Kể câu chuyện về một anh hùng, danh nhân nước ta (rất hay và ngắn gọn)
Đề bài: Hãy kể một câu chuyện em đã nghe hoặc đã đọc về một anh hùng, danh nhân Việt Nam.
Dàn ý Hãy kể một câu chuyện em đã nghe hoặc đã đọc về một anh hùng, danh nhân Việt Nam
1. Mở đầu: Giới thiệu về câu chuyện về danh nhân văn hóa mà em đã nghe hoặc đã đọc.
– Câu chuyện em nghe hay đọc qua sách báo?
– Câu chuyện kể về một danh nhân văn hóa nổi tiếng nào?
2. Nội dung chính:
– Tổng quan về hành trình của danh nhân văn hóa:
+ Tên, tuổi, nguồn gốc
– Tóm tắt cuộc đời và công lao của danh nhân văn hóa
+ Các đóng góp và thành tựu
+ Sự tôn vinh danh nhân văn hóa
– Kể một câu chuyện về một danh nhân văn hóa.
3. Tổng kết: Ý kiến của em về câu chuyện về danh nhân văn hóa:
- Những danh nhân văn hóa là tài sản vô cùng quý giá của mỗi quốc gia, dân tộc, cần được tôn trọng và lấy làm gương mẫu.

Kể câu chuyện về một anh hùng, danh nhân Việt Nam - Câu chuyện về ông Trạng
Cha ông ta thường dạy rằng “Có chí thì nên”. Những người có ý chí, vượt qua gian khổ sẽ đạt được thành công. Ông Trạng trong câu chuyện “Ông Trạng thả diều” chính là một ví dụ điển hình. Câu chuyện như sau:
Vào thời vua Trần Thái Tông, có một gia đình nghèo sinh được một cậu con trai. Cha mẹ cậu đặt tên là Nguyễn Hiền. Chàng bé này rất thích thả diều. Ngay từ nhỏ, chàng đã biết làm diều để chơi.
Lên sáu tuổi, chàng học từ ông thầy trong làng. Thầy ngạc nhiên với trí thông minh và khả năng ghi nhớ của chàng. Một ngày nọ, chàng thuộc hết hai mươi trang sách mà vẫn còn thời gian để chơi diều.
Một thời gian sau, vì hoàn cảnh gia đình nghèo, cậu phải bỏ học. Ban ngày, khi chăn trâu, dù trời mưa gió, cậu vẫn đứng ngoài lớp để nghe giảng. Buổi tối, cậu chờ bạn học thuộc bài mới mượn sách vở về học. Khi học, cậu cũng đầy kiên nhẫn. Sách của cậu là lưng trâu, nền cát, bút là ngón tay hay mảnh gạch vụn; còn đèn là vỏ trứng thả đom đóm vào trong. Dù bận rộn với công việc và học hành, diều của cậu vẫn bay cao, tiếng sáo vẫn vang vút trong không trung. Mỗi khi có kì thi, cậu làm bài trên lá chuối khô và nhờ bạn xin thầy chấm. Bài làm của cậu được khen ngợi về chữ viết và nội dung, vượt xa học trò khác.
Sau vài năm, khi nhà vua tổ chức kỳ thi, cậu bé thả diều lên trời như một thí sinh, và cậu trở thành Trạng nguyên. Ông Trạng chỉ mới mười ba tuổi khi đó, là Trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử nước ta.
Ông Trạng Nguyễn Hiền mãi là tấm gương sáng cho thế hệ trẻ nước Việt. Mặc cho hoàn cảnh khó khăn, ông vẫn kiên định học tập và trở thành Trạng nguyên. Tài năng của ông bay cao như những cánh diều mà ông từng thả lên bầu trời.
Kể câu chuyện về một anh hùng, danh nhân Việt Nam - Câu chuyện về Thánh Gióng
Ngày xửa ngày xưa, ở làng Gióng có một cậu bé lạ kỳ, đã ba tuổi mà vẫn không biết đi, không biết nói, chỉ biết nằm yên im nơi nào đó.
