Bài văn kể về một câu chuyện của một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài tốt nhất cho lớp 5, được lựa chọn từ những bài văn xuất sắc của học sinh trên toàn quốc để giúp bạn viết bài văn kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài một cách xuất sắc hơn.
Top 20 Kể về một câu chuyện của một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài (hay và súc tích)
Kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - Hai Bà Trưng
“Ngàn năm lịch sử vẫn ghi chép,
Dòng sông Mê Linh hát vang vì núi non.
Chị em đoàn kết, cùng lòng một lòng,
Đuổi đuổi quân Tô Định ra khỏi biên cương này.”
Là dân của quốc gia Việt Nam, ai cũng biết 'chị em' ấy là hai nữ anh hùng của dân tộc: Hai Bà Trưng.
Trong quá khứ, đất nước chúng ta bị quân giặc xâm lược, chúng ta bị đô hộ, chúng ta bị giết dân vô tội, chúng ta bị cướp ruộng đất và mất mát. Chúng ta bị ép buộc lên rừng săn bắn, xuống biển lấy ngọc trai, gây ra nhiều tổn thất đến tính mạng của người dân vô tội. Sự oán giận của dân là không lớn lắm, họ chỉ mong chờ ngày giương cờ đánh đuổi kẻ thù.
Lúc đó, ở huyện Mê Linh có hai người con gái thông minh và tài năng là Trưng Trắc và Trưng Nhị. Cha họ mất sớm, mẹ họ phải làm việc vất vả để nuôi dưỡng hai người con gái. Hai chị em không có ai là kém cạnh ai, họ hợp tác với nhau, cùng nhau phát triển cả về văn hóa và võ thuật. Họ dấn thân vào việc bảo vệ non sông. Chồng của Trưng Trắc là Thi Sách cũng có chung một lòng với vợ. Tướng quân Tô Định biết về điều này, và đã mưu hại Thi Sách.
Nghe tin tức kinh hoàng, Hai Bà Trưng lập tức hồi quân về Luy Lâu để trừng phạt kẻ thù. Trước khi rời đi, có người đề nghị rằng người phụ nữ lãnh đạo nên mặc quần áo tang. Trưng Trắc quyết đoán trả lời:
- Không! Ta sẽ mặc giáp chiến đấu một cách trang trọng, để khích lệ lòng dũng cảm của nhân dân, và khi kẻ thù nhìn thấy, họ sẽ bị kinh hãi.
Hai Bà Trưng cưỡi lên lưng của voi. Đoàn quân hừng hực nhiệt huyết bước ra đường. Giáo lao, cung nỏ, rìu búa, khiên gỗ cuồn cuộn di chuyển theo bóng dáng của hai vị anh hùng. Tiếng trống vang vọng trên cây, đập vào sườn đồi, kéo dài theo con đường hành quân. Không lâu sau, các thành trì của quân địch liên tiếp đổ sập dưới bàn chân của đoàn quân khởi nghĩa. Tên tướng quân địch ôm đầu chạy về nước của chúng. Đất nước chúng ta được giải phóng khỏi sự chiếm đóng của quân thù.
Hai Bà Trưng trở thành hai vị anh hùng đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam đánh đuổi giặc ngoại xâm. Suốt hàng thế hệ, người con cháu của dân tộc Việt Nam vẫn tưởng nhớ công lao của hai nữ anh hùng này. Hình ảnh của Hai Bà Trưng cưỡi voi ra trận đã trở thành biểu tượng không khuất phục của những phụ nữ Việt Nam dũng cảm, kiên cường.
Kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - Tô Định
Năm 34 sau Công Nguyên, nhà Đông Hán sai Tô Định sang đóng vai Thái thú quận Giao Chỉ.
Tô Định là một kẻ tham lam và tàn bạo. Dân chúng sống trong oán giận, các quan lại của nhà Lạc cũng đều căm ghét. Trong số đó, Lạc tướng Châu Diên là Thi Sách, đã lên kế hoạch chống lại quân Tàu. Tô Định không chịu nổi, đã ra tay giết chết Thi Sách. Vợ của Thi Sách là Trưng Trắc lên đường đánh Tô Định để báo thù cho chồng, cũng như để giải oan cho quốc gia.
Trưng Trắc là con gái của Lạc tướng Mê Linh, ngày nay thuộc tỉnh Phúc Yên. Khi bà và em gái Trưng Nhị nổi dậy, các quan lại và nhân dân của nhà Lạc đã ủng hộ nhiệt tình. Không lâu sau, quân đội của Hai Bà Trưng đã lan rộng khắp nơi, chiếm được 65 thành trì. Tô Định không còn lựa chọn nào khác ngoài việc chạy trốn về phía quân Tàu.
Hai Bà Trưng lên ngôi vua, đặt đô ở Mê Linh (năm 40 sau Công Nguyên). Dân chúng đều vui mừng với sự độc lập này.
Trưng Nữ Vương nắm quyền trong hơn một năm, sau đó nhà Đông Hán sai danh tướng Mã Viện đem binh đánh. Quân của Mã Viện là quân có kinh nghiệm, trong khi quân ta chỉ mới tập hợp, nhưng nhờ lòng dũng cảm, quân ta đã giành chiến thắng trong một số trận đầu tiên. Quân địch buộc phải rút về và đóng quân ở vùng Lãng Bạc (gần Hồ Tây, Hà Nội ngày nay). Sau đó, Mã Viện được bổ sung quân số và sử dụng mưu mô để lừa quân ta, sau đó đánh bất ngờ. Hai Bà Trưng thất bại trong trận đánh, buộc phải rút quân về giữ Mê Linh.
