Tổng hợp hơn 30 bài văn Phân Tích Đoạn 3 Về Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm tốt nhất, ngắn gọn với dàn ý chi tiết giúp học sinh có thêm tài liệu tham khảo để viết văn tốt hơn.
Tốp 30 Phân Tích Đoạn 3 Về Đất Nước (hấp dẫn, ngắn gọn)
Phân Tích Đoạn 3 Về Đất Nước - mẫu 1
Từ xưa đến nay, viết về đất nước luôn là nguồn cảm hứng chủ đạo của văn học. Tiếp tục truyền thống văn học dân tộc, tác giả Nguyễn Khoa Điềm, một nhà văn nổi tiếng trong văn học chống Mỹ, đã có những quan điểm mới mẻ về ước mơ của đất nước. Quan điểm này được ông thể hiện rõ nhất qua đoạn trích “Đất Nước” trong sử thi Mặt Đường Đầy Khát Vọng.
Đất Nước mang nhiều ý nghĩa khác nhau với mỗi người. Với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, bằng tình yêu của mình và sự phân tích sắc bén, từng khía cạnh về đất nước dần được ông hé lộ. Ông không định nghĩa theo cách trừu tượng mà dựa trên những trải nghiệm cụ thể trong cuộc sống:
Khi chúng ta trưởng thành, đất nước đã có sẵn
Đất Nước đã xuất hiện trong những câu chuyện 'ngày xưa kia' mẹ thường kể
Đất Nước bắt đầu từ cục trầu bà đang ăn
Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre và chống giặc
Theo quan điểm của tác giả, hình ảnh Đất Nước hiện ra vô cùng giản dị, từ truyện cổ tích, từ cục trầu, từ truyền thuyết Thánh Gióng trồng tre chống giặc Ân. Tổ quốc ta bắt đầu từ những ngày đó, đã thấm vào tâm hồn mỗi đứa trẻ từ khi còn bé.
Nước không chỉ là một chất lỏng, mà nó còn được hình thành từ những phong tục truyền thống, từ văn hóa, tập quán đẹp của dân tộc ta. Hình ảnh 'tóc mẹ vén sau đầu' thể hiện nét đẹp của sinh hoạt văn hóa lưu truyền từ đời này qua đời khác của tổ tiên ta. Trong nghìn năm Bắc thuộc, dù phương Bắc cố gắng Hán hóa bằng mọi cách, nhưng không có cách nào xóa bỏ được tinh thần cao quý của dân tộc ta. Đất nước còn được hình thành từ lối sống trung thực, tình cảm, bắt nguồn từ tình thương giữa vợ chồng: 'Cha mẹ yêu nhau gừng cay muối mặn'. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng thơ ca dao: 'Tay nâng đĩa muối gừng/ Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau' để cho thấy Đất Nước được hình thành từ những điều có vẻ đơn giản nhưng rất quý giá và cao quý.
Tiếp tục dòng cảm hứng ấy, tác giả Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục bày tỏ quan điểm về khái niệm Đất Nước:
Đất là nơi anh em chúng ta đi học
Nước là chỗ em tắm
Đất Nước là nơi ta hẹn hò
Đất nước là nơi em vô tình đánh rơi chiếc khăn trong lòng nhớ thầm
Đất nước không còn là điều xa lạ mà là một phần không thể thiếu của cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm không ngần ngại khẳng định rằng nơi đó là nơi đi học, tắm, hẹn hò và nhớ thương. Vâng, đó chính là quê hương được hình thành từ những điều giản dị nhất của cuộc sống. Và để củng cố niềm tin ấy, ông đã truy tìm nguồn gốc, về quá khứ: “Đất nước là nơi mọi người tụ họp/ Đất là nơi chim trở về/ Nước là rồng ở/ Lạc Long Quân, Âu Cơ/ Sinh con cho dòng dõi trong vỏ trứng”. Từ sự lý giải sâu sắc về lịch sử và địa lý, ông dần dần hoàn thiện khái niệm về Đất nước. Đồng thời cũng nhấn mạnh trách nhiệm của mỗi người đối với cuộc sống của đất nước: “Người đã khuất/ Kẻ còn sống/ Yêu nhau mà thôi con/ Chấp nhận phần người đi trước để lại// Xin dạy con cháu mai sau phải làm gì/ Ăn ở đâu hàng năm/ Con cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”. Hai từ “gánh” đã khẳng định thế hệ mai sau có trách nhiệm trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ông cũng nhắc nhở, dù đã xây dựng nước cũng không được quên công lao của những người đã dựng nước. Chỉ với hai từ “lạy” cũng thể hiện được tấm lòng cao cả, thiêng liêng hướng về quê cha đất tổ, nơi tổ tiên sinh ra và lớn lên.
“Trong chúng ta ngày nay/.../Đất nước vững chắc và lớn mạnh”, câu thơ đã khẳng định, đất nước tồn tại và mạnh mẽ nhờ vào sự đoàn kết của mọi người, của tình yêu đôi lứa. Chỉ khi có sự hài hòa giữa cá nhân và cộng đồng, giữa cá nhân và tập thể, thì mới có một đất nước vĩ đại và toàn vẹn. Và từ đó, ông cũng cao quý trách nhiệm của từng người dân cũng như của toàn bộ thế hệ trẻ đối với đất nước như: “Các em ơi, đất nước chính là máu thịt của chúng ta/ Phải biết gắn bó và chia sẻ/ Phải biết thích nghi với hình dáng của đất nước/ Để đất nước mãi mãi vững bền” bởi:
Những người vợ nhớ chồng vẫn đóng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Ai đã tạo ra những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm?
Các địa danh, danh lam thắng cảnh được ông đặt tên. Mỗi nơi đều liên quan đến một chiến công, một sự hy sinh không tiếng động để đất nước luôn rạng ngời. Điều này đã khiến Người kết luận: “Ruộng nương ở khắp mọi nơi/…/Đời ta đã trở thành núi sông”.
