được nói với Bác:
– Thưa Bác, vậy người ngoan sẽ được ăn kẹo, còn người không ngoan thì không được ăn kẹo ạ!
Bác đáp lại cẩn trọng:
– Các em có đồng ý với ý kiến của bạn không?
– Vâng ạ, cháu đồng ý!
Sau khi nói xong, các em nhỏ lần lượt xếp thành vòng tròn rộng. Bác nhẹ nhàng mang gói kẹo đến và phân phát cho từng em. Khi đến lượt của Tộ, cậu bé nhìn Bác, ngượng ngùng không dám nhận, chỉ nói nhỏ:
– Dạ Thưa Bác, hôm nay cháu không ngoan, cháu….cháu… không nghe lời cô ạ. Vì cháu không ngoan nên phần kẹo này cháu không nhận ạ.
Lúc này, Bác mỉm cười rồi nhìn Tộ, ân cần nói:
– Cháu biết nhận lỗi, biết sửa sai là tốt. Cháu ngoan lắm! Cháu vẫn được nhận kẹo như các bạn khác nhé!
Tộ vui mừng nhận kẹo từ Bác, cảm ơn rất nhiều và hứa sẽ không phạm lỗi nữa.
Câu chuyện về Bác cùng các em nhỏ khiến em thêm mến mộ Bác hơn. Bác luôn lòng biết tha thứ và dạy dỗ điều đúng đắn. Từ lời nói và hành động của Tộ, em nhận ra rằng chúng ta cần phải thật trung thực, thông cảm và khoan dung với người khác. Luôn biết yêu thương mọi người, đặc biệt là các em nhỏ.
Trong một diễn văn tại lễ tốt nghiệp khóa V Trường huấn luyện cán bộ Việt Nam, Bác đã gửi thư mời cho các cán bộ, yêu cầu họ phải có mặt đúng 8 giờ để bắt đầu. Tuy nhiên, sau khi 10 phút trôi qua, vẫn có một số người chưa xuất hiện. Sau khi mọi người tập trung đầy đủ, Bác đã mạnh mẽ nhắc nhở về việc không giữ đúng giờ và nhấn mạnh rằng thời gian là quý báu.
Trong thời gian kháng chiến chống Pháp, một sĩ quan cấp tướng đã đến làm việc với Bác muộn 15 phút. Mặc dù có lý do, Bác vẫn mạnh mẽ phê bình rằng: 'Một tướng mà muộn 15 phút thì lực lượng của ông ta sẽ phạm sai lầm bao nhiêu? Hôm nay ông đã chủ quan, không chuẩn bị đủ phương án, vì vậy không giành được ưu thế.'
Trong một ngày mưa năm 1953, Bác trên đường đến thăm lớp chỉnh huấn của các nhà trí thức, những người làm việc bên cạnh đã khuyên Bác nên hoãn buổi gặp mặt này. Nhưng Bác quyết không chịu, vì ông tin rằng hẹn mà không đến là điều không thể chấp nhận. Bác luôn trân trọng thời gian và lời hứa.
Có một thời gian, Bác phải ở nhờ nhà một cán bộ. Mỗi sáng, Bác thức dậy sớm để tập thể dục và dọn dẹp nhà cửa. Dù nhà chật hẹp, qua bàn tay của Bác, nó đã trở nên gọn gàng và sạch sẽ. Trong nhà có năm người, bao gồm vợ chồng cán bộ, con trai tên Hải, anh Kiên và Bác. Ban ngày, khi mọi người bận rộn, Bác vẫn luôn hỗ trợ việc nấu cơm và chẻ củi.
Có lần khi gạo về, anh cán bộ bận học và không có ai giúp đỡ, vợ anh tỏ ra bực tức vì không có người khiêng gạo. Thấy điều này, anh tức giận và hành động không kiểm soát. Tuy nhiên, Bác xuất hiện và phê bình anh. Bác nhắc nhở anh về trách nhiệm của một Đảng viên và ý nghĩa của việc làm đoàn kết.
Trong những ngày đầu gặp gỡ, Bác luôn chăm sóc gia đình anh cán bộ, quan tâm đến mọi người cả về tinh thần lẫn vật chất. Đặc biệt, Bác dành nhiều tình cảm cho con trai anh - cháu Hải. Bác luôn quan tâm đến sức khỏe và hạnh phúc của cháu, luôn sẵn sàng giúp đỡ và chăm sóc.
Câu chuyện về Bác đã giúp em hiểu rõ hơn về những phẩm chất cao quý của một con người, một nhà lãnh đạo tài ba. Bác đã để lại ấn tượng về sự kỉ luật, sự chăm sóc và tận tình đối với mọi người xung quanh. Hình ảnh giản dị của Bác là một tấm gương sáng cho các thế hệ học tập và noi theo.
Những câu chuyện về Bác được kể rất nhiều. Qua từng câu chuyện, mọi người lại thấy những phẩm chất tốt đẹp của Bác. Có một câu chuyện kể về một đồng chí cán bộ trong cuộc kháng chiến chống Pháp, thường hay quát mắng chiến sĩ. Đã từng làm giao thông, bảo vệ cho Bác khi ông đi ra nước ngoài trước Cách mạng tháng Tám.