Vào mùa thu năm 43, Mã Viện đem binh vây thành Mê Linh. Quân ta ít, tình hình không vui. Hai Bà buộc phải chạy trốn. Mã Viện sai quân đuổi theo. Hai Bà nhảy xuống sông Hát (gần sông Đáy đổ vào sông Hồng Hà) để tự cứu mình khỏi sự bắt giữ của quân địch.
Hai Bà Trưng chỉ cai trị trong một thời gian ngắn nhưng đã trở thành hai nhân vật anh hùng đầu tiên của dân tộc, vì vậy hậu thế vẫn tôn vinh họ từng đời đời.
Ngày nay, ở làng Hát Môn, thuộc huyện Phúc Thọ, tỉnh Sơn Tây và làng Đồng Nhân, gần Hà Nội, có đền thờ Hai Bà Trưng. Hàng năm vào ngày mồng sáu tháng hai âm lịch là ngày hội để tưởng nhớ công ơn của hai vị nữ anh hùng.
Kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - mẹ Lê
Mẹ Lê là một trong bốn Bà mẹ anh hùng của Việt Nam. Năm nay mẹ đã 76 tuổi. Khi còn trẻ, mẹ tham gia công tác dân công trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Người lính chiến đấu tại đồi A1 kia, sau này đã là chồng của mẹ.
Mẹ có ba người con trai: Quang, Chiến, Hùng, tất cả đều tham gia vào cuộc Chiến tranh Giải phóng, cùng với bố, Nguyễn Đức Quốc, họ đã hy sinh dũng cảm trên chiến trường miền Nam trong cuộc chiến chống Mỹ. Các năm 1965, 1968, 1971, 1973 là những năm mà mẹ cảm thấy mất mát đau đớn nhất. Bốn lần mẹ đã phải tiễn chồng và con đi ra chiến trường. Bốn lần đó, mẹ đều phải chịu đau đớn khi xã tổ chức lễ tang cho những người thân yêu của mình.
Tóc của mẹ đã bạc phơ, vóc dáng cong cằn. Mẹ sống với cháu nội duy nhất - con của anh Quang trong ngôi nhà tràn đầy tình thương. Mỗi chiều thứ năm, cô giáo Thi luôn dẫn một nhóm học sinh lớp 5C đến dọn dẹp và chăm sóc vườn cho mẹ. Cô giáo nói với chúng tôi: 'Xã ta có 13 gia đình liệt sĩ. Nhưng sự cống hiến và hy sinh của gia đình mẹ Lê là vô cùng to lớn. Mẹ đã rơi nước mắt cho chồng, cho con hết cả biển mắt rồi...'
Mỗi khi ghé thăm nhà mẹ Lê và trở về, tôi luôn rất xúc động. Tôi luôn kính trọng và yêu mến mẹ.
Ngoài kiến thức học tập, các em cũng có thể chuẩn bị và tìm hiểu về nội dung phần Kể một kỷ niệm về thầy cô của mình thông qua việc kể chi tiết về một kỷ niệm với thầy cô để hiểu rõ hơn về những gì sắp xảy ra trong chương trình học tiếp theo.
Kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - chị Võ Thị Sáu
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã chứng kiến biết bao tấm gương anh dũng hy sinh vì sự độc lập của quốc gia. Trong số những tấm gương về nữ anh hùng, người mà tôi luôn ngưỡng mộ và kính phục nhất chính là chị Võ Thị Sáu - người con gái của miền đất đỏ với tinh thần kiên cường không khuất phục trước kẻ thù.
Chị Sáu là một nữ anh hùng, sinh năm 1933 tại huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa. Sinh ra và lớn lên trong một môi trường quê giàu truyền thống yêu nước, chị đã chứng kiến sự tàn bạo của thực dân Pháp với dân Việt, và không ngần ngại tham gia vào cuộc đấu tranh cách mạng cùng với các anh trai của mình. Lúc 14 tuổi, người con gái dũng cảm này đã gia nhập Việt Minh cùng với anh trai, tham gia vào chiến khu chống Pháp. Chị tham gia vào đội công an xung phong, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ liên lạc và tiếp tế. Trong khoảng thời gian này, chị đã tham gia vào nhiều trận chiến để bảo vệ quê hương, sử dụng lựa đạn để tiêu diệt hai tên ác ôn và làm bị thương nhiều lính Pháp.
Tháng 2 năm 1950, chị dẫn đầu một đội, sử dụng lựa đạn tấn công và tiêu diệt hai tên ác ôn Cả Suốt và Cả Đay. Rất không may, chị bị bắt giữ. Trong thời gian bị giam giữ, chị tiếp tục làm công việc liên lạc cho đồng đội trong nhà tù, cùng chị em tù đấu tranh để cải thiện cuộc sống tại nhà tù. Họ đã sử dụng mọi biện pháp tra tấn, nhưng không thể ép chị phản bội, sau đó chị được chuyển về nhà tù Chí Hòa, Sài Gòn để tiếp tục tra khai và sau đó mở phiên tòa, kết án tử hình chị. Trong phiên tòa, mặc dù mới 17 tuổi, chị Võ Thị Sáu đã tỏ ra mạnh mẽ và anh dũng như một người phụ nữ Việt Nam thực sự, làm cho lũ quan tòa và bọn đồng phạm đều phải kính trọng.
