1. Bài tham khảo số 1
Nguyễn Du, nhà văn thiên tài và tác giả tài năng của Việt Nam, để lại dấu ấn lâu dài qua tác phẩm lớn nhất của mình - Truyện Kiều. Trích đoạn 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' là một trong những phần đặc sắc nhất của tác phẩm, tạo nên bức tranh cảnh ngộ đầy cảm xúc.
Sau những biến cố đau lòng, Kiều phải hy sinh tình cảm để báo hiếu. Gặp phải mưu đồ của Mã giám Sinh, nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Đoạn thơ mở đầu mô tả cảnh ngộ rộng lớn với biển cả và đồng cỏ bên bờ, nhưng lầu Ngưng Bích là nơi hẹp hòi, cô đơn giữa biển khơi, tạo nên tâm trạng u sầu:
'Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng'
Không gian và thời gian đóng kín khiến Kiều trở nên buồn tủi, cô đơn, thấp thoáng nhớ về quê hương và người thân. Những lời thơ diễn đạt tình cảm sâu sắc, thể hiện lòng trung hiếu và tình thương da diết.
Cảnh hoàng hôn cuối cùng tạo ra bức tranh buồn, với cảm giác mất mát và lạc lõng:
'Buồn trông cửa biển chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ dầu dầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi'
Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh phong phú, tạo nên một đoạn thơ đẹp và sâu sắc về cảm xúc và tâm trạng của Kiều trong lầu Ngưng Bích.
Đoạn trích này là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc, thể hiện tài năng văn chương của Nguyễn Du và làm xao lòng người đọc.


2. Bài tham khảo số 3
Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du tài tình miêu tả cảnh ngụ tình, đặc biệt là đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích, nơi nàng phải đối mặt với sự cô đơn và khổ đau.
Không gian lầu Ngưng Bích được tác giả mô tả với sự trống vắng và tĩnh lặng:
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
Lầu Ngưng Bích, mặc dù rộng lớn, lại trở nên vô tri với cảnh vật trống trải và tĩnh lặng. Nàng Kiều sống một mình ở đây, chất chứa những tâm tư buồn đau và sự cô đơn. Đoạn thơ thể hiện sự nhỏ bé và cô đơn của con người giữa vẻ đẹp bát ngát của thiên nhiên.
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ”
Cảnh đêm dần về, lầu Ngưng Bích bước vào khoảnh khắc lặng lẽ, nhưng đầy ẩn chứa sự buồn tủi của Kiều. Mây sớm và đèn khuya làm tăng thêm cảm giác trống trải và thời gian dần trở thành gánh nặng khó khăn. Đoạn thơ vẽ lên bức tranh u uất, gióng lên niềm đau lòng và cảm xúc khó diễn đạt của Thúy Kiều.
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy năng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Nỗi xót xa của Kiều càng trở nên sâu sắc khi nghĩ về cha mẹ già yếu. Đoạn thơ làm nổi bật tình cảm hiếu thảo của nàng, những lo âu và lo lắng cho cha mẹ. Cảnh sân Lai cách xa, có lẽ, là biểu tượng cho sự chia cách giữa con và cha mẹ, điều mà Kiều không thể làm gì được.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới xa
Hoa trôi man mác biết là về đâu”
Cảnh chiều buồn bã, thuyền xa xa mờ nhòe, cùng với hoa trôi nước man mác, tạo nên bức tranh u buồn và sâu lắng. Thúy Kiều đối mặt với sự cô đơn, chia cách và nỗi đau trong khoảnh khắc bất hạnh của mình.


3. Bài tham khảo số 2
Thúy Kiều trải qua những cảm xúc phong phú khi lạc bước tại lầu Ngưng Bích, nơi đọng lại bao nỗi buồn, hình ảnh lầu cao giữa vẻ non xa, trăng gần ở chung làm nổi bật tâm trạng cô đơn, bẽ bàng của nàng.