Xây dựng đất nước không phải chỉ do một cá nhân mà là của tất cả. Vậy ai, thực sự là ai?
Không ai ghi nhớ họ
Nhưng họ đã tạo nên Đất Nước Thật sự, những người vô danh, những cô gái, những chàng trai, họ “sống chết” “giản dị và bình lặng” họ đặt tên làng, gìn giữ những phong tục tập quán để truyền lại cho đời sau. Họ cũng đã làm nên đất nước. Bằng cách liệt kê và nói về “họ”, Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ lên một bức tranh về những người vô danh truyền lại giá trị vật chất và tinh thần cao quý cho con cháu. Mục tiêu của họ là:
Để Đất Nước này thuộc về Nhân Dân
Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của những câu chuyện dân gian và thần thoại
Về vấn đề này, Nguyễn Khoa Điềm cũng rõ ràng khẳng định quan điểm tư tưởng của mình về đất nước và nhân dân. “Trở về cội nguồn của đất nước là trở về cội nguồn của văn hóa dân gian giàu đẹp” mở đầu cho truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta. Đồng thời, cũng là nơi tạo dựng và khơi dậy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc ta:
Dạy anh biết “yêu em từ khi còn ở trong nôi”
Biết trân trọng công lao vàng những ngày gian khó
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ kéo dài thời gian
Bài thơ kết thúc bằng những bản ca tự hào, lan tỏa khắp núi sông. Đồng thời, tiếng hát đó cũng thể hiện lòng tự hào sâu sắc của tác giả về truyền thống văn hóa uy nghi của tổ tiên.
Đất Nước là một bài thơ giàu triết lí, thể hiện quan điểm mới mẻ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Với bài thơ này, người đọc được mở mang kiến thức và có cái nhìn chân thực hơn về Đất nước trong suốt chiều dài lịch sử. Từ đó, người ta càng yêu quý và tự hào hơn về quê hương mình đã sinh ra và lớn lên.
Cấu trúc Phân tích phần 3 của bài văn Đất nước
Bắt đầu: Giới thiệu tác giả, tác phẩm và vị trí của đoạn trích.
Nội dung chính:
Đất nước ra đời từ thời xa xưa, liên quan chặt chẽ với các truyền thuyết, truyện cổ tích từ xa xưa.
– Tạo nên những truyền thống tốt đẹp của dân tộc từ các câu chuyện cổ tích, dựa trên các truyền thuyết.
– Sự kể về Trầu Cau, tái hiện lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam như tình anh em sâu sắc, lòng trung thành của vợ chồng, và nhấn mạnh vào những phong tục đẹp của dân tộc, như việc ăn trầu nhuộm răng.
– Câu chuyện về Thánh Gióng làm cho ta nhớ về truyền thống yêu nước, dũng cảm đối đầu với kẻ thù ngoại xâm của dân tộc.
– Đất nước đã tồn tại từ lâu đời, khởi nguồn từ những phong tục truyền thống của cha ông.
– Dòng 'Tóc mẹ búi ra sau đầu' mang lại kỷ niệm về phong tục của các bà, mẹ xưa khi búi tóc thấp sau đầu.
– 'Cha mẹ thương nhau bằng muối gừng cay' là biểu tượng của truyền thống tôn trọng tình nghĩa vợ chồng.
– Đất nước đã tồn tại từ rất lâu đời, phát triển cùng với sự tiến bộ của con người Việt Nam trong cuộc sống hàng ngày, từ việc xây nhà, trồng lúa, đến việc trồng cây...
– Về mặt địa lý, Đất Nước là nơi con người sinh sống, tương tác hàng ngày như 'nơi em đi học', 'nơi em tắm',... Đây là một không gian gần gũi, thân thuộc. Tuy nhiên, Đất Nước cũng mang trong mình vẻ đẹp cao quý, hùng vĩ như 'núi bạc', 'biển cả', là nơi mọi người trở về sau những ngày xa quê.
– Về khía cạnh lịch sử:
Quá khứ đó là một thời kỳ của đất nước vĩ đại và linh thiêng. Tác giả cũng nhắc nhở về dòng dõi cao quý của dân tộc ta, là con cháu của rồng tiên. Đồng thời, ông cũng kể về những truyền thống hào hùng trong việc xây dựng và bảo vệ đất nước từ cha ông chúng ta.
Trong thời hiện tại, đất nước hiện hữu gần gũi và thân thuộc, hiện diện trong mỗi con người, là nơi mỗi ngôn ngữ giao tiếp và tư duy, và nơi mỗi nếp sống gìn giữ bao phong tục tập quán tốt đẹp.
Trong tương lai, Đất nước sẽ chứa đựng nhiều triển vọng sáng láng, với những thế hệ sau được kỳ vọng và gánh vác trách nhiệm lớn về trí tuệ và tầm vóc, tạo nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc.
Tư tưởng Quốc gia của nhân dân ta:
– Về không gian và địa lý:
– Đất nước được mô tả qua những danh lam thắng cảnh của Việt Nam, thể hiện niềm tự hào của tác giả về quê hương, đất nước.
– Nhắc nhở về những truyền thống tốt đẹp thực sự của dân tộc.
– Đất nước ta là một dải núi sông liền nhau, thể hiện ý chí thống nhất Tổ quốc, Bắc Nam một nhà của nhân dân ta.
Biểu tượng cho vẻ đẹp tinh thần của Việt Nam, là lòng kiên trung và trung thành trong tình vợ chồng, cũng như ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, gợi lại thời hào hùng dựng nước và nhắc lại truyền thống hiếu học của dân tộc ta, kể cả những điều giản dị nhất như con cóc, con gà cũng góp phần làm nên cảnh đẹp cho quê hương.