Vào ngày 23/1/1952, bọn chúng thực hiện án tử, bắn chết chị trên một hòn đảo xa xôi. Trong hai ngày trước khi bị hành quyết, chị đã gửi lòng mình với đất nước và nhân dân bằng những bài ca cách mạng như 'Lên đàng', 'Tiến quân ca', 'Cùng nhau đi hùng binh'... Lúc bốn giờ sáng, kẻ chỉ huy hỏi chị: 'Trước khi chết, con có điều gì ân hận không?'. Chị nhìn thẳng vào mặt hắn và mặt kẻ chánh án, trả lời: 'Tôi chỉ ân hận là chưa tiêu diệt hết bọn thực dân cướp nước và lũ tay sai bán nước'.
Khi được đưa ra pháp trường, kẻ chánh án hỏi chị: 'Con có yêu cầu gì trước khi chết không?'. Chị trả lời: 'Đừng bao giờ bịt mắt tôi. Hãy để tôi được nhìn đất nước cuối cùng và tôi sẽ đối mặt với súng của các người một cách dũng cảm!'. Khi kẻ chỉ huy ra lệnh cho bọn lính chuẩn bị bắn, chị ngưng hát và kêu lên: 'Đả đảo thực dân Pháp!'. 'Việt Nam độc lập muôn năm!'. 'Hồ Chủ tịch muôn năm!'.
Tinh thần kiên cường và dũng cảm của chị Võ Thị Sáu đã truyền cảm hứng cho nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam, tiếp tục viết nên trang sử đấu tranh vĩ đại của dân tộc. Chúng tôi cảm phục trước tấm gương của người anh hùng nữ, và cam kết sẽ cố gắng học tập tốt hơn để xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh và tươi đẹp, xứng đáng với sự hi sinh anh dũng của các thế hệ tiền bối.
Kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - chị Võ Thị Sáu
Có nơi nào tuyệt vời như thế
Như dòng sông, như con suối, như người Việt Nam
Đất nước Việt Nam đã trải qua hơn 4000 năm lịch sử với biết bao biến cố, thăng trầm, và chịu nhiều cuộc xâm lăng của các nước lớn. Dù là một dân tộc hiền lành, chúng ta không ngần ngại chống lại kẻ thù khi họ đe dọa quê hương, và tinh thần yêu nước đã tạo nên một làn sóng mạnh mẽ, tiêu diệt bọn thực dân cướp nước và lũ tay sai bán nước. Trong số những anh hùng nổi tiếng, chị Võ Thị Sáu là một tấm gương sáng cho chúng ta.
Chị Võ Thị Sáu sinh năm 1933, ở xã Phước Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Vũng Tàu-Côn Đảo. Tham gia cách mạng từ khi mới 14 tuổi, chị nhanh chóng trở thành nữ chiến sĩ trinh sát gan dạ của Đội Công an xung phong Đất Đỏ. Năm 1950, chị bị bắt trong trận đánh tiêu diệt quân Pháp gần nhà. Bị giam cầm hơn một năm trong khám Chí Hòa, chị vẫn giữ vững tinh thần và không khuất phục kẻ thù.
Tháng 4 năm 1951, chị Sáu bị thực dân Pháp đưa ra tòa án quân sự. Phiên tòa không công bằng, chỉ có 2 tay sai làm nhân chứng với bồi thẩm đoàn, nhưng vẫn kết án chị tử hình. Bản án của một cô gái chưa đủ tuổi đã gây chấn động dư luận trong và ngoài nước, khiến kẻ thù không dám xử bắn chị tại Sài Gòn.
Sáng ngày 21/1/1952, chị Sáu bị giam cầm trên một chiếc tàu chở hàng ra đảo. Đây là lần đầu tiên, và cũng là lần duy nhất trong 9 năm kháng chiến, một phụ nữ trẻ tuổi bị xiềng xích trên boong tàu để hành quyết. Sáng sớm ngày 22/1/1952, chị có mặt tại Côn Đảo và bị giữ riêng tại xà lim sở Cò. Chỉ còn 5 ngày nữa là Tết, nhưng chị vẫn bị xử bắn.
Khoảng bốn giờ sáng, cửa xà lim mở ra. Chị Sáu sẵn sàng trong bộ quần áo trắng. Chúa đảo, cố đạo Pháp cùng những người khác đến. Chúng sẽ hành quyết chị ở ngoài đảo để tránh sự chú ý của dư luận. Chúa đảo hỏi chị:
- Còn gì muốn nói không?
- Không
Chúa ngục đưa rượu đến và mời chị:
- Còn một chút nữa, cô sẽ đối mặt với súng đạn. Một chút rượu có thể giúp cô thêm dũng cảm.
Chị Sáu cười nhẹ, trả lời:
- Rất biết ơn? Nếu quý vị cần rượu để thêm can đảm, xin hãy tự nhiên.
Pác-xi ngạc nhiên, nhìn chằm chằm vào cô gái.
Bọn họ dẫn chị đi trước, hai tay không bị còng. Xếp Lé cầm súng đi cùng.
Cố đạo Tây muốn làm nghi lễ rửa tội cho chị Võ Thị Sáu. Chị nói:
- Tôi không có tội. Yêu nước không phải là tội lỗi.
Nhìn nhóm người đang khắc huyệt cho chị, chị dừng lại hỏi họ:
- Đây có phải là huyệt của tôi không?
Nhóm người khắc huyệt nghẹn ngào không dám trả lời.
Chị lấy bông hoa từ mái tóc, đưa cho mấy người lính tù.