Khi giặc Ân từ phương Bắc xâm lấn, nhà vua gửi sứ giả đi khắp nơi tìm người hùng cứu nước. Nghe thấy thông báo, cậu bé bỗng nhiên biết nói. Cậu yêu cầu mẹ gọi sứ giả đến và nói: 'Hãy về báo với nhà vua rằng, hãy đúc cho tôi một con ngựa sắt, một bộ giáp sắt, một chiếc nón sắt. Tôi sẽ đánh tan lũ giặc'.
Từ khi gặp sứ giả, cậu bé đã nhanh chóng trưởng thành. Cơm ăn không bao giờ đầy, quần áo mới may xong đã chật. Mẹ cậu không đủ thức ăn, cả làng phải cống hiến thức ăn để nuôi cậu.
Khi nhà vua gửi đồ tới, Gióng trở thành một anh hùng mạnh mẽ. Anh mặc áo giáp sắt, đội nón sắt, cầm roi sắt, cưỡi ngựa sắt. Ngựa sắt rống lên, phun lửa, lao vào trận đấu. Anh dùng roi sắt đập kẻ thù. Dù roi sắt gãy, anh vẫn nhổ từng bụi tre bên đường để đánh tiếp. Giặc chết như chuột lạc.
Sau khi đánh bại giặc, Gióng cởi áo giáp sắt, nón sắt, bỏ lại dưới chân núi, nhìn lại quê hương một lần cuối rồi cưỡi ngựa bay lên trời. Nhân dân ghi nhớ công lao của Gióng, xây đền thờ và tôn kính anh là Thánh Gióng.
Kể câu chuyện về một anh hùng, danh nhân Việt Nam - Câu chuyện về danh tướng Trần Quốc Toản
Trong buổi sinh hoạt lớp tuần trước, em đã kể cho mọi người nghe nhiều câu chuyện về các anh hùng và danh nhân của nước ta. Trong số đó, em ưa thích câu chuyện về Trần Quốc Toản nhất.
Trần Quốc Toản là một quý tộc trong triều Trần, sống vào thời vua Trần Nhân Tông. Ông là một anh hùng trong cuộc kháng chiến chống lại quân Mông - Nguyên. Mọi người đều biết câu chuyện ' Bóp nát quả cam' về Trần Quốc Toản. Khi đó, Trần Quốc Toản chỉ là một thiếu niên, nhưng khi thấy giặc Mông - Nguyên cho sứ giả đi qua đất nước, anh cảm thấy rất tức giận.
Vào một buổi sáng, Trần Quốc Toản nghe tin vua tổ chức họp để thảo luận về việc quốc gia trên thuyền Rồng, anh quyết định chờ vua để nói hai tiếng 'Xin đánh'. Nhưng sau nhiều giờ chờ đợi mà vẫn không thấy vua Trần Nhân Tông, Trần Quốc Toản không chịu nổi, quyết tâm đi thẳng vào thuyền Rồng. Lính gác thấy vậy cản trở, nhưng Trần Quốc Toản nổi giận, rút gươm ra và nói: '
- Ta xuống đây để gặp vua, không ai được cản lại ta!
Khi đó, cuộc họp trên thuyền Rồng tạm dừng, vua và các quan lại xuống mui thuyền. Trần Quốc Toản lao tới, quỳ gối trước tàu:
- Cho giặc mượn đường là mất nước, xin vua cho đánh!
Tiếp theo, Trần Quốc Toản đặt gươm lên cổ, tự nguyện chịu trách nhiệm. Vua yên lặng bảo anh đứng dậy:
- Trần Quốc Toản phạm tội, phải bị trừng phạt. Nhưng ta nhận ra lòng yêu nước của người còn trẻ, ta muốn khen ngợi.
Vua ban cho Trần Quốc Toản một quả cam. Anh cảm ơn vua và rời khỏi bờ, nhưng lòng vẫn tức giận vì bị coi là trẻ con không đủ năng lực tham gia vào việc quốc gia. Ông lo lắng về tình hình bất ổn của dân chúng dưới cương vị của giặc. Khi rời đi, mọi người hỏi thăm và Trần Quốc Toản vạch tay ra để mọi người xem quả cam vua tặng đã nát từ lâu. Sau đó, ông về và tổ chức dân và lính, chuẩn bị cho cuộc chiến, treo cờ với dòng chữ 'Phá cường địch, báo hoàng ân'.