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
Nỗi buồn bùng cháy trong từng câu thơ, từng hình ảnh mô tả không gian mênh mông. Bút pháp tinh tế của Nguyễn Du làm cho cảnh ngụ tình trở nên sống động, kết hợp âm nhạc nhẹ nhàng của từng dòng thơ tạo nên bức tranh tâm trạng tuyệt vời.
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
Sự chia tay không chỉ nằm ở tình cảnh lầu Ngưng Bích mà còn ẩn sau những dòng thơ nhẹ nhàng. Bức tranh u buồn của Kiều trở nên sống động khi từng hình ảnh được lồng ghép một cách tinh tế, từng từ ngữ như là những nốt nhạc êm đềm đan xen vào tâm hồn người đọc.
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Kiều nhìn về quá khứ, nhớ về Kim Trọng với nỗi đau không lời. Mỗi từ, mỗi cảm xúc đều được chạm vào một cách nhẹ nhàng, nhưng đầy sức mạnh. Sự tận hiểu về tâm trạng nhân vật làm cho đoạn trích trở nên gần gũi và chân thực.
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm”
Thương cha mẹ, lòng hiếu thảo của Kiều được thể hiện qua từng dòng thơ. Tình người, tình hiếu thảo như là những đường nét mềm mại trong bức tranh tâm hồn Thúy Kiều.
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
............
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Bức tranh lầu Ngưng Bích không chỉ có những đoạn thơ mô tả tinh tế, mà còn là một lời nhắc nhở về cuộc đời, về những nỗi buồn không lẽ. Tâm hồn Kiều rộng lớn nhưng cô đơn giữa vũ trụ bao la.
“Buồn trông cửa biển lúc chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”
“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu'
“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”
“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”
Đoạn trích không chỉ là một phần của Truyện Kiều mà còn là tâm hồn, là cảm xúc, và là bức tranh tinh tế về cuộc sống. Tác giả Nguyễn Du đã để lại một kiệt tác văn chương đẹp đẽ, là nguồn cảm hứng vô tận cho những tâm hồn yêu văn chương.


4. Đề cập đến tham khảo số 4
Nguyễn Du không chỉ thể hiện sự xuất sắc trong nghệ thuật vẽ chân dung nhân vật mà còn là người có tài năng đặc biệt trong việc mô tả thiên nhiên và hiểu sâu sắc về tâm tình, tình cảm con người. Dưới đôi bàn tay tài năng của Nguyễn Du, mỗi bức tranh đều thực hiện hai chức năng chính: thể hiện vẻ đẹp ngoại cảnh và mô phỏng tâm trạng. Tám câu thơ cuối cùng trong bài 'Kiều ở lầu Ngưng Bích' là minh chứng rõ ràng nhất cho tài năng đặc biệt này.
Sau khi bị đánh lừa và bán vào lầu xanh, Kiều phải trải qua những ngày đau khổ, tuyệt vọng. Là người coi trọng nhân phẩm, Kiều thậm chí tìm đến cái chết để thoát khỏi nỗi đau. Bị giam lỏng tại lầu Ngưng Bích dưới tay Tú Bà, Kiều sống trong sự đau đớn, tủi nhục, cô đơn, và tuyệt vọng.
Trong những khoảnh khắc cô đơn đó, dường như tâm hồn Kiều luôn hướng về gia đình. Ngay cả khi làm vợ, người con gái trong ca dao vẫn giữ lại tình cảm thân thiết và nhớ mãi về quê hương:
Chiều về đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều
Khác với họ, Kiều, người đã bán mình để cứu gia đình, nỗi nhớ về gia đình trở nên càng sâu sắc và đau đớn hơn:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Môi trường rộng lớn của cửa bể kết hợp với hình ảnh thuyền thoáng qua phía xa, tạo ra một không khí ảm đạm, hẻo lánh. Cánh buồm trở nên nhỏ bé giữa không gian rộng lớn ấy, giống như thân phận lênh đênh của nàng trong cuộc sống bất định. Tuyệt vọng, nỗi buồn chán trở nên rõ ràng hơn trong mắt Kiều. Mọi thứ trở nên u sầu, nặng nề hơn.