- Tặng cho mấy anh bông hoa này. Cảm ơn mấy anh đã khắc huyệt cho tôi. Hôm nay mấy anh mới khắc một cái nhỏ. Nhưng ngày mai, mấy anh cần khắc một cái huyệt thật lớn…
Những người tù nhìn nhau mơ hồ. Chị Sáu nháy mắt, hướng về bọn Pháp:
- Một cái huyệt thật lớn để chôn những kẻ bắn tôi hôm nay…
Chị đã tiếp tục hát bằng lời ca trong giờ phút cuối cùng của cuộc đời. Với tư thế vững vàng, kiêu hãnh. Trước khẩu súng, chị lên tiếng vang lên những bài hát cuối cùng 'Hồ Chủ tịch muôn năm'.
Và chị nằm yên, nghe mãi tiếng sóng vỗ reo hò,
Người con gái trẻ dung dị
Địch mang ra nơi bãi bắn
Bước giữa hai hàng súng
Vẫn tự tin mỉm cười
Hái một đoá hoa tươi
Chị cài hoa sen vào mái tóc
Nâng đầu cao không khuất phục
Dẫu trong phút giây hy sinh
Ngày nay dưới bóng dương
Chi nằm lắng nghe biển hát
Sự hy sinh của chị Võ Thị Sáu cùng với hàng ngàn anh hùng khác đã trở thành vĩnh cửu. Chị đã hy sinh nhưng tinh thần yêu nước, kiên cường không khuất phục vẫn sống mãi trong lòng người Việt Nam, sống mãi qua thời gian. Nối gương chị, các thế hệ trẻ em chúng tôi hứa sẽ nỗ lực học tập, rèn luyện để xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh.
Kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - nữ tướng Nguyễn Thị Định
Nữ tướng Nguyễn Thị Định sinh năm 1920, là con út trong một gia đình đông đúc ở xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre. Bà thường được người dân Bến Tre gọi thân mật là “cô Ba Định”. Khi mới 16 tuổi, bà bắt đầu tham gia vào cuộc cách mạng, đảm nhận các nhiệm vụ giao tiếp, phổ biến tư tưởng cách mạng.
Hai năm sau khi tham gia cách mạng, bà được kính mời vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong thời gian này, bà cưới hôn với ông Nguyễn Văn Bích, một viên chức cấp cao ở tỉnh Bến Tre. Năm 1940, cả hai bị giặc Pháp bắt giữ, ông Bích bị giam giữ tại Côn Đảo và sau đó bị thiêu sống, còn bà bị giam giữ tại nhà tù Bà Rá, nay thuộc tỉnh Bình Phước. Cho đến năm 1943, bà mới được phóng thích và trở về quê hương. Sau khi trở về, bà tiếp tục mạnh mẽ, kiên cường tham gia vào các hoạt động cách mạng.
Năm 1960, bà được bầu làm Phó Bí thư và sau đó là Bí thư Tỉnh ủy Bến Tre để cùng với những người yêu nước khởi xướng phong trào Đồng Khởi, khởi đầu cho cuộc đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang trên khắp miền Nam. Trong giai đoạn 1965 - 1974, bà được bầu làm Phó Tổng Tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam. Tháng 4 năm 1974, bà được thăng quân hàm Thiếu tướng, trở thành nữ tướng đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam Anh hùng.
Nữ tướng Nguyễn Thị Định đã dành cả cuộc đời mình cho đất nước, với tinh thần dũng cảm không ngừng. Mặc cho nhiều đau thương, bà vẫn vượt qua tất cả, luôn sống trọn vẹn tình yêu với đồng đội, với nhân dân, hi sinh mọi hạnh phúc cá nhân để lo lắng cho hạnh phúc của mọi người.
Kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - Tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ
Trong số những ví dụ về lòng kiên trì học hỏi, em luôn ngưỡng mộ bà Nguyễn Thị Duệ. Bởi bà là người phụ nữ duy nhất đạt được học vị tiến sĩ trong thời kỳ phong kiến ở nước ta. Trong cuộc sống, bà đã đóng góp rất nhiều cho đất nước.
Nguyễn Thị Duệ sống vào thời kỳ nhà Mạc, sinh ra ở tỉnh Hải Dương. Từ khi còn nhỏ, bà đã nổi tiếng với trí thông minh và vẻ đẹp tuyệt vời. Năm 1592, khi chúa Trịnh Tùng đánh chiếm Thăng Long, gia đình bà phải di cư lên Cao Bằng. Nguyễn Thị Duệ cùng gia đình cô đi theo.
Bà Duệ là một học giả sáng dạ, nhưng trong thời đại đó, phụ nữ không được phép tham gia thi cử. Do đó, bà phải giả trai để tham gia học hành. Khi dự kỳ thi Hội năm 1594, bà sử dụng tên giả là Nguyễn Du và đỗ đầu trong khi mới 20 tuổi. Khi vua Mạc Kính Cung nhìn thấy tiến sĩ trẻ tuổi và nhanh nhẹn này, ông đã thắc mắc. Sau khi biết được sự thật, Nguyễn Thị Duệ không bị trách tội mà được khen ngợi là phụ nữ có tài không thua kém nam giới. Sau đó, bà được mời vào cung dạy học cho các phi tần và công chúa. Bà được phong làm Tinh Phi, được biết đến với biệt danh Bà Chúa Sao.