=> Tư tưởng vững mạnh về đất nước của nhân dân được quảng bá mạnh mẽ, vì đất nước là thành tựu của nhân dân, một phần không nhỏ của công lao đó thuộc về Nguyễn Khoa Điềm.
Vài nét về thời đại và lịch sử quê hương:
– Trong suốt 4000 năm lịch sử, dù không ai ghi tên họ nhưng những người đã hy sinh và dựng nước, là những anh hùng bất khuất của dân tộc.
– Nhân dân không chỉ là người xây dựng và bảo vệ đất nước, mà họ còn là người truyền đạt những giá trị văn hóa tinh thần cho thế hệ sau.
Về mặt văn hóa:
– Tác giả đã chọn ba câu ca dao đặc trưng để tôn vinh ba phẩm chất văn hóa tinh thần của người Việt, thể hiện sự tiêu biểu trong văn hóa dân gian của dân tộc.
– “Yêu em từ thuở nằm nôi/ Em nằm em khóc, em ngồi em ru”, là biểu hiện cao quý nhất của tình yêu, sự quan tâm đến những người thân yêu.
– “Mang vàng qua sông, vàng rơi không tiếc/Còn hơn giữ vàng mãi không bao giờ dám sử dụng”, thể hiện sự quan trọng của tình thân hơn là những vật chất phù du.
– “Mối thù này kéo dài mãi mãi/Dù trồng tre cả đời vẫn chưa đủ gậy chống”, tôn vinh sự kiên trì trong cuộc chiến chống lại thù địch của nhân dân Việt Nam qua thế hệ.
Kết bài: Tổng hợp lại ý nghĩa nội dung và giá trị nghệ thuật của bài thơ.
Phân tích phần 3 của bài thơ Đất Nước - mẫu 2
Đất nước luôn là một đề tài vĩnh cửu trong văn học và nghệ thuật, là niềm đam mê của nhiều nghệ sĩ. Ngay cả trong những thời kỳ chiến tranh gay gắt, lòng yêu nước vẫn rực cháy trong lòng mỗi người con Việt. Đoạn trích từ bài thơ “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm thể hiện điều này rất rõ.
Trong văn học thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, các nhà thơ như Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật… đã thể hiện tinh thần đoàn kết của dân tộc bằng những bài thơ như:
“Băng qua dãy Trường Sơn để cứu nước”
và lòng mãnh liệt hướng tới tương lai.”
Một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất của văn học Việt Nam thời kỳ đó không ai khác ngoài Nguyễn Khoa Điềm, một nhà thơ đã trưởng thành trong cuộc kháng chiến đầy cam go nhưng thắng lợi của dân tộc.
Khi nhắc đến Nguyễn Khoa Điềm, không ai có thể quên phong cách thơ của ông, một thơ trữ tình sâu sắc và chính trực. Thơ của Nguyễn Khoa Điềm thu hút người đọc bằng sự chứa đựng cảm xúc sâu lắng, đầy chất suy tư, thể hiện tinh thần của người trí thức tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh của nhân dân. Một trong những tác phẩm nổi bật của ông là đoạn trích từ bài thơ “Đất nước” trong chương V của tác phẩm “Bài ca dài với mặt đường khao khát” hoàn thành tại chiến khu Trị – Thiên năm 1971, và được xuất bản lần đầu vào năm 1974.
Tác phẩm này đã thành công trong việc khẳng định tư tưởng “Đất nước thuộc về nhân dân”, được nhân dân bảo vệ và gìn giữ mãi mãi, không chỉ trên mặt trận địa lý rộng lớn, trong quá khứ lịch sử mà còn sâu sắc trong văn hóa dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm đã đặt ra hàng trăm câu hỏi: “Đất nước này được xây dựng bởi ai, ai sẽ bảo vệ, gìn giữ suốt hàng vạn năm?” Để trả lời những câu hỏi này, ông đã dẫn dắt cảm xúc của mình trở lại nguồn gốc của Tổ quốc.
Khi nói về vẻ đẹp của đất nước từ nhiều khía cạnh sâu xa của văn hóa, chúng ta phải hiểu rằng văn hóa là những giá trị mà con người của một vùng đất tạo ra. Đó có thể là giá trị tinh thần, có thể là giá trị phi vật chất. Một lần nữa, Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh rằng người Việt Nam không chỉ chung tay bảo vệ lãnh thổ mà còn chia sẻ, kế thừa nhau những giá trị của dân tộc, với những nét đẹp chân thực của người Việt Nam. Những giá trị này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ trái tim của người lớn đến trái tim của người trẻ, là nét đẹp sâu sắc của bản sắc dân tộc Việt Nam. Đất nước bắt đầu từ một cách trang trọng nhưng rất đơn giản và gần gũi:
Câu “Khi lớn lên ta nhận ra Đất Nước đã có sẵn” mô tả quá trình phát triển của đất nước trong lịch sử, đất nước như một sinh vật sống với nội lực mạnh mẽ. Nghệ thuật miêu tả chi phối toàn bộ bài thơ, giúp tạo nên bức tranh về cuộc sống thôn quê bình dị, gần gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, nơi đó thể hiện sự hòa hợp trong gia đình, tình thân thiết xóm làng. Đất nước cũng là một phần của ký ức mỗi người sinh ra.
“Khi trưởng thành, ta nhận ra Đất Nước đã có từ lâu,”
Ngày xưa, đất nước đã trở thành chủ đề của những câu chuyện mà mẹ thường kể.
Nhà thơ quay trở lại với những ngày xưa, đưa ta vào thế giới cổ tích kỳ diệu, nơi mà đã tạo ra nguồn cảm hứng cho cuộc sống và tâm hồn của chúng ta, dạy cho ta về những bài học quan trọng về lòng nhân hậu, tình yêu thương và sự chăm sóc lẫn nhau.
“Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bà nhai” - Một phần của truyền thống nhuộm răng và nhai trầu của người già. Câu tục ngữ “miếng trầu là đầu câu chuyện” thể hiện vẻ đẹp của truyền thống trầu cau trong văn hóa dân tộc. Đất nước là kết quả của văn hóa từ tâm hồn người Việt. Từ truyện dân gian đến tục ngữ, “miếng trầu” đã trở thành một biểu tượng của tình yêu thủy chung, thể hiện lòng trung thành của người Việt. Tiếp theo, nhà thơ dẫn dắt chúng ta về làng Phù Đổng để nghe về truyền thuyết về Thánh Gióng chiến thắng giặc Ân.
“Đất nước trưởng thành từ việc dân ta biết trồng tre để đánh giặc”
Hình ảnh trồng tre đánh giặc lặp lại trong toàn bộ 90 câu thơ. Đây là biểu tượng của truyền thống yêu nước, đánh giặc bảo vệ đất nước của người Việt Nam. Cây tre đã trở thành biểu tượng của sức mạnh và tinh thần đánh giặc cứu nước, của phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam. Từ “trưởng thành” khơi gợi niềm tin và niềm tự hào dân tộc.
Giọng thơ trầm ấm, trang trọng kêu gọi suy ngẫm về nguồn gốc của đất nước giàu triết học nhưng vẫn đầy cảm xúc và trung thành. Sự cảm nhận, cách lý giải về nguồn gốc của Đất Nước bằng những hình ảnh quen thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước thân quen, gần gũi, đơn giản ngay trong cuộc sống hàng ngày của mỗi người. Câu ca dao: “Tóc mẹ vén sau đầu” gợi lại hình ảnh của phụ nữ Việt Nam theo truyền thống.
Đất nước đã trưởng thành từ cống hiến của mọi người. Hạt gạo, hạt gạo được tưới bằng mồ hôi, lao động của hàng thế hệ. Đất nước lớn lên từ công lao của cha mẹ và tình thương của họ: “Cha mẹ thương nhau gừng cay muối mặn”. Nó là chất liệu của ca dao, tục ngữ và là biểu tượng của tình thương và lòng trung thành của người Việt Nam.
Câu ca dao “Kèo, cột thành danh” ám chỉ phong tục đặt tên xấu cho con để dễ nuôi dạy. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong câu thơ thứ tám “Gạo phải xay, giã, sàng, sảy” thể hiện các công đoạn để tạo ra hạt gạo - biểu tượng cho văn minh lúa nước của đất nước, luôn bảo vệ giống cây, bản sắc dân tộc Việt Nam. Những giá trị cha mẹ truyền lại, thầy cô truyền đạt và ông bà truyền dạy qua ca dao, tục ngữ.
Và nhân dân là những người thực sự truyền lại nét đẹp văn hóa của đất nước, của người Việt Nam. Dần dần, tác giả nhận ra: “Đất nước có từ ngày ấy…”, không biết ngày ấy bắt đầu từ khi nào, chỉ biết rằng đã từ rất lâu. Chỉ biết rằng, đất nước đã tồn tại từ khi có truyền thuyết, huyền thoại, từ khi dân tộc Việt Nam hy sinh máu xương để giữ gìn từng tấc đất thiêng liêng.
“Ngày ấy” vừa là trạng ngữ chỉ thời gian trong quá khứ, vừa là đại từ thay thế. Đất nước đã tồn tại từ khi mẹ tôi kể cho tôi nghe những câu chuyện cổ tích, từ khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, trồng lúa, ăn trầu và sống nghĩa tình thủy chung.
Như đã nói ở trên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành trong quân đội, là một trong những nhà thơ sâu rộng với đất nước. Khi nói về chiều rộng của không gian địa lý, chúng ta cần nhớ rằng địa lý là tất cả các yếu tố tự nhiên trên lãnh thổ quốc gia. Là người đã đi khắp nẻo đường của đất nước, ông hiểu biết mỗi danh thắng trên lãnh thổ Việt Nam.
“Những người vợ nhớ chồng đã góp phần xây dựng Đất Nước Những dãy núi Vọng Phu
….
Những người dân nào đã đóng góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Cảm nhận ban đầu khi đọc tám câu thơ là ta như bị cuốn vào không gian cổ tích, thần thoại. Toàn bộ bài thơ giống như một kho truyện cổ, kể về những truyền thuyết như “núi Vọng Phu” hay “hòn Trống Mái”.
Tác giả lại một lần nữa đóng vai người hướng dẫn đưa chúng ta trở về làng Phù Đổng, để nghe về Thánh Gióng đánh tan quân Ân xâm lược. Đó là biểu tượng của truyền thống yêu nước. Dù mỗi dòng thơ có độ dài khác nhau nhưng lại có cấu trúc giống nhau, được nối với nhau bằng điệp ngữ “góp”.
Bài thơ có thể chia làm hai phần theo từ “góp”, mỗi phần thể hiện một khía cạnh đối lập. Phần đầu viết về con người, mộc mạc, giản dị, đầy tình cảm, có chút e ấp, đáng thương. Ngược lại, phần sau nói về đất nước, lời thơ đa sắc màu. Nghệ thuật tương phản này cũng là lời ca ngợi sự hy sinh của nhân dân vì đất nước. Đằng sau mỗi địa danh là một câu chuyện, một huyền thoại và đằng sau những huyền thoại là những người có công với đất nước.
Nguyễn Khoa Điềm nhắc đến những nơi không tên. Có người từng nói “đất hoang là đất không tên”. Việc đặt tên địa danh là vô cùng quan trọng, không thể tùy tiện. Có rất nhiều địa danh đã được phản ánh trong các bài thơ dân tộc ca ngợi cảnh sông núi hùng vĩ, địa linh nhân kiệt.