Sau khi nghe nhân dân phản ánh về đồng chí đó, một hôm, Bác gọi đồng chí lên Việt Bắc. Dù đồng chí đến sớm, nhưng Bác vẫn giữ cho đến trưa mới cho vào gặp. Trời mùa hè, nắng chang chang, đi bộ đúng giờ ngọ nên đồng chí vã mồ hôi, người như bốc lửa. Khi đến, Bác đã chờ sẵn. Trên bàn có hai cốc nước, một cốc nước sôi có vẻ như vừa mới rót, bốc hơi nghi ngút, còn cốc kia là nước lạnh.
Sau khi chào hỏi xong, Bác chỉ vào cốc nước nóng nói:
- Uống đi.
Đồng chí kêu lên:
- Trời ơi! Nắng như thế này mà Bác lại cho nước nóng, cháu không thể uống được.
Bác mỉm cười:
- À ra vậy à. Thế chú thấy uống nước nguội, mát có tốt không?
- Dạ chắc chắn ạ!
Bác nghiêm túc nói:
- Nước lạnh, cả chú và tôi đều thích hợp hơn. Khi chú dễ chịu, cả chiến sĩ của chú và cả tôi cũng dễ tiếp thu. Sự hòa nhã, điềm đạm cũng giống như cốc nước lạnh, dễ uống và dễ tiếp thu hơn.
Đồng chí cán bộ nghe thấy điều này, hiểu được ý của Bác và cam kết sẽ điều chỉnh.
Vào ngày 22 tháng 8 năm 1945, Bác rời Tân Trào về Hà Nội. Tối 25 tháng 8 năm 1945, Người đã đến nội thành và lưu trú tại tầng 2 của căn nhà số 48 Hàng Ngang. Sáng 26 tháng 8 năm 1945, Bác đã tổ chức một cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng, để thảo luận về các vấn đề như chủ trương đối nội, đối ngoại trong hoàn cảnh mới; công bố danh sách các thành viên Chính phủ lâm thời; chuẩn bị phát biểu Tuyên ngôn Độc lập và tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại Hà Nội để giới thiệu Chính phủ lâm thời cho toàn dân.
Vào ngày 27 tháng 8 năm 1945, Bác tiếp các bộ trưởng mới tham gia Chính phủ và đưa ra đề nghị Chính phủ tổ chức sự kiện ra mắt công bố cho toàn dân, đọc Tuyên ngôn Độc lập mà Bác đã soạn sẵn. Bác đưa ra bản thảo và yêu cầu các thành viên phải xem xét kỹ lưỡng, vì không chỉ là để đọc cho người dân cả nước nghe, mà còn để truyền đi cho Chính phủ Pháp và nhân dân Pháp, cũng như các nước đồng minh nghe.
Trong hai ngày 28 và 29 tháng 8 năm 1945, Bác đến làm việc tại 12 Ngô Quyền (trụ sở chính của Chính phủ lâm thời) và dành phần lớn thời gian để soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Buổi tối tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Bác đã tự gõ máy bản Tuyên ngôn Độc lập trên một chiếc bàn tròn.
Vào ngày 30 tháng 8 năm 1945, Bác mời các đồng chí đến để trao đổi, đóng góp ý kiến cho bản Tuyên ngôn độc lập. Bác đọc cho mọi người nghe, hỏi ý kiến của từng người. Đến ngày 31 tháng 8, Bác đã bổ sung một số ý vào bản Tuyên ngôn. Bản Tuyên ngôn Độc lập chính thức được hoàn thiện.
Bác rời Tân Trào về Hà Nội vào ngày 22 tháng 8 năm 1945. Tối 25 tháng 8 năm 1945, Người vào nội thành và lưu trú tại tầng 2 của căn nhà số 48 Hàng Ngang. Sáng 26 tháng 8 năm 1945, Bác tổ chức một cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng để thảo luận về các vấn đề như chủ trương đối nội, đối ngoại trong hoàn cảnh mới; công bố danh sách các thành viên Chính phủ lâm thời; chuẩn bị phát biểu Tuyên ngôn Độc lập và tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại Hà Nội để giới thiệu Chính phủ lâm thời cho toàn dân.
Vào ngày 27 tháng 8 năm 1945, Bác tiếp các bộ trưởng mới tham gia Chính phủ và đưa ra đề nghị Chính phủ tổ chức sự kiện ra mắt công bố cho toàn dân, đọc Tuyên ngôn Độc lập mà Người đã chuẩn bị. Bác đưa ra bản thảo và yêu cầu các thành viên phải xem xét kỹ lưỡng, vì không chỉ là để đọc cho người dân cả nước nghe, mà còn để truyền đi cho Chính phủ Pháp và nhân dân Pháp, cũng như các nước đồng minh nghe.
Trong hai ngày 28 và 29 tháng 8 năm 1945, Bác đến làm việc tại 12 Ngô Quyền (trụ sở chính của Chính phủ lâm thời) và dành phần lớn thời gian để soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập. Buổi tối tại căn nhà số 48 Hàng Ngang, Bác đã tự gõ máy bản Tuyên ngôn Độc lập trên một chiếc bàn tròn.
Vào ngày 30 tháng 8 năm 1945, Bác mời các đồng chí đến để trao đổi, đóng góp ý kiến cho bản Tuyên ngôn độc lập. Bác đọc cho mọi người nghe, hỏi ý kiến của từng người. Đến ngày 31 tháng 8, Bác đã bổ sung một số ý vào bản Tuyên ngôn. Bản Tuyên ngôn Độc lập chính thức được hoàn thiện.