Qua câu chuyện này, chúng ta thấy tình yêu nước của Trần Quốc Toản. Dù còn trẻ nhưng anh đã dám vi phạm quy định để có thể tham gia vào việc quốc gia. Điều này thể hiện tinh thần dũng cảm và trách nhiệm cao của Trần Quốc Toản.
Em rất ấn tượng với câu chuyện này vì nó ca ngợi Trần Quốc Toản - một anh hùng trẻ tuổi, và tấm lòng của ông dành cho dân và đất nước. Câu chuyện cũng là bài học về lòng yêu nước và lòng nhân ái mà chúng ta nên học tập.
Kể câu chuyện về một anh hùng, danh nhân nước ta - Câu chuyện về thần Siêu
Hôm nay, tôi muốn chia sẻ với các bạn câu chuyện thú vị có tựa đề là: Thần Siêu, một câu chuyện tôi đã đọc trên báo Thiếu niên Tiền phong vào ngày 12 tháng 9 năm 1975. Xin mời nghe:
Trong thế kỷ trước, có hai người bạn học nổi tiếng, một người là Cao Bá Quát, sức học siêu việt được mọi người gọi là Thánh Quát. Người kia tên là Nguyễn Văn Siêu, học giỏi xuất chúng, được biết đến với cái tên Thần Siêu.
Thần Siêu từ nhỏ đã được biết đến với danh hiệu thần đồng. Ngay từ khi còn trẻ, những người am hiểu văn chương luôn muốn chiêm ngưỡng những câu đối chữ Hán khó nhằn mà cậu đã sáng tạo ra khi mới mười hai tuổi và dán lên nơi cậu ngồi học. Đây là một đoạn:
Đạo học từ xưa chẳng bao giờ rút ngắn
Những tài năng vẫn luôn tỏa sáng
Với tinh thần kiên trì và sự nỗ lực không ngừng, cậu đã trở thành một học giả sáng dạ hiểu biết rộng lớn.
Tuy nhiên, khi tham gia kỳ thi, các giám khảo phát hiện một bài làm rất xuất sắc. Thí sinh đó xứng đáng đỗ đầu trong kỳ thi. Đáng tiếc là viết chữ của anh ta quá xấu, khiến anh ta bị đánh xuống hạng thứ hai. Đó chính là Thần Siêu. Chữ xấu cũng gây ra rắc rối cho anh ta một lần nữa. Sau khi đỗ cử nhân, ông thi tiến sĩ tại kinh đô. Lại vì chữ xấu mà chỉ đỗ ở hạng phó bảng mặc dù bài của ông xứng đáng đỗ đầu. Bởi vậy mới có câu châm biếm:
Thần ơi, chữ xấu như ma
Lọ lem cho người không nhìn ra.
Hậu quả của việc viết chữ xấu là như vậy. Ông hiểu được điều này nên đã cố gắng luyện viết ngày đêm. Cuối cùng, giống như Thánh Quát, Thần Siêu trở nên nổi tiếng với văn hay và chữ đẹp. Ngày nay, du khách đến thăm Hồ Gươm và đền Ngọc Sơn có cơ hội chiêm ngưỡng những dòng chữ đẹp của Thần Siêu được giữ lại đó.
Kể câu chuyện về một anh hùng, danh nhân nước ta - Câu chuyện về nữ tướng Lê Chân
Ngày nay, du khách đến tham quan thành phố Hải Phòng có thể ngắm bức tượng nữ tướng Lê Chân tại vườn hoa Trung tâm nội đô. Tượng cao 6m, vô cùng tráng lệ, kỳ vĩ. Với thanh bảo kiếm bên cạnh, Lê Chân uy nghiêm hướng về biển Đông, ánh mắt sáng ngời, đầy uy dũng. Sử sách ghi rõ: Lê Chân, con gái của ông Lê Đạo, một thầy thuốc nhân đức nổi tiếng. Bà quê ở làng An Biên (hay còn gọi là làng vẻn), thuộc phủ Kinh Môn, nay thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh.