Tuy vậy, Nguyễn Khoa Điềm không đi theo hướng đó, ông miêu tả sự phát triển của những nơi đó bởi ở đó có lòng trung thành, gắn bó, có máu mủ, có tài năng, có danh vọng, có khí thế và tinh thần của nhân dân. Đây là kết quả của sự hy sinh cao cả của dân tộc. Có thể nói tám câu thơ giúp người đọc thấy được sự kỳ diệu của thế hệ trước, công ơn của nhân dân xây dựng đất nước.
Nếu tám dòng thơ trước rực rỡ với sắc màu và hình ảnh thơ, bốn câu thơ sau là những cảm xúc suy tư của chính trị xen lẫn suy tư của một trí thức.
Đầu tiên, hai câu thơ sau:
“Ở mọi nơi trên ruộng đồng và đất liền
Không còn hình bóng, ước mơ, hoặc lối sống của ông cha”
Viết liền mạch, sử dụng lối diễn đạt từ phủ định chuyển thành khẳng định. Giống như một tuyên ngôn sôi nổi, thể hiện mạnh mẽ những hy sinh to lớn của nhân dân. Tiếp theo, câu thơ thứ ba: “Ôi đất nước bốn nghìn năm nhìn đâu cũng thấy” với thán từ “Ôi”, thể hiện sự nghẹn ngào trước những hi sinh to lớn của các vĩ nhân.
Tác giả nhấn mạnh về chiều dài lịch sử của dân tộc với cụm từ “bốn nghìn năm”. Đó là sự kéo dài của lịch sử, với mỗi đời cha đi trước, đời con tiếp bước, tất cả đều là anh hùng. Kết thúc bài thơ là câu “Đời đã biến núi sông ta…” thể hiện sự biến đổi. Mỗi câu trước có từ mười ba đến mười lăm âm tiết, nhưng ở câu cuối chỉ có tám âm tiết, thể hiện sự chiêm nghiệm và kết luận cô đọng.
Đời người dù ngắn ngủi hữu hạn, nhưng hóa thành sông núi của đất nước, gửi gắm uy nghiêm vô biên, trường tồn bất biến. Điều này khẳng định cá tính của chúng ta và thật đáng kinh ngạc! Họ không chỉ tạo nên hình dáng đất nước mà còn làm nên tâm hồn của nó.
Ngoài vẻ đẹp về không gian địa lý, đất nước còn phản ánh lịch sử dài lâu. Nguyễn Trãi, một nhà sử học chính thống, thể hiện lịch sử Việt Nam như một chuỗi liên kết các triều đại và các vị vua:
“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần qua hàng nghìn năm xây dựng nền độc lập
Với Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi nơi tự xưng vị vua một phương hướng”
Tuy nhiên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo cách của một nhà sử học chính thống. Đoạn thơ này có lẽ là phần nặng về mặt lịch sử nhất trong tác phẩm này:
“Em ơi em
Hãy nhìn xa xăm
Về bốn ngàn năm của Đất Nước”
Mỗi thời đại đều có người người, lớp lớp
Cô gái, cậu trai bằng tuổi chúng ta
Chăm chỉ lao động
Khi thấy kẻ thù, người con trai ra trận chiến
Còn người con gái trở về chăm sóc con của họ”
Trong khi nhà thơ Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử của đất nước theo cách của một nhà sử học chính thống, Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp cận lịch sử một cách mở rộng. Ông tập trung vào con số “bốn ngàn năm”. Đó là bốn ngàn thế hệ người Việt ra trận, từ cha đến con, cùng chung lòng dũng cảm trước giặc ngoại xâm. Đó là một cuộc đua không ngừng nghỉ của những con người Việt Nam. Thảo luận về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không nhắc đến các triều đại hay những anh hùng nổi tiếng mà tập trung vào vai trò của những con người bình thường:
“Trong bốn nghìn đời con người giống chúng ta
Họ đã sống và chết
Một cách giản dị và bình thường
Không ai nhớ khuôn mặt của họ
Nhưng họ đã tạo nên Đất Nước.”
Họ đã xây dựng Đất Nước thông qua công việc hàng ngày và suốt cuộc đời của họ:
“Nhưng họ đã tạo ra Đất Nước
Họ giữ và truyền lại hạt lúa mà chúng ta gieo
Họ chuyển lửa qua từng gia đình, từ đống than qua bếp lò
Họ truyền bản sắc cho con cái khi học nói
Họ mang theo tên làng, tên xã trong mỗi cuộc di cư
Họ xây đập, lập bờ cho thế hệ sau trồng cây hái trái
Đối mặt với kẻ thù ngoại xâm, họ chống lại nó
Đối phó với mối thù nội, họ đứng lên và đánh bại
Họ truyền đạt lửa đam mê yêu nước cho nhau. Họ bảo vệ đất nước từ thời vua Hùng và các vị thánh tiên. Họ gìn giữ và truyền lại cho thế hệ sau mọi di sản văn hóa, tinh thần và vật chất của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, tên xã, và tên làng cùng truyền thống chống thù ngoại.
“Ta viết những vần thơ trên báng súng
Con trưởng thành viết tiếp nhiệm vụ thay cha
Ai đang nằm dưới thì kẻ đứng dậy viết tiếp
Ngày hôm nay là tiếp nối của ngày hôm qua”
Nhân dân đã ghi lại những trang sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Việc viết lên lịch sử hùng vĩ, vẻ vang của dân tộc là công sức, mồ hôi và nước mắt của nhân dân. Như trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân, chúng ta nhớ về hình ảnh một anh hùng giải phóng quân:
“Anh ngã xuống sân bay Tân Sơn Nhất
Nhưng anh đã vùng lên bắn súng trên xác trực thăng
Anh hy sinh trong hào hùng tưng bừng
Máu anh rơi xuống như cầu vồng của lửa đạn.
Bất ngờ thấy kẻ thù chạy tán loạn, xin nhường chỗ
Một kẻ ngã xuống, chân anh né tránh đạn
Dù anh đã khuất phục, nhưng tinh thần dũng cảm vẫn tồn tại
Anh vẫn đứng vững, nắm súng tiến lên chiến đấu
Tên anh là gì hỡi người anh dũng cảm?
