1. Tham khảo hàng đầu
Bình Ngô đại cáo là một kiệt tác văn học nổi bật, thể hiện sự sâu sắc của tư tưởng Nguyễn Trãi. Trong văn học dân tộc, tác phẩm này được xem là một đỉnh cao, một tác phẩm văn hóa hùng vĩ. Để đạt được thành công ấy, không thể không kể đến đóng góp quan trọng của nghệ thuật lập luận. Bài viết này tập trung vào nghệ thuật lập luận tài tình, điêu luyện trong Đại cáo Bình Ngô.
Nghệ thuật lập luận được thể hiện rõ ngay từ bố cục của tác phẩm. Bài viết được chia thành ba phần chính, mỗi phần tương ứng với một khía cạnh quan trọng của nội dung, tạo nên sự kết nối chặt chẽ và tính nhất quán cho tác phẩm. Qua đó, Nguyễn Trãi xây dựng cơ sở chặt chẽ cho tác phẩm của mình. Bắt đầu bằng việc nêu rõ luận đề về nhân nghĩa, ông mô tả tư tưởng nhân nghĩa như một yếu tố cốt lõi, định hình tư duy của nghĩa quân Lam Sơn. Đối với ông, nhân nghĩa đầu tiên là 'yên dân,' tạo điều kiện cho cuộc sống an lành và hạnh phúc. Trong bối cảnh lịch sử đó, việc 'trừ bạo' là không thể thiếu để đảm bảo yên bình cho nhân dân.
Tiếp theo, Nguyễn Trãi phân tích chân lý về sự tồn tại độc lập của Đại Việt. Ông khẳng định sự tồn tại này như một hiện thực rõ ràng, có từ lâu đời. Ông xác định các yếu tố quan trọng để thiết lập độc lập dân tộc: lãnh thổ, văn hóa, truyền thống, và anh hùng hào kiệt. Điều này được thể hiện như một tuyên ngôn độc lập, xác định nguyên tắc chính nghĩa và minh chứng thông qua lịch sử dân tộc.
Phần thứ hai của tác phẩm tập trung vào tố cáo tội ác của giặc và cuộc kháng chiến đầy khó khăn của nhân dân. Nguyễn Trãi sử dụng những lập luận mạnh mẽ, chi tiết về tội ác mà quân Minh gây ra, đồng thời hé lộ nguyên nhân của cuộc kháng chiến: không thể chấp nhận nỗi đau mà nhân dân phải chịu đựng. Ông mô tả sự khó khăn ban đầu, nhưng cũng là lòng tin và kiên nhẫn của nghĩa quân, cùng với chiến lược linh hoạt, đã đưa họ đến chiến thắng cuối cùng.
Kết thúc tác phẩm là lời tuyên bố về độc lập: 'Xã tắc từ đây vững bền/ Giang sơn từ đây đổi mới,' đánh dấu sự kết thúc của cuộc chiến tranh và mở ra một thời kỳ mới cho đất nước. Tác phẩm này không chỉ có cấu trúc lập luận chặt chẽ mà còn kết hợp nghệ thuật văn học nhằm tạo ra ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc trong lòng độc giả.
2. Tài liệu tham khảo số 3
Trong lĩnh vực văn chương, Nguyễn Trãi được coi là một trong những tâm huyết nhất của văn hóa Việt Nam thời kì trung đại. Ông sáng tạo trên đa dạng thể loại, mỗi thể loại đều phản ánh tài năng đặc sắc của ông. Nguyễn Trãi không chỉ là nhà thơ đầy cảm xúc, mà còn là nhà văn chính luận tài năng. Ông để lại nhiều tác phẩm chính luận (Quân trung từ mệnh tập, chiếu biểu viết dưới triều Lê...) nhưng chỉ cần Bình Ngô đại cáo là đủ để chứng minh tài năng lập luận tài tình của ông.