Khi 16 tuổi, Lê Chân được biết đến với tài sắc, giỏi võ nghệ và chí lớn. Thái thú Giao Chỉ kia là một kẻ vô cùng tàn nhẫn và tham lam. Không được bà chấp nhận làm tì thiếp, hắn đã bày mưu kết tội phản nghịch và giết ông Lê Đạo! Lê Chân đã phải trốn đến vùng ven biển An Dương, ấp ủ mối thù gia tộc, quyết không khuất phục trước giặc Hán xâm lược.
Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, cùng với đám anh hùng nữ kiệt khắp nơi đồng lòng hưởng ứng, Lê Chân dẫn đội nghĩa binh làng An Biên tiến về Luy Lâu, vây đánh quân Đông Hán. Lửa cháy rực trời, ngựa hí quân reo, chiêng trống dậy đất của quân nghĩa binh làm cho kẻ thù hoảng loạn. Chính quyền đô hộ tan vỡ, sụp đổ tan tành; Thái thú Tô Định vội bỏ thành trì, ấn tín, cắt tóc, cạo râu, lẻn trốn về phương Bắc. Đó là giữa tháng 3 năm 40. Lê Chân tuyển mộ trai tráng, di dân lập ấp. Một vùng duyên hải dọc ngang trấn giữ được đặt tên là An Biên, đúng như tên quê cha đất tổ của bà. Nghề nông trang, nghề chài lưới đánh cá, đóng thuyền ngày một phát triển. Lương thảo được tích trữ, cung tên giáo mác được tập rèn, chỉ vài năm sau, Lê Chân đã có hàng nghìn dũng sĩ chờ đợi thời cơ, mưu đồ đại sự.
Cuộc khởi nghĩa thành công, 65 thành trì được giải phóng, Hai Bà Trưng lên làm vua, tự xưng là Trưng Vương, đóng đô ở Mê Linh. Nước ta giành được độc lập.
Gần một trăm anh hùng nữ tướng được phong thưởng, được giao nhiều trọng trách. Trưng Vương sai nữ tướng Thánh Thiên đóng quân ở Hợp Phố phòng giữ mặt bắc, tướng Đô Dương giữ Cửu Chân phòng vệ mặt nam, nữ tướng Lê Chân được phong ‘Chưởng quản binh quyền nội bộ” đóng bản doanh ở Giao Chỉ, v.v..
Tháng 4 năm 42, vua nhà Hán sai Mã Viện đem quân sang xâm lược nước ta. Bà Trưng cùng các tướng lĩnh ra trận đánh. Nhiều trận đánh lớn đã xảy ra ở Lãng Bạc, Cẩm Khê, Hát Môn. Tháng 5-43, Hai Bà Trưng thất bại phải tự mình nhảy xuống sông Hát Giang tự tử. Nhiều nữ tướng của Bà Trưng đã anh dũng hy sinh. Nữ tướng Lê Chân đã lấp suối, ngăn sông, chặn đánh quyết liệt thủy binh giặc. Mãi đến cuối năm 43, Lê Chân anh dũng hy sinh tại chiến trường vùng Lạt Sơn, Kim Bảng (thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay) tôn vinh tinh thần anh hùng của người phụ nữ Việt Nam.
Để tưởng nhớ công ơn to lớn của nữ anh hùng Lê Chân, nhân dân An Biên đã xây dựng đền thờ gọi là đền Nghè, một trong những di tích lịch sử uy nghiêm, trang trọng của thành phố Cửa Biển.
Kể câu chuyện về một anh hùng, danh nhân nước ta - Câu chuyện về Nguyễn Viết Xuân
Anh Nguyễn Viết Xuân sinh ra trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phú. Năm bảy tuổi, anh phải đi làm cho một người bà con xa để kiếm sống. Khoảng thời gian đi ở đó kéo dài đến mười năm liền.