Anh vẫn đứng im như một tảng đá vững chãi
Như đôi giày dưới chân anh giẫm lên hàng ngàn xác Mỹ
Nhưng vẫn giữ nguyên vẻ đẹp bình dị, trong lành
Không hình ảnh, không địa chỉ nào
Anh không để lại gì cho riêng mình
Anh trước khi ra đi
Chỉ để lại hình ảnh của một người con Việt Nam khắc sâu vào thế kỷ:
Anh là một chiến sĩ của quân Giải phóng.
Tên anh đã trở thành biểu tượng của đất nước
Ôi Anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên trong ánh nắng rực rỡ của mùa xuân”
Không có địa chỉ, không có hình ảnh trước khi ra đi, nhưng những người đó vẫn tự nguyện ra đi để bảo vệ đất nước, sẵn sàng hy sinh để “Tổ quốc tỏa sáng trong mùa xuân”.
Như Engels từng nói: “Không máu, không mồ hôi và không nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Tư duy sâu xa dẫn đến tư duy cốt lõi, là trung tâm và cũng là đỉnh cao của tình cảm trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước Là Của Nhân Dân. Khi thể hiện ý niệm Đất nước của nhân dân, tác giả đã quay lại với nguồn gốc văn hóa, văn hóa dân gian đẹp mênh mông thể hiện qua ca dao, vẻ đẹp tinh thần của con người. Hơn hết, ở mọi nơi có thể tìm thấy trong ca dao, ca dao, cổ tích: Đất nước của Nhân dân, Đất nước của dân gian mang tính thần thoại. Câu thơ với hai vế song hành cũng là một cách định nghĩa đất nước giản dị nhưng cũng rất độc đáo. Văn hóa Việt Nam là văn hóa của nhân dân, do nhân dân sáng tạo ra. Trong nền văn hóa ấy, có những câu ca dao thần thoại luôn chứa đựng lịch sử, xã hội, văn hóa của đất nước, đặc biệt là đời sống tinh thần của nhân dân.
Nhà thơ cũng tận dụng ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không phải là sự lặp lại mà là sự sáng tạo, không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng những ý nghĩa, hình ảnh của ca dao, nhắc nhở những ca dao mà trở thành câu thơ, có một ý thơ gắn bó trong khung cảnh chung của cả bài thơ để khẳng định rằng: Người Việt Nam trân trọng tình yêu quê hương.
Sự thành công nghệ thuật của mỗi đoạn thơ này nằm ở việc kết hợp các yếu tố dân gian với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra một phong cách thẩm mỹ quen thuộc nhưng độc đáo. Văn hóa, văn hóa dân gian được tận dụng đầy đủ để tạo ra không khí, âm điệu và không gian nghệ thuật riêng biệt: gần gũi, mộc mạc nhưng cũng bay bổng, mơ màng như dân ca, huyền thoại, nhưng mới mẻ qua cách cảm nhận và thể hiện bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói, tinh thần dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm của tác giả, tạo nên những đặc điểm nghệ thuật xuất sắc của đoạn thơ này.
Qua đoạn trích Đất Nước, ta một phần nhận thấy nét đặc sắc trong phong cách thơ của Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận và trữ tình, giữa suy tưởng và cảm xúc, ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi, và hơi thở của cuộc sống. Chính luận đã làm sáng tỏ chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình phong phú. Bài thơ “điệp nhịp đập con tim” khiến ta thêm yêu và tự hào về 4000 năm lịch sử của đất nước Việt Nam. Qua đó ta thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, lịch sử hay văn hóa, “Đất nước này là của nhân dân”, sẽ được nhân dân bảo vệ và gìn giữ mãi mãi. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chọn lọc, tinh luyện và kết hợp trong thơ mình những nét đẹp duyên dáng của văn hóa dân gian và thơ văn hóa. Và sự thống nhất trong toàn bài thơ với những câu thơ dài ngắn xen kẽ như cùng với sự trào dâng của cảm xúc, của dòng suy nghĩ bồng bềnh. Xuyên suốt cả bài thơ, hai chữ “Đất nước” luôn được viết hoa trang trọng, lặp đi lặp lại như một câu chủ đề trong những bản anh hùng ca về sông núi. Nhờ đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc cùng với trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ được viết theo thể thơ lục bát, kể lể, liệt kê, khó đọc, khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong tác phẩm này, ông xứng đáng là một trong những nhà thơ tiêu biểu của Việt Nam. nhiều nền văn học Việt Nam ngày ấy. Đồng thời, “Đất nước” cũng xứng đáng trở thành hành trang tinh thần lâu dài của những người yêu văn học về đề tài tình yêu quê hương, đất nước và có giá trị cho đến tận ngày nay.
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 3
Đất nước được tạo nên bởi tâm hồn, bởi tâm hồn của mỗi người con dân tộc đã trao gửi tình yêu và dòng máu của mình vào đó. Khổ thơ thứ ba là những lập luận sắc bén nhưng cũng rất trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, qua đó giúp người đọc trả lời câu hỏi: Đất nước do ai làm ra?
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Các con rồng yên bình nằm ngủ dưới dòng sông xanh thẳm
Những học trò nghèo giúp đỡ đất nước bằng cách góp phần tạo nên núi Bút, non Nghiên.