Năm 1625, quân Lê - Trịnh đánh chiếm Cao Bằng và tiêu diệt nhà Mạc. Nguyễn Thị Duệ lẩn trốn trong rừng nhưng bị bắt. Nhận thấy tài năng của bà, vua Lê và chúa Trịnh vẫn để bà tiếp tục dạy học trong triều đình. Trong thời gian làm quan, bà rất quan tâm đến việc thi cử và đào tạo nhân tài. Bà thường kiểm tra tất cả bài thi ở các kỳ thi đình và hội. Mỗi tháng, bà cùng các nhà học đến dạy học và ôn thi cho các thí sinh. Bên cạnh đó, bà cũng xin triều đình cấp nhiều mẫu ruộng tốt để trợ giúp tài năng trẻ và những học sinh nghèo chăm chỉ.
Năm 70 tuổi, Nguyễn Thị Duệ quyết định về quê nghỉ ngơi. Bà sống đến hơn 80 tuổi mới qua đời. Sau khi mất, người dân đã xây đền thờ và thờ phụng bà như một vị thần. Mỗi khi nhớ đến bà, tôi càng ngưỡng mộ sự thông thái và nỗ lực của bà. Điều đó là động lực giúp tôi tiếp tục phấn đấu học hành.
Kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - bà Nguyễn Thị Sen
Trong lớp 5, tôi học về thêu và may. Hoạt động này khiến tôi thấy rất hứng thú, nên tôi đã tìm hiểu thêm về nó khi về nhà. Và trong số những điều thú vị mà tôi tìm hiểu được là câu chuyện về bà tổ của nghề may ở Việt Nam, bà Nguyễn Thị Sen.
Theo những gì tôi biết, Bà Nguyễn Thị Sen sinh ra và lớn lên ở làng Trạch Xá, xã Hòa Lâm, huyện Ứng Hòa, trấn Sơn Tây. Bà là một cô gái xinh đẹp, duyên dáng và giỏi trong việc trồng dâu, dệt vải, may mặc và thêu thùa.
Khi vua Đinh Tiên Hoàng đến Sơn Tây tìm kiếm những người có tài giúp đỡ nước, ông đã ấn tượng và kết duyên với bà Nguyễn Thị Sen khi ghé qua làng Trạch Xá. Ông phong bà làm Tứ Phi Hoàng Hậu.
Tại cung đình, bà là người đứng đầu Bộ May trang phục Hoàng gia. Với trí thông minh, khéo léo và sáng tạo, bà đã cùng các cung phi tạo ra các loại trang phục cho vua, quan, hoàng tử và công chúa. Mỗi bộ trang phục đều vừa trang trọng vừa tiện lợi. Đội ngũ may mặc và thêu thùa được bà đào tạo đông đảo. Bà dạy cho các cung nữ từng chi tiết may, mũi chỉ và thúc đẩy nghề may trong cung đình.
Vào năm 979, vua Đinh Tiên Hoàng bị sát hại. Thất vọng trước cảnh triều đình rơi vào chiến loạn, bà đã đưa các con rời khỏi cung đi về làng Trạch Xá. Ở đây, bà đã truyền dạy nghề may cho dân làng, từ đó nghề may đã phát triển qua các thế hệ, hiện đã trải qua hơn ngàn năm.
Bà qua đời vào ngày 12 tháng Chạp. Để con cháu biết về công lao của bà trong việc phát triển nghề may, người dân làng Trạch Xá đã lập đền thờ để tôn kính bà là Đức Thánh Tổ nghề may và tổ chức lễ hội giỗ hàng năm vào ngày 12 tháng Chạp theo lịch âm.
Kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - Bà Triệu
Khi nhắc đến những nữ tướng dũng mãnh, tài hoa trong thời phong kiến, người ta thường ghi nhớ đến Hai Bà Trưng. Nhưng với tôi, nữ anh hùng mà tôi ngưỡng mộ nhất chính là Bà Triệu - Triệu Thị Trinh.
Bà Triệu Thị Trinh, còn được biết đến với biệt danh Triệu Trinh Nương, sinh ngày 02 tháng 10 năm 226 tại vùng núi Quan Yên, quận Cửu Chân, nay là huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Từ khi còn nhỏ, bà đã thể hiện sự mạnh mẽ, thông minh và tài sắc xuất chúng. Đến khi trưởng thành, bà cùng anh trai là Triệu Quốc Đạt tập hợp người trẻ và khích lệ họ tham gia kháng chiến ở vùng Quan Yên. Từ đây, Bà Triệu và binh đoàn của mình đã vượt sông Chu, tiến vào ngàn Nưa, sau đó chinh phục sông Mã và Bồ Điền. Cuộc kháng chiến đã lan rộng và làm dấy lên làn sóng cách mạng ở Giao Châu.
Năm 248, quân Ngô Triều đã gửi Lục Dận với tám nghìn quân để đàn áp cuộc kháng chiến của Bà Triệu. Vì binh đoàn của Bà Triệu vẫn còn trẻ non, không đủ sức đối mặt với một lực lượng lớn gấp nhiều lần của địch. Trong một trận chiến ác liệt, trước sức mạnh và mưu kế của kẻ thù, Bà Triệu đã hy sinh ở núi Tùng, xã Phú Điền, huyện Hậu Lộc vào năm 248 khi mới 22 tuổi.
Bà Triệu là một nữ anh hùng vĩ đại của dân tộc, với lòng dũng cảm và tinh thần kiên trì. Theo gương của bà, chúng ta sẽ nỗ lực học hành để góp phần xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh.
Kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - Trưng Trắc - Trưng Nhị
Trong lịch sử bảo vệ và giữ gìn non sông của dân tộc Việt Nam, có nhiều anh hùng dũng cảm đã đứng lên. Trong số những nhân vật anh hùng đó, hai bà Trưng luôn là nguồn cảm hứng và lòng ngưỡng mộ của tôi. Hai bà là hai trong số ít nữ tướng vĩ đại trong lịch sử, khiến kẻ thù phải sợ hãi.
Sau khi chiếm được vùng Mê Linh ở Vĩnh Phúc ngày nay, bà Trưng Trắc lên ngôi vua, tự xưng là Trưng Vương. Bà tiếp tục truyền thống của thời kỳ Vua Hùng, bảo vệ lãnh thổ quê hương.
Tuy nhiên, không lâu sau đó, quân xâm lược đã trở lại với mục đích thôn tính. Hai bà Trưng quyết liệt chống lại bằng ý chí mạnh mẽ, nhưng trước sự mạnh mẽ của quân địch, họ đã thất bại và hy sinh tại Hát giang. Tinh thần chiến đấu dũng cảm của hai bà mãi mãi sống với dân tộc Việt Nam.
Mặc dù cuộc chiến của hai bà Trưng kết thúc bằng thất bại, nhưng ý nghĩa của họ vẫn còn vô cùng to lớn. Tên tuổi của hai bà được ghi vào lịch sử về những nữ tướng lừng danh của dân tộc. Trong thời kỳ thụ nam bất nữ, hai bà Trưng đã chứng minh rằng phụ nữ cũng có thể góp phần vào cuộc chiến.
Các thế hệ người Việt luôn ghi nhớ công lao to lớn của hai bà Trưng. Phụ nữ Việt Nam luôn là biểu tượng của sự mạnh mẽ và dũng cảm, là nguồn động viên cho chúng ta theo đuổi.
Kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - Võ Thị Thắm
Trong thời kỳ chiến tranh, học sinh, sinh viên là một phần quan trọng trong cuộc đấu tranh cho độc lập của đất nước. Trong số đó, không ai không biết đến sinh viên Võ Thị Thắm.
Chị sinh ra và lớn lên tại Long An, nơi nổi tiếng với lòng trung dũng, kiên cường, và ý chí đánh giặc. Từ nhỏ, chị đã tích cực tham gia vào các hoạt động cứu nước. 9 tuổi, chị đã đi giao thư và mang cơm cho các chiến sĩ cách mạng được bố mẹ che chở, nuôi giấu trong hầm bí mật. 16 tuổi, chị tham gia Mặt trận dân tộc giải phóng huyện Bến Lức - Long An. 17 tuổi, chị tham gia vào Phong trào Thanh niên - Sinh viên - Học sinh, và sau đó là Phong trào Công nhân, lực lượng vũ trang trong lòng đô thị tại Sài Gòn.
Trong chiến dịch Tổng công kích Mậu Thân 1968, chị bị bắt và bị giam giữ trong 6 năm, chị đã trải qua những đợt tra tấn đày đọa của giặc. Tuy nhiên, tinh thần yêu nước của chị không bao giờ gục ngã. Chỉ khi Hiệp định Paris được ký kết, chị cùng các đồng đội mới được thả tự do.
Chị Võ Thị Thắm là một nữ anh hùng thực sự, với những đóng góp to lớn cho dân tộc trong cả thời chiến lẫn thời bình.
Kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - Nguyễn Thị Chiên
Việt Nam là quê hương của nhiều anh hùng, trong đó có rất nhiều nữ anh hùng xuất sắc. Trong số đó, người mà tôi ấn tượng nhất là bà Nguyễn Thị Chiên.
Bà Nguyễn Thị Chiên sinh năm 1930 ở huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp, bà là một trong những phụ nữ dũng cảm đứng đầu trung đội du kích. Bà đã thể hiện sự gan dạ, quyết đoán khi giúp đỡ cách mạng tiêu diệt tiểu đội địch và thu được vũ khí. Dù bị bắt và tra tấn, bà vẫn kiên cường không khai, và sau khi được thả tự do, bà tiếp tục hoạt động trong đội du kích, đồng thời lãnh đạo các hoạt động sản xuất, chiến đấu. Đóng góp của bà là vô cùng quan trọng cho sự chiến đấu của dân tộc.
Năm 1951, bằng sự mưu trí, bà Nguyễn Thị Chiên đã bắt một tiểu đội địch tại chợ và thu được nhiều vũ khí. Sau đó, bà tiếp tục thể hiện tài năng của mình khi bắt được một sĩ quan Pháp chỉ huy trận càn quét của địch. Trong Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất, bà được tặng nhiều huân chương và danh hiệu cao quý từ lãnh tụ. Bà Nguyễn Thị Chiên là một nữ anh hùng được tôn trọng, là nguồn động viên cho nhiều người.
Bà Nguyễn Thị Chiên là một người phụ nữ dũng cảm và đầy ý chí. Chị là nguồn động viên lớn cho em và nhiều người khác. Chúng em sẽ học tập, rèn luyện để có thể đóng góp cho đất nước như bà.
Kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - Bùi Thị Xuân
Trong lịch sử quân sự Việt Nam, Bùi Thị Xuân là một nhân vật đặc biệt. Bà nổi tiếng không chỉ là một tướng lĩnh xuất sắc mà còn là người điều khiển voi trắng nổi tiếng.