Có thể nói, Bình Ngô đại cáo đạt tới trình độ mẫu mực từ việc xác định đối tượng, mục đích để sử dụng bút pháp thích hợp đến kết cấu chặt chẽ và lập luận sắc bén.
Đối tượng của văn bản chính luận này không chỉ là giặc Minh với những tội ác kinh hoàng chúng ta đã chịu đựng, đất nước ta mà còn là nghĩa quân Lam Sơn, nhân dân của Đại Việt. Bình Ngô đại cáo là bức tranh văn hóa lớn của thời đại, là bản tuyên ngôn về chủ quyền dân tộc tự do, bản cáo buộc tội kẻ thù, bản ca hùng biện về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Đó cũng là mục tiêu mà Nguyễn Trãi hướng tới.
Nghệ thuật chính luận của bài cáo được thể hiện ngay từ kết cấu sáng tạo. Bình Ngô đại cáo được chia thành bốn phần rất chặt chẽ. Phần thứ nhất, Nguyễn Trãi thiết lập nguyên tắc chính nghĩa như cơ sở xác đáng để triển khai toàn bộ nội dung Bình Ngô đại cáo.
Trong nguyên tắc chính nghĩa, Nguyễn Trãi trình bày hai ý chính là tư tưởng nhân nghĩa:
Việc nhân nghĩa chính là yên bình cho dân,
Quân phải trừ bạo trước khi thực hiện đạo luật.
Và chân lí về sự tồn tại độc lập, có quyền chủ quyền của Đại Việt:
Nước Đại Việt đã có từ lâu,
Với truyền thống văn hóa vững chắc...
Chuyển đến phần thứ hai, thông qua mười hai cặp tứ lục, tác giả hoàn thành bản cáo trạng mạnh mẽ về tội ác của giặc Minh. Bản cáo trạng được trình bày theo một trình tự hợp lý. Ban đầu, tác giả phơi bày kế hoạch xâm lược:
Người Hồ khiến lòng dân bất an,
Trong nước, lòng dân phải đau khổ.
Quân Minh tàn ác khi thấy cơ hội,
Bọn gian tà bán nước với vinh quang.
Sau đó tác giả lên án chế độ cai trị đen tối, mạnh mẽ tố cáo các hành động tội ác:
Đốt nhà dân vàng bốn phía,
Chôn con em sống dưới hầm tàn ác...
Phần văn thứ ba là phần dài nhất của bài cáo, giống như một bức tranh anh hùng về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Phù hợp với hai giai đoạn của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi đã mô tả hình ảnh của chủ tướng Lê Lợi và bức tranh toàn cảnh cuộc khởi nghĩa.
Và cuối cùng, ở đoạn văn thứ tư, nhà văn kết thúc bài cáo bằng lời tuyên bố về sự tự do của dân tộc đã được lấy lại và rút ra bài học lịch sử:
Chấm dứt nỗi oan từ đây vững chắc,
Đất nước đổi mới từ đây phồn thịnh...
Sự điêu luyện trong nghệ thuật chính luận của Nguyễn Trãi không chỉ thể hiện ở kết cấu chặt chẽ mà còn ở cách lập luận tài tình của nhà văn. Tư tưởng nhân nghĩa và độc lập dân tộc là cơ sở chân lí để lập luận. Trước hết, tác giả đưa ra tiền đề có tính chất chân lí để làm cơ sở cho lập luận. Tiền đề đó được chiếu sáng bằng thực tế lịch sử, giúp tác giả xác định nơi nào là phi nghĩa để tố cáo, lên án, và nơi nào là chính nghĩa để khẳng định, ca ngợi cơ sở tiền đề và thực tế, kết luận được rút ra.