Cả con cóc và con gà quê hương đều đóng góp vào việc làm cho Hạ Long trở thành một cảnh đẹp thắng lợi
Những người dân đã góp phần tạo nên các địa danh như Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và khắp nơi trên ruộng đồng và trong những cánh đồng
Chẳng mang theo hình ảnh, ước mơ, hay cách sống riêng của tổ tiên”Về quá khứ, Nguyễn Khoa Điềm thể hiện một cách nhìn độc đáo của mình. Thay vì chỉ tập trung vào vẻ đẹp của cảnh đẹp thiên nhiên, ông nhìn sâu vào tâm hồn để khám phá truyền thuyết và lịch sử ẩn sau mỗi vùng đất. Ông nhìn nhận rằng núi non, dòng sông không chỉ là sản phẩm của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của tâm hồn con người. Các câu chuyện về Hòn Vọng Phu, Hòn Trống, Hòn Mái không chỉ kể về sự chia ly và chờ đợi trong chiến tranh mà còn ca ngợi tình yêu thủy chung. Tên gọi như Hòn Trống, Hòn Mái trở thành biểu tượng của tình yêu vĩnh cửu. Những ngọn đồi xung quanh núi Hy Cương, nơi đặt đền thờ các vua Hùng, chứng tỏ lòng yêu nước và lòng thống nhất của nhân dân. Núi Bút, Non Nghiên biểu thị sự hiếu học và tinh thần chiến đấu của dân tộc Việt Nam.
Thứ hai, trong việc tìm câu trả lời cho câu hỏi về người đã tạo ra đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không chỉ có cái nhìn mới mà còn có cách cảm nhận mới. Ông nhấn mạnh rằng đất nước không chỉ là sản phẩm của thiên nhiên mà còn là kết quả của tâm hồn con người. Từ nỗi đau cá nhân, mỗi cá nhân đã đóng góp vào hình ảnh của đất nước. Truyền thuyết về Hòn Vọng Phu, Hòn Trống, Hòn Mái không chỉ kể về sự chia ly và chờ đợi trong chiến tranh mà còn ca ngợi tình yêu thủy chung. Tên gọi như Hòn Trống, Hòn Mái trở thành biểu tượng của tình yêu vĩnh cửu. Những ngọn đồi xung quanh núi Hy Cương, nơi đặt đền thờ các vua Hùng, chứng tỏ lòng yêu nước và lòng thống nhất của nhân dân. Núi Bút, Non Nghiên biểu thị sự hiếu học và tinh thần chiến đấu của dân tộc Việt Nam.
Nhìn tổng thể, ta thấy rằng, nếu thiên nhiên tạo ra núi sông thì con người mới là người tạo nên linh hồn cho mỗi núi sông. Từ quan niệm nhập thể của Bụt, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh rằng nhân dân đã nhập thể vào đất nước.
Bài thơ khởi đầu bằng truyền thuyết dân gian, nhưng nổi lên trên tầm thế giới nhờ cái nhìn mới độc đáo của tư duy hiện đại. Sông núi không chỉ là khung cảnh thiên nhiên, những câu chuyện văn hóa, lịch sử không chỉ là thiêng liêng mà còn là phần của tâm hồn và máu thịt của nhân dân, là minh chứng về công lao đóng góp và sự hóa thân của nhân dân trong việc xây dựng đất nước.
“Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu cũng thấy chúng ta…”
Những cuộc đời đã biến thành núi sông của chúng ta…”
Sự tài hoa và tinh tế trong ngòi bút của Nguyễn Khoa Điềm làm sống lại thời gian và không gian mênh mông. Ông muốn khẳng định rằng, sự kiên định và lặng lẽ trước thời gian và không gian chính là bản chất của sự sống của nhân dân.
Đoạn thơ này là một biểu hiện cảm xúc thiêng liêng về sự đóng góp và sự hóa thân của nhân dân trong việc tạo ra văn hóa, lịch sử và tinh thần của dân tộc. Điều này giúp kết nối tâm hồn của con người qua các thế hệ.
Phân tích đoạn 3 Đất nước - mẫu 4
Tác phẩm “Đất nước” là một phần của tập hùng ca “Mặt đường khát vọng” trong chương V. Được sáng tác vào năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên, đây là thời kỳ kháng chiến sôi nổi của quân và dân ta. Bài thơ này như một lời nhắn nhủ sâu sắc dành cho thế hệ trẻ miền Nam về nhiệm vụ của họ đối với đất nước.
“Anh và em hôm nay
Cùng chia sẻ một phần Đất Nước
……
Để tạo nên Đất Nước vĩ đại”
Trong hai khổ thơ đầu, nhà thơ nói về tình cảm quân dân, tình đoàn kết gia đình. Qua đó, chúng ta hiểu được nguồn gốc của đất nước, Ai đã tạo ra đất nước, đất nước là gì. Ở đoạn 3, Nguyễn Khoa Điềm gói gọn trách nhiệm của mỗi người đối với Đất nước.
Hình ảnh đất nước hiện lên quen thuộc và gần gũi. Vẻ đẹp của con người là sự kết hợp và tương tác với đất nước. Nhà thơ khẳng định mỗi người dân đều mang một phần của đất nước. Từ đó, người đọc sẽ hiểu sâu hơn về tình cảm gắn bó của mỗi người với đất nước. Sự gắn kết đó được thể hiện trong từng cử chỉ, sinh hoạt hàng ngày, truyền thống văn hóa với sự yêu thương thấm đẫm.
“Khi hai đứa nắm tay nhau
Trái tim Đất Nước trong ta hòa quyện ngọt ngào”.
Ý tưởng về tình yêu Đất Nước được Nguyễn Khoa Điềm nhấn mạnh từ đầu bài thơ Đất nước và tiếp tục phát triển trong đoạn thứ ba. Phân tích Đất Nước ở đoạn 3 để hiểu rõ hơn về tình yêu và trung thành với Đất Nước. Tình yêu quê hương là nền tảng của tình yêu đôi lứa, tạo nên một tình yêu toàn diện và tuyệt vời. Mỗi người đều có trách nhiệm xây dựng quê hương của mình để đóng góp vào sự phát triển của đất nước. Sự đoàn kết và kết nối trong cộng đồng là quan trọng để xây dựng một đất nước vững mạnh. Mục tiêu cuối cùng là xây dựng một đất nước đoàn kết toàn dân, nơi mọi người cùng chia sẻ niềm bình yên và lớn mạnh.