Nữ tướng Bùi Thị Xuân quê ở thôn Xuân Hòa, tổng Phú Phong, huyện Tuy Viễn, nay là thôn Phú Xuân, xã Bình Phú, huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định. Bà được biết đến với tài năng vượt trội ở nhiều lĩnh vực, từ viết văn đến kỹ thuật chiến đấu. Trước khi gia nhập nghĩa quân Tây Sơn, bà đã thuần phục hai con voi ngà và dùng chúng trong các trận chiến. Bà thường cưỡi voi đi săn tại các khu vực Đồng Sim, Đồng Trăng, và Thuận Ninh.
Bùi Thị Xuân không chỉ là một tướng lĩnh kiệt xuất mà còn là một người có mối liên kết đặc biệt với voi trắng. Sự can đảm và tài năng của bà đã góp phần vào sự thành công của khởi nghĩa Tây Sơn.
Một ngày, khi Bùi Thị Xuân đang đi săn trên lưng voi ở khu rừng Đồng Sim, bà nghe thấy tiếng voi kêu thảm thiết. Đến nơi, bà nhìn thấy con voi trắng ngà dài đang bị con trăn to quấn chặt bốn chân. Bùi Thị Xuân không chần chừ, bắn mũi tên vào mắt con trăn để giải thoát cho con voi.
Bà không dừng lại ở đó, mà tiếp tục dùng ngọn lao đâm vào miệng con trăn. Ngọn lao xuyên thấu đầu con trăn và cắm chặt vào gốc cây. Con trăn quấn chặt cây khiến cây đổ và nó tử vong. Con voi trắng đứng dậy và quỳ gối trước Bùi Thị Xuân, người nói thân thiện với con: “Bạch tượng, từ nay chúng ta sẽ trở thành bạn thân nhé!”. Con voi đưa vòi cạ vào vai bà rồi đứng dậy vươn vòi thét lên mấy hồi.
Từ xa, tiếng chân chạy rầm rập, rừng reo vang lên, một đàn voi xuất hiện quanh con voi trắng. Sau tiếng thét dài của con voi trắng, đoàn voi quỳ xuống, vòi như hành lễ bái kiến Bùi Thị Xuân. Đàn voi tiếp tục theo bà về làng, nơi được gọi là gò Tập Voi vì bà thường đưa đàn voi ra tập trận ở đó.
Sau khi khởi nghĩa Tây Sơn nổ ra, những người dân ở miền núi tặng nhiều con voi khác, đồn voi đã lên đến hơn trăm con. Phần lớn quản lý voi là phụ nữ, chỉ có một số nam binh tham gia. Khi huấn luyện, Bùi Thị Xuân dùng cờ đỏ dài để điều khiển. Khi bà xuất hiện, con voi đầu đàn luôn ứng xử trang trọng trước mặt bà.
Bà nhảy lên lưng voi một cách nhẹ nhàng, sau đó tung mình lên lưng con vật. Con voi đầu đàn rống lên một tiếng dài sau khi bà vỗ nhẹ hai cái lên đầu. Cả đàn ngay lập tức chạy đến và xếp hàng ngay ngắn trước mặt con voi đầu đàn. Bà sử dụng cờ để chỉ huy đàn voi di chuyển một cách linh hoạt và rất hiệu quả.
Trong quá trình tập trận voi, ban đầu, bà huấn luyện từng đội một. Mỗi đội có một phụ nữ quản lý, cho đến khi họ thành thạo thì mới tập hợp thành đoàn. Khi đó, mỗi phụ nữ quản lý cầm một cờ. Khi cờ được tung lên, con voi đi theo chỉ dẫn của nó. Cuộc tập trận kết thúc khi cờ được phất cao, đoàn voi xếp hàng và phụ nữ quản lý nhảy xuống với những nụ cười tươi trẻ.
Sau khi phong trào nông dân Tây Sơn bùng nổ vào năm 1771, Bùi Thị Xuân và chồng là Trần Quang Diệu trở thành những tướng lĩnh nổi tiếng, đóng góp lớn cho sự thắng lợi của nhà Tây Sơn.
Qua câu chuyện trên, ta càng ngưỡng mộ hơn người phụ nữ tài sắc vẹn toàn Bùi Thị Xuân. Từ phụ nữ bình thường, bà đã trở thành một danh tướng được kính trọng, được người đời luôn ghi nhớ và trầm trồ khen ngợi.
Kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - Lê Thị Diễm Thúy
Trong những năm tháng khốc liệt của cuộc chiến chống Pháp, nhiều người con Việt Nam đã hy sinh để giải phóng tổ quốc. Trong số họ, không thể không kể đến những người phụ nữ dũng cảm, và trong số họ, bà Lê Thị Diễm Thúy là một người đáng kính trọng.
Lê Thị Diễm Thúy, tên thật là Nguyễn Thị Vịnh, sinh năm 1910 ở tỉnh Nghệ An. Bà là người con của một gia đình công nhân. Từ năm 1927, bà đã tham gia vào phong trào công nhân và chính trị, trở thành một trong những ủy viên cấp cao của Đảng.
Năm 1930, bà gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương và tham gia hoạt động tuyên truyền và huấn luyện tại Trường Thi, Bến Thủy. Sau đó, bà làm việc tại văn phòng của Quốc tế Cộng sản, giúp công việc của Nguyễn Ái Quốc.
Tuy nhiên, vào năm 1931, bà bị bắt và bị giam giữ tại Hương Cảng. Sau khi ra tù, bà đã tham gia vào các hoạt động cách mạng và được cử đi hội nghị quốc tế tại Moskva. Tại đây, bà gặp và kết hôn với Lê Hồng Phong.