Lúc 18 tuổi, từ khu vực tạm chiến, anh dũng cảm bước vào quân ngũ. Đó là năm 1952, anh gia nhập hàng ngũ chiến sĩ quân đội nhân dân và được thêm vào một trung đoàn cao xạ. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị của anh đã bắn hạ hàng chục chiếc máy bay của quân Pháp. Lần đầu tiên bắn hạ được máy bay loại B.24 tại chỗ, anh vui mừng nói với chỉ huy của mình: 'Tưởng bắn hạ máy bay B.24 khó lắm, nhưng nó cũng phải rơi xuống phải không anh?'. Chỉ huy trả lời: 'Dũng cảm và bắn, thì chắc chắn máy bay nào của địch cũng phải rơi!'.
Trong một trận đánh, hàng dàn máy bay quân địch lao vào trận địa. Bom rơi như mưa. Anh Vĩ đứng thẳng trên hầm pháo chỉ huy, quyết đoán hô: 'Nhắm thẳng vào máy bay lao vào, bắn!' - Nhưng sau đó, anh hy sinh mạnh mẽ.
Hình ảnh của chỉ huy dũng cảm với lời hô gắt gao ấy để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng Nguyễn Viết Xuân. Hướng theo gương mẫu đó, anh luôn cố gắng và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Anh trở thành chính trị viên phó đại đội, sau đó là chính trị viên đại đội. Năm 1964, thiếu úy Nguyễn Viết Xuân dẫn đơn vị cao xạ của mình lên đóng ở miền tây Quảng Bình để bảo vệ bờ biển của Tổ quốc.
Ngày 18 tháng 11 năm 1964, quân địch cho máy bay xâm nhập không phận miền Bắc ở phía tây Quảng Bình, từng đợt liên tục. Trên các khẩu pháo, các chiến sĩ dũng cảm bắn hạ máy bay địch. Tiếng của Nguyễn Viết Xuân vọng lên:
– Hướng máy bay địch và bắn thẳng!
Hai chiếc máy bay phản lực F.100 bị tiêu diệt.
Lần thứ tư, máy bay địch lại tiến tới, anh vội chạy về trụ sở chỉ huy để truyền lệnh chiến đấu. Ba chiếc F.100 liên tục tấn công. Đáng tiếc, anh bị trúng đạn vào đùi. Anh ngã xuống trong hầm, một chân bị thương nặng. Chiến sĩ Tình thấy điều này và muốn báo tin cho đồng đội, nhưng anh Xuân chịu đau, vẫn cố gắng giữ lặng. Sau đó, anh nói: 'Đồng chí đừng nói cho ai biết rằng tôi bị thương. Hãy giúp tôi truyền lệnh tiếp tục chiến đấu.'.
Khi y tá Nhu đến, thấy máu chảy ra nhiều từ chính trị viên, cô vội lấy băng, nhưng anh từ chối và nói: 'Hãy giúp đỡ những người khác bị thương trước đã...' Và anh yêu cầu cắt chân để không gây cản trở. Y tá bất đắc dĩ, anh giục: 'Hãy cắt đi... và giấu chân vào nơi kín đáo để cho tôi...'
Sau khi chân được cắt, Nguyễn Viết Xuân yêu cầu đưa khăn cho anh cắn. Y tá đầy thương xót, đứng dậy và kêu lên:
– Tất cả các đồng đội hãy bắn mạnh lên, trả thù cho chính trị viên.
Các khẩu pháo đồng loạt nổ lên, tạo nên một mạng lưới lửa đón tiếp kẻ thù khi chúng tiến tới. Khói lửa che phủ mọi nơi. Một chiếc F.100 nữa đâm đầu xuống núi kéo theo dải lửa dài. Cả bọn địch hoảng loạn rút lui về phía đông.
Khi bầu trời trở lại sáng sủa, mọi người đổ về phía chiến sĩ, nhưng anh đã hy sinh.
Lời mệnh của anh hùng liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân 'Nhắm thẳng quân thù và bắn!' đã trở thành vĩnh cửu. Lệnh tấn công đó đã luôn làm kinh hãi lũ giặc lái máy bay Mỹ khi chúng xâm nhập bầu trời miền Bắc của Tổ quốc yêu dấu.