Hình ảnh “Khi hai ta nắm tay nhau” cũng nhắc nhở về cội nguồn, tổ tiên của chúng ta. Chúng ta đều chia sẻ một cội nguồn chung - Con Rồng cháu Tiên. Nguyễn Khoa Điềm muốn gửi đi thông điệp về việc nhớ về nguồn gốc và truyền lại tình yêu, hy vọng cho thế hệ sau:
“Ngày mai con chúng ta trưởng thành
Sẽ mang tình yêu đất nước đi xa
Qua những kỷ niệm tươi đẹp”
Qua phân tích đoạn 3 của bài thơ Đất Nước, chúng ta có thể thấy rằng, tuổi trẻ là nguồn năng lượng sáng tạo của đất nước. Họ là hy vọng của tương lai, mang trên vai trọng trách phát triển quê hương. Với trí thông minh và tinh thần bất khuất, những người trẻ sẽ đem lại triển vọng tươi sáng cho đất nước. Điều này là trách nhiệm chung của mỗi công dân Việt Nam trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước.
Phân tích đoạn 3 của bài thơ Đất nước - mẫu 5
Đất Nước được hình thành từ tâm hồn, từ linh hồn của mỗi người con dân đã hiến dâng vào đó tình yêu và máu thịt của mình. Đoạn thơ thứ ba là sự kết hợp giữa lập luận sắc bén và trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm, giúp độc giả hiểu rõ hơn về nguồn gốc của Đất Nước.
“Những người phụ nữ nhớ chồng đã đóng góp cho Đất Nước những ngọn núi Vọng Phu
Cặp đôi yêu nhau đã tạo nên hòn Trống Mái
Gót chân của Thánh Gióng vượt qua, để lại trăm ao làng
Chín mươi chín con voi đã cống hiến để xây dựng Đất tổ Hùng Vương
Những rồng ngủ yên bên bờ dòng sông xanh mịn
Bạn học nghèo hiến dấu ấn cho đất nước ở núi Bút, non Nghiên.
Cóc, gà quê hương cùng góp phần làm Hạ Long trở thành điểm du lịch đẹp nhất
Những người dân đã để lại dấu ấn tại Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở khắp nơi trên ruộng đồng và dốc bãi
Không chỉ có hình dạng, ước mơ hay cách sống của ông bà
Điềm đã thể hiện một cách độc đáo và mới lạ trong tác phẩm của mình. Viết về những danh lam thắng cảnh, những nét đẹp tự nhiên của đất nước, đã trở thành một đề tài quen thuộc, được nhiều người khám phá. Tuy nhiên, điều mới mẻ ở Điềm chính là cách anh nhìn nhận vấn đề. Anh không chỉ nhìn thấy vẻ đẹp của thiên nhiên mà còn nhìn thấu vào bản chất sâu sắc hơn, để khám phá những câu chuyện văn hóa, lịch sử, và truyền thống ẩn chứa trong từng địa danh. Điềm đã đào sâu vào lòng đất, tìm kiếm những giá trị văn hóa tiềm ẩn và lưu giữ chúng qua bao thế hệ.
Trong hành trình tìm câu trả lời về bí mật của Đất Nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không chỉ mang đến cái nhìn sâu sắc mà còn làm mới cách cảm nhận. Dáng núi sông không chỉ là sự hiện hóa của thiên nhiên mà còn là biểu tượng của tâm hồn con người. Từ những trải nghiệm cá nhân, mỗi cá thể đã tạo nên một hình ảnh, một ước mơ, một phong cách sống nhất định. Câu chuyện về hòn Vọng Phu không chỉ là câu chuyện của sự chờ đợi trong cuộc chiến, mà còn là biểu tượng của tình yêu vợ chồng mãi mãi. Cách gọi tên Hòn Trống, Hòn Mái qua góc nhìn của nhà thơ trở thành biểu tượng của tình yêu vĩnh cửu. Những đồi thấp xung quanh núi Hy Cương, nơi đền thờ các vua Hùng, chứng minh lòng dân tộc đồng lòng hướng về một quốc gia thống nhất. Núi Bút, non Nghiên là biểu tượng của Đất Nước với truyền thống hiếu học, lòng yêu nước sâu sắc.
Tóm lại, nếu thiên nhiên tạo ra hình dạng của núi sông, thì chỉ có nhân dân mới tạo ra linh hồn cho chúng. Dựa trên quan điểm hóa thân của Phật giáo, Nguyễn Khoa Điềm đã chứng minh vai trò của nhân dân trong việc tạo dựng Đất Nước.
Đoạn thơ không chỉ lấy cảm hứng từ truyền thống dân gian mà còn kết hợp với tư duy hiện đại, tạo nên cái nhìn mới lạ. Núi sông không chỉ đơn giản là cảnh đẹp thiên nhiên mà còn là biểu tượng của tâm hồn dân tộc. Câu chuyện lịch sử không chỉ là những trang sử thiêng liêng mà còn là phần thể hiện sự đóng góp của nhân dân vào việc xây dựng Đất Nước.
“Đất Nước ơi, sau bao năm tháng ta vẫn luôn nhìn thấy”
Những cuộc đời đã hóa thành núi sông của chúng ta…”
Bằng ngòi bút tài tình, Nguyễn Khoa Điềm đã tái hiện lịch sử và không gian mênh mông. Anh muốn thể hiện sự bền bỉ, kiên trì của nhân dân cùng với thời gian, trong không gian vô hạn của cuộc sống.
Đoạn thơ thể hiện niềm tự hào về sự đóng góp của nhân dân vào văn hóa, lịch sử, và tâm hồn dân tộc. Đồng thời, nó cũng góp phần gắn kết tâm hồn của con người qua các thế hệ.