Năm 1940, bà tiếp tục bị bắt và giam giữ, nhưng vẫn tiếp tục hoạt động cách mạng trong tù. Bà là một trong những nhân vật quan trọng trong phong trào đấu tranh cho tự do và công bằng.
Sau thất bại của Khởi nghĩa Nam Kỳ, bà bị thực dân Pháp kết án tử hình và thi hành án bắn tại Ngã ba Giồng, Hóc Môn vào ngày 26 tháng 8 năm 1941. Trước khi ra đi, bà không hề sợ hãi, mà đã mạnh mẽ lên tiếng lên án tội ác của thực dân Pháp và hô to: 'Đảng Cộng sản Việt Nam mãi mãi!'.
Bà Nguyễn Thị Minh Khai là một tấm gương lớn về tinh thần yêu nước. Bà là một nữ anh hùng của đất nước ta. Nhờ có bà và hàng ngàn chiến sĩ khác, chúng ta mới có cuộc sống yên bình, độc lập như ngày hôm nay.
Kể một câu chuyện về một nữ anh hùng hoặc một phụ nữ có tài - Nguyễn Thị Tuyết
Hôm nay, khi du khách đến thăm thành phố Hải Phòng, họ sẽ được ngắm nhìn bức tượng của nữ anh hùng Nguyễn Thị Tuyết, một tượng đài được đặt tại khu vườn hoa Trung tâm thành phố. Tượng được làm bằng đồng, cao 6m, vô cùng tráng lệ và ấn tượng. Với thanh kiếm bên cạnh, Nguyễn Thị Tuyết hướng ánh mắt uy nghiêm về phía biển Đông, bộ dáng kiêng nể và uy dũng.
Sử sách ghi chép kỹ lưỡng: Nguyễn Thị Tuyết là con gái của ông Nguyễn Đạo, một thầy thuốc được biết đến với phẩm chất đạo đức tại nhiều vùng miền. Bà sinh sống ở làng An Biên (hay còn gọi là làng Vẻn), nằm trong phủ Kinh Môn, hiện thuộc huyện Đông Triều, Quảng Ninh ngày nay.
Vào năm 16 tuổi, Nguyễn Thị Tuyết đã nổi tiếng với tài năng và sức mạnh võ nghệ, cùng với lòng quyết tâm lớn lao. Thời kỳ này, Thái thú Giao Chỉ đầy ác ôn, tàn nhẫn. Không chịu làm tì thiếp, bà đã chịu cảnh cha bị kết tội phản nghịch và bị giết. Từ đó, bà quyết định chống lại quân xâm lược và không ngừng trả thù cho gia đình và quê hương.
Nguyễn Thị Tuyết đã huy động người trẻ và lập nên một cộng đồng mới, dựa vào ngư dân và nghề nuôi trồng để xây dựng lập ấp. Một vùng duyên hải nghề cá dọc theo bờ biển đã được đặt tên là An Biên, như một biểu tượng cho tinh thần quyết tâm của bà. Với sự tích trữ lương thực, và sự rèn luyện vũ khí, chỉ trong vài năm, Nguyễn Thị Tuyết đã có hàng ngàn người sẵn lòng chờ đợi cơ hội để tham gia vào cuộc chiến.
Khi Hai Bà Trưng khởi nghĩa, cùng với nhiều anh hùng nữ khác nổi dậy, Lê Chân dẫn đầu đội nghĩa binh làng An Biên tiến về Luy Lâu để đánh quân Đông Hán. Ngọn lửa cháy rợp trời, tiếng ngựa hí và tiếng trống chiêng rung lên làm bọn giặc hoảng sợ. Chính quyền đô hộ tan vỡ, sụp đổ. Thái thú Tô Định hoảng loạn, bỏ thành trì, ấn tín, cắt tóc, cạo râu, lẻn trốn về phía Bắc. Đó là vào giữa tháng 3 năm 40.
Cuộc khởi nghĩa thành công, sáu mươi lăm thành trì được giải phóng, Hai Bà Trưng lên làm vua, tự xưng là Trưng Vương, đặt đô ở Mê Linh. Nước ta giành được độc lập.
Gần một trăm anh hùng nữ tướng được tôn vinh và giao nhiều nhiệm vụ quan trọng. Trưng Vương sai nữ tướng Thánh Thiên giữ mặt bắc tại Hợp Phố, tướng Đô Dương giữ Cửu Chân ở mặt nam, nữ tướng Lê Chân được phong làm 'Chưởng quản binh quyền nội bộ', đóng trụ sở ở Giao Chỉ,...
Tháng 4 năm 42, nhà Hán sai Mã Viện dẫn quân sang xâm lược nước ta. Bà Trưng và các tướng chỉ huy quân đánh lại. Nhiều trận đánh lớn diễn ra ở Lãng Bạc, cẩm Khê, Hát Môn. Tháng 5 năm 43, Hai Bà Trưng thất bại và buộc phải tự vẫn dưới dòng sông Hát Giang. Nhiều nữ tướng của Bà Trưng đã hy sinh dũng mãnh. Lê Chân đã lấp suối, chặn sông, đánh quyết liệt quân thủy binh của địch. Đến cuối năm 43, Lê Chân đã anh dũng hy sinh tại trận chiến ở vùng Lạt Sơn, Kim Bảng (nay là tỉnh Hà Nam), với tinh thần anh hùng của một người phụ nữ Việt Nam.
Để tưởng nhớ công lao to lớn của nữ anh hùng Lê Chân, nhân dân ở An Biên đã xây dựng đền thờ mang tên đền Nghè, là một trong những di tích lịch sử quý báu của thành phố Cửa Biển.