Hãy cùng khám phá phân tích khổ thơ thứ 4 – khổ thơ cuối cùng trong bài Viếng lăng Bác, để hiểu rõ hơn về tình cảm của tác giả và lòng tôn kính của người dân miền Nam dành cho cha già yêu quý của dân tộc trong bài thơ “Viếng lăng Bác”.
I. Giới thiệu
II. Nội dung chính
Tổng quan về bài thơ
Bài thơ Viếng Lăng Bác được sáng tác bởi nhà thơ Viễn Phương vào năm 1976, sau sự kiện thống nhất đất nước và việc hoàn thành xây dựng lăng Bác.
Phân tích chi tiết nội dung khổ thơ cuối
Trong khổ thơ kết, tác giả thể hiện sự đồng cảm mạnh mẽ:
“Ngày mai trở về miền Nam, lòng đau thương đầy nước mắt”
“Bác hãy để lại tình thương cho chúng con”
“Một cuộc đời trong sạch không phải là về vàng bạc”
Từ từ “thương” cũng là cách biểu hiện sâu sắc của nỗi đau vì sự mất mát của người cha già kính yêu, nước mắt không thể cầm nén, không chỉ của dân tộc Việt Nam. Nỗi đau và sự thương tiếc của cả dân tộc đối với Bác làm rưng rức lòng người:
“Nhiều đêm dài đau thương khi tiễn biệt
Cuộc sống chảy nước mắt như trời mưa tuôn”
=> Câu thơ này chân thành, chân thật thể hiện những nỗi đau sâu thẳm đã bị kìm lại đến lúc chia tay, và bùng nổ thành dòng lệ bi thương
Tác giả cũng thể hiện nguyện vọng của mình:
“Muốn trở thành chim hót vòng quanh lăng Bác
Muốn trở thành đóa hoa tỏa hương nơi này
Muốn trở thành cây tre trung hiếu hạnh ở đây”
Với tình cảm ấm áp và xúc động, tác giả mong muốn được biến thành những hình tượng vĩnh cửu bên Bác:
Ao ước trở thành chim hót quanh lăng Bác.
Ao ước trở thành đóa hoa tỏa hương tại đó.
Ao ước trở thành cây tre trung hiếu ở nơi này.
Từ “ao ước trở thành” được lặp lại ba lần kèm theo các hình ảnh liên tục của con chim, đoá hoa và cây tre, để thể hiện lòng mong ước chân thành và khát vọng của tác giả muốn Bác Hồ yên lòng và đền đáp công ơn vô biên của Người.
=> Nguyện vọng của tác giả không chỉ chân thành và sâu sắc, mà còn phản ánh cảm xúc của hàng triệu người miền Nam trước khi rời xa lăng Bác sau mỗi lần đến thăm Người.
II. Kết bài
Nếu cảm nhận về khổ thơ của bản thân:
Khổ thơ cuối thể hiện tâm trạng lưu luyến sâu sắc của tác giả. Tác giả mong muốn mãi ở bên lăng Bác, nhưng cũng nhận ra sẽ đến lúc phải trở về miền Nam. Vì vậy, tác giả chỉ có thể gửi trọn tấm lòng bằng cách hoá thân và hòa nhập vào cảnh vật xung quanh lăng Bác, để mãi được ở bên Người.
Phân tích khổ cuối bài Viếng lăng Bác – mẫu 1
Bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời vào năm 1976, lúc đất nước hòa bình, hai miền thống nhất, nhà thơ có dịp đến thăm lăng Bác. Bài thơ thể hiện sự kính trọng và tình thương, tiếc nuối của tác giả và đồng bào miền Nam khi viếng Bác. Nhiều nhạc sĩ đã phổ nhạc bài thơ, trong đó thành công nhất là Hoàng Hiệp với cùng tên.
Khổ cuối của bài thơ thể hiện sự nhớ nhung và ước nguyện của nhà thơ sau khi viếng Bác và trở về miền Nam để tiếp tục xây dựng, bảo vệ đất nước, miền Nam kiên cường, máu lửa của tổ quốc.
“Ngày mai về miền Nam, lòng đau thương đầy nước mắt
Ao ước trở thành con chim hót vòng quanh lăng Bác
Ao ước trở thành đóa hoa tỏa hương nơi đó
Ao ước trở thành cây tre trung hiếu ở đây...
Khi phải rời miền Bắc, rời lăng Bác, nhà thơ đã không thể kìm nén được lòng mình nữa, tuôn trào nước mắt. Những khổ thơ trên đã diễn tả cảm xúc mãnh liệt, nhưng nhà thơ vẫn cố gắng kìm lại cho đến khi đến khổ thơ cuối, cảm xúc của nhà thơ đã tràn ngập và nước mắt rơi. Từ ngôn từ biểu cảm đã bộc lộ nỗi xúc động trào dâng lên đỉnh điểm.
Từ cảm xúc đó, tác giả thể hiện nguyện vọng của mình:
“Ao ước trở thành con chim hót vòng quanh lăng Bác
Ao ước trở thành đóa hoa tỏa hương nơi đó
Ao ước trở thành cây tre trung hiếu ở đây...
Từ “muốn làm” khiến nhịp thơ nhanh, dồn dập, giúp tác giả thể hiện khát vọng mãnh liệt. Khát vọng đó bộc lộ qua hình ảnh đẹp và gợi cảm “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương”, “cây tre trung hiếu”, tất cả để làm đẹp cho nơi Bác nằm, cũng như tác giả muốn dâng lên Bác những gì tinh hoa nhất của mình để Bác bình yên, thanh thản trong giấc ngủ ngàn thu.
Các từ “đâu đây”, “trong lăng”, “chốn này” nhấn mạnh thêm ước mơ của tác giả được ở mãi bên Bác, lưu luyến không muốn rời. Sự khát khao này của nhà thơ cũng là khát khao chung của rất nhiều người, bởi vì:
Khi ta ở bên người, người tỏa sáng bên ta,
Chính bên người, ta trở nên lớn lên một chút”
Viễn Phương cảm nhận được điều đó khi ở bên Bác Hồ. Ấn tượng nhất trong khổ cuối là hình ảnh “cây tre trung hiếu”. Hai hình ảnh “hàng tre” và “cây tre trung hiếu” tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng rất chặt chẽ. Nếu mỗi người là một cây tre trung hiếu thì cả dân tộc sẽ là hàng tre trung hiếu với Bác. Tác giả nhắc lại hình ảnh “cây tre” để nhấn mạnh tình cảm gắn bó, trung thành với Bác, nguyện suốt đời thực hiện lý tưởng của người và của cả dân tộc.
Từ bước chân của nhà thơ Viễn Phương từ khi đến lăng cho tới khi ra về, chúng ta nhận ra dòng cảm xúc của nhà thơ thể hiện một cách liền mạch và ngày càng phát triển. Nỗi đau dâng cao và đến khổ cuối dâng lên đỉnh điểm, nỗi đau ấy cũng chính là tiếng lòng của tất cả người dân Việt Nam.
Tác giả không có ước muốn làm điều gì cao cả, kỳ vĩ, chỉ là “con chim hót”, “đóa hoa tỏa hương”, những hình ảnh vô cùng nhỏ bé, bình dị nhưng đó là tất cả những gì tác giả muốn, miễn sao được ở bên Bác.
Với hình ảnh “cây tre” ở khổ 1 là hình ảnh bất khuất, kiên cường, thì đến khổ thơ cuối này hình ảnh “cây tre trung hiếu chốn này” là tấm lòng thành kính, trung thành của tác giả dâng lên Bác, hay nói rộng ra là tình cảm của toàn dân tộc kính dâng lên người.
Nếu ở những khổ trước, tác giả tự xưng là “con”, thì ở khổ cuối, chủ thể bị ẩn đi, không còn là tác giả nữa, mà là tất cả người con Việt Nam. Khổ cuối kết thúc với cảm giác chia ly, xa cách không chỉ về không gian và thời gian mà còn trong tâm trí và tình cảm, lòng trung hiếu.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” thể hiện lòng thành kính và xúc động của nhà thơ khi viếng lăng Bác. Bài thơ sử dụng ngôn từ giản dị nhưng trang trọng, nhiều hình ảnh ẩn dụ và gợi cảm. Đó là biểu hiện của sự tri ân, lòng biết ơn của dân chúng dành cho cha già kính yêu của dân tộc, người đã hy sinh cả đời cho sự nghiệp cách mạng.
Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác – mẫu 2
Sau bao nhiêu cảm xúc trong lần đầu tiên đến viếng cha, giờ đây là lúc phải nói lời tạm biệt. Cảm xúc của nhà thơ Viễn Phương đã được thể hiện qua khổ thơ cuối của bài thơ “Viếng lăng Bác” với những ước nguyện thành kính.
Bài thơ ra đời vào năm 1976, ngay sau cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc, khi đất nước thống nhất và lăng chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành. Tác giả đến thăm miền Bắc và viếng lăng Bác Hồ. Bài thơ thể hiện sự thành kính, lòng biết ơn và tự hào kết hợp với nỗi xót xa của tác giả từ miền Nam khi viếng lăng Bác. Cuộc hành trình đó đã đến lúc phải kết thúc với những dòng thơ đầy xúc động:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
Đây là lời giã biệt đầy nghẹn ngào của người con phải rời xa cha lần nữa. Lời này diễn tả tình cảm sâu sắc của nhà thơ dành cho Bác và của tất cả mọi người khi phải rời xa lăng. Từ “trào” biểu lộ cảm xúc mãnh liệt, luyến tiếc, bịn rịn không muốn rời xa nơi Bác nghỉ. Đó chính là tâm trạng của hàng triệu con tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người quá ấm áp, quá lớn lao. Nhưng dù muốn hay không, giây phút ngắn ngủi được gặp Bác cũng vô cùng thiêng liêng. Đã đến lúc dòng người vào lăng viếng Bác phải ra về.
Trong cảm xúc nghẹn ngào đó là những ước nguyện thành kính của Viễn Phương, cũng như mong ước chung của những người đã hoặc chưa từng gặp Bác:
“Muốn trở thành con chim hót quanh lăng Bác
Muốn trở thành đóa hoa tỏa hương ở nơi này
Muốn trở thành cây tre trung hiếu trong chốn này”
Những ước nguyện của nhà thơ thật đáng quý biết bao! Nhà thơ mong muốn trở thành con chim hót để mang âm thanh của thiên nhiên, đẹp đẽ, trong lành đến với nơi Bác nghỉ. Tác giả muốn trở thành một đóa hoa tỏa hương thơm cao quý ở đây. Muốn trở thành một cây tre trung hiếu giữ cho giấc ngủ bình yên của Người. Hình ảnh cây tre thật sự đẹp và được kết thúc một cách khéo léo ở cuối bài thơ. Ở đầu bài thơ, nhà thơ mở đầu bằng hình ảnh hàng tre, đó là biểu tượng cho con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Nhưng kết thúc bài thơ là hình ảnh cây tre trung hiếu canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác. Cây tre như một người lính trung thành, hàng ngày, ngày đêm vẫn đứng ở đó. Hình ảnh cây tre đã tạo nên kết cấu đầu cuối tương ứng. Từ “Muốn trở thành” được nhắc lại ba lần biểu hiện trực tiếp và gián tiếp tâm trạng lưu luyến, ước muốn và sự tự nguyện chân thành của tác giả. Ước nguyện đó được bộc lộ từ tận sâu đáy lòng của nhà thơ Viễn Phương.
Tâm trạng lưu luyến cuối cùng trong bài Viếng lăng Bác thể hiện mong muốn của nhà thơ ở mãi bên lăng Bác, không muốn rời xa nơi Bác yên nghỉ. Đồng thời, đó cũng là ước nguyện của Viễn Phương, muốn sống một cuộc đời đẹp để trở thành những bông hoa dâng lên Bác.
Phân tích khổ thơ cuối bài Viếng lăng Bác ngắn nhất – mẫu 3
Khổ cuối (khổ thơ thứ tư) là cảm xúc của nhà thơ khi ra về. Nhà thơ lưu luyến muốn được ở mãi bên lăng Bác. Lòng nhớ thương, đau xót kìm nén đến giờ phút chia tay đã vỡ òa thành nước mắt: “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”. Tình cảm chắp cánh cho ước mơ, nhà thơ muốn được hóa thân, hòa nhập vào cảnh vật ở bên lăng Bác:
Muốn trở thành con chim hót quanh lăng Bác
Muốn trở thành đóa hoa tỏa hương ở nơi này
Muốn trở thành cây tre trung hiếu trong chốn này.
Hình ảnh cây tre được lặp lại tạo nên ấn tượng sâu sắc và làm cho dòng cảm xúc trở nên trọn vẹn. Cây tre khách thể đã hoà nhập với cây tre chủ thể, thể hiện lòng kính yêu và trung thành vô hạn với Bác, mãi mãi đi theo con đường của Người. Các từ điển ngữ “muốn làm” cùng với các hình ảnh thơ đồng hành tạo nên một bản nhạc thơ dồn dập, tha thiết, diễn tả tình cảm, khát vọng dâng trào mãnh liệt. Bài thơ có vẻ kết thúc trong sự xa cách về không gian, nhưng lại tạo ra sự gần gũi trong tình cảm, ý chí. Đây cũng là những tình cảm chân thành của mỗi người khi viếng thăm Bác, đặc biệt là những người con miền Nam, luôn xa cách về không gian, cũng như của những ai chưa từng đặt chân đến lăng Bác nhưng lòng vẫn chân thành hướng về Người.
Dù Bác đã ra đi, nhưng Bác sẽ mãi sống trong trái tim của Viễn Phương và nhân dân Việt Nam. Ước nguyện cao cả được hiện thân để được bên Bác cũng là ước nguyện tuyệt vời nhất, chứa đựng trọn vẹn tấm lòng trân quý của nhân dân ta.
Phân tích khổ thơ thứ tư của bài Viếng lăng Bác – mẫu 4
Bài thơ Viếng lăng Bác đã thể hiện nỗi xúc động sâu sắc, lòng biết ơn của Viễn Phương – một nhà thơ miền Nam khi lần đầu đặt chân vào Hà Nội và tham gia vào hàng ngàn người viếng lăng Bác. Cấu trúc của bài thơ như một hành trình mô tả những khoảnh khắc khi tác giả đứng trước lăng, xếp hàng, và đối diện với di hài của Bác. Khổ thơ cuối cùng của bài thơ là một dấu lặng kết thúc hành trình đó, bộc lộ niềm lưu luyến của Viễn Phương khi tạm biệt Bác để trở về miền Nam.
Ngày trở về miền Nam, lòng đầy nước mắt
Ước ao làm con chim hót quanh lăng Bác
Ước ao làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Ước ao làm cây tre trung hiếu chốn này.
Dòng thơ đầu tiên như một đợt cảm xúc mãnh liệt tràn đầy, như những giọt nước mắt không ngừng chảy từ đôi mắt: “Ngày trở về miền Nam, lòng đầy nước mắt”. Chỉ một từ “nước mắt” đủ để thể hiện biết bao tình thương, xót xa và lòng kính trọng của người miền Nam. Câu thơ như một tiếng lòng thổn thức, đầy xót xa tận cùng.
Tiếc nuối và nhớ nhung vẫn hiện hữu, và từ đó, nhân vật trữ tình giã biệt vẫn mang theo niềm xao xuyến, diễn tả ước muốn cá nhân:
Ước ao làm con chim hót quanh lăng Bác
Ước ao làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Ước ao làm cây tre trung hiếu chốn này.
Điệp ngữ “muốn làm” lặp đi lặp lại ba lần, cùng với nhịp thơ dồn dập, thể hiện lòng khát khao chân thành, tha thiết của tác giả. Muốn trở thành con chim hót, đóa hoa tỏa hương, cây tre trung hiếu, tất cả đều là những sự vật giản dị, gần gũi với thiên nhiên. Muốn làm con chim để mang tiếng hót vui vẻ đến với Bác, làm đóa hoa để tỏa hương tô điểm cuộc đời, đặc biệt là cây tre biểu tượng cho vẻ đẹp thủy chung, son sắt của người Việt. Hình ảnh cây tre ở đầu bài thơ được nhấn mạnh như một lời thề sắt son của nhà thơ, cũng như lòng trung thành của nhân dân Việt Nam. Mai trở về miền Nam, tấm lòng chân thành đã được gửi trọn vẹn nơi lăng Bác. Ba câu thơ không chủ ngữ ấy như là lời đại diện cho hàng triệu người Việt bày tỏ lòng thành kính, tha thiết đối với lãnh tụ.
Toàn bộ bài thơ là tiếng lòng của một người con khi đến thăm lăng Bác, và đặc biệt cảm xúc ấy được tập trung vào khổ thơ cuối cùng. Dù Bác đã ra đi, nhưng Bác sẽ mãi sống trong trái tim của Viễn Phương và nhân dân Việt Nam. Ước nguyện cao cả được hiện thân để ở bên Bác cũng là ước nguyện đẹp nhất, chứa đựng tấm lòng trân quý của nhân dân.