Sau cảm giác buồn bã và nhớ nhà, nàng chuyển sang nghĩ về bản thân mình và nỗi đau lớn hơn: Buồn trông ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu? Hình ảnh của 'hoa trôi' trở thành biểu tượng cho thân phận của Kiều. Ngọn nước mới sa đại diện cho sức mạnh mạnh mẽ, là những thách thức và gian nan trong cuộc sống đã làm chìm cuộc đời nàng. Những bông hoa trôi nổi man mác giống như thân phận mong manh, nhỏ bé của Kiều. Cuộc sống của nàng trôi dạt theo dòng đời, không biết tương lai sẽ đưa nàng đến đâu. Câu hỏi 'biết là về đâu' như một lời than, một lời oan trái cho số phận không công bằng. Điều này làm nổi bật thêm thân phận lẻ loi, đầy bèo bọt của nàng.
Trong tác phẩm của Nguyễn Du, sắc xanh xuất hiện nhiều lần, mang theo nhiều ý nghĩa khác nhau. Trong đoạn trích này, màu xanh mang một ý nghĩa mới: Buồn trông nội cỏ rầu rầu/ Chân mây mặt đất một màu xanh xanh. Nội cỏ chỉ hiện một màu tàn lụi và héo úa. Màu xanh chỉ làm nổi bật thêm vẻ buồn chán, chán nản trong tâm hồn Kiều. Nàng nhìn ra xung quanh để tìm kiếm sự đồng cảm, sự chia sẻ. Tuy nhiên, mọi thứ chỉ làm tăng thêm nỗi buồn u sầu, hàn gắn. Thực sự 'người buồn cảnh có vui đâu bao giờ'. Trước con mắt tuyệt vọng của nàng, mọi cảnh đẹp đều chứa đựng nỗi buồn, sự tuyệt vọng và không hy vọng. Điều này đẩy Kiều sâu hơn vào hố sâu của nỗi buồn, sự tuyệt vọng.
Hai câu thơ cuối cùng có thể xem là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, minh họa sự hoang mang và ám ảnh trong tâm hồn Kiều rất rõ ràng qua chúng:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Khung cảnh cuối cùng không chỉ là bức tranh ngoại cảnh mà còn là tâm trạng, cảnh Kiều tưởng mình không ngồi trong lầu Ngưng Bích mà đang đối diện với biển khơi rộng lớn, xung quanh là tiếng sóng biển vang vọng như muốn đưa nàng chìm sâu vào đại dương. Đặc biệt từ từ 'ầm ầm' diễn tả không chỉ khung cảnh khủng khiếp mà còn truyền đạt cảm xúc buồn bã, hoảng loạn của Kiều. Nàng đang dự cảm những cơn bão của số phận, chuẩn bị bùng nổ và hủy hoại cuộc sống của mình.
Đoạn thơ đã tận dụng bản lĩnh nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, mỗi cảnh là một tâm trạng, là một nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng. Không chỉ vậy, Nguyễn Du còn sử dụng trình tự mô tả hợp lý: từ xa đến gần, màu sắc từ nhạt nhòa đến đậm nét, minh họa rõ nỗi đau da diết của Kiều. Việc sử dụng hình ảnh ẩn dụ tinh tế, cùng với lớp từ ngữ giàu giá trị tạo nên bức tranh sống động và diễn đạt tốt cảm xúc. Tất cả những điểm này đều góp phần tạo nên thành công cho đoạn trích này.
Tám câu thơ cuối cùng, một kiệt tác của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Nguyễn Du đã thành công trong việc minh họa những trạng thái tinh thần, nỗi cô đơn, lo sợ và hy vọng cho nàng Kiều. Không chỉ vậy, qua bức tranh này, Nguyễn Du cũng thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc với số phận của nàng và đồng cảm với tình hình của phụ nữ dưới thời phong kiến.