Nghệ thuật chính luận còn phản ánh sự gắn bó chặt chẽ giữa lý luận và thực tế. Khi lý giải về chân lí về sự tồn tại độc lập và chủ quyền của Đại Việt, tác giả đưa ra những bằng chứng vững chắc từ thực tế lịch sử trên mọi khía cạnh như lãnh thổ, tập tục, văn hiến, và lịch sử riêng biệt, chế độ riêng biệt:
Như làn sóng nước Đại Việt ta...... cũng nổi bật
Mối quan hệ chặt chẽ giữa lý luận và thực tế cũng được thể hiện rõ ở những đoạn văn sau đó.
Một góc nhìn khác tạo nên sự tài tình trong nghệ thuật chính luận của Nguyễn Trãi là bút pháp. Bình Ngô đại cáo kết hợp giữa bút pháp cá nhân, trữ tình và bút pháp anh hùng ca. Ông không giữ một bút pháp duy nhất mà luôn cân nhắc kết hợp chúng một cách hài hòa trong văn của mình. Ở phần thứ ba, khi đánh giá giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa, mô tả về hình ảnh của Lê Lợi chủ yếu từ phía tâm hồn, Nguyễn Trãi đã sử dụng bút pháp trữ tình kết hợp với bút pháp cá nhân:
Người ngóng người càng thấp thoáng, giống như ngắm nhìn trên đại dương bao la,
Chính bản thân ta phải hết mình, nhanh chóng cứu giúp những người gặp nạn...
Khi tái tạo lại hình ảnh toàn cảnh cuộc khởi nghĩa, từ hình ảnh đến ngôn ngữ, từ màu sắc đến âm thanh, tất cả đều thuần hóa bút pháp anh hùng ca
Gươm và đá, đá núi đã mài mòn,
Voi uống nước, dòng sông đã cạn kiệt.
Đánh một trận, không gì có thể kìm chế,
Đánh hai trận, cả cõi trời đều chấn động.
Gió lớn thổi bay lá khô,
Thuyền lớn phá hủy đê đập...
Do đó, từ kết cấu đến lập luận, từ bút pháp nghệ thuật, tất cả thể hiện Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm chính luận xuất sắc của văn học trung đại Việt Nam.
3. Tài liệu tham khảo số 2
Trong lịch sử văn học dân tộc, có rất ít tác phẩm xuất sắc, đạt đến đỉnh cao về nội dung và nghệ thuật. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là một trong những tác phẩm kiệt xuất của văn học dân tộc. Với tài năng trác việt, Nguyễn Trãi đã dành nhiều khát vọng và tâm sức cho tác phẩm chính luận bất hủ này. Một trong những điểm sáng lớn nhất của bài cáo là ở nghệ thuật lập luận tài tình của nhà văn.
Bình Ngô đại cáo, một thể loại văn chính luận trung đại, không chỉ là một văn bản hành chính thông thường. Nguyễn Trãi đã biến nó thành một tác phẩm giàu chất văn chương, với cấu trúc chặt chẽ và lập luận sắc bén. Tác phẩm đạt đến trình độ nghệ thuật đỉnh cao, xác định đối tượng và mục đích rõ ràng, với giọng điệu hùng hồn và ngôn ngữ giàu tính luận chiến.
Đại cáo Bình Ngô không chỉ thông báo về nền hòa bình độc lập của Đại Việt sau hơn hai mươi năm chống giặc, mà còn là đòn cuối cùng trên mặt trận ngoại giao, khóa chặt mọi âm mưu xâm lược của kẻ thù. Tư tưởng nhân nghĩa và những dẫn chứng đanh thép làm nền móng vững trãi của tác phẩm. Bài cáo là một lời tự sự từ tận trái tim, hòa quyện giữa hiện thực và trữ tình, tạo nên một kiệt tác nghệ thuật độc đáo.
Nguyễn Trãi, với nhân cách, đức độ và tài năng, đã để lại một tác phẩm chính luận kiệt xuất, làm Bình Ngô đại cáo trở thành áng văn chính luận mẫu mực, có giá trị cổ điển, là đỉnh cao của nghệ thuật văn chính luận trong lịch sử văn hóa Việt